Luận văn Đình chỉ điều tra trong tố tụng hình sự

pdf 116 trang vuhoa 24/08/2022 11620
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Đình chỉ điều tra trong tố tụng hình sự", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_dinh_chi_dieu_tra_trong_to_tung_hinh_su.pdf

Nội dung text: Luận văn Đình chỉ điều tra trong tố tụng hình sự

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐOÀN THỊ VỊNH ĐÌNH CHỈ ĐIỀU TRA TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2010
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐOÀN THỊ VỊNH ĐÌNH CHỈ ĐIỀU TRA TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ Chuyên ngành : Luật hình sự Mã số : 60 38 40 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Tất Viễn HÀ NỘI - 2010
  3. Mục lục Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các bảng Danh mục các biểu đồ Mở đầu 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐÌNH CHỈ 7 ĐIỀU TRA TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ 1.1. Khái niệm, mục đích, ý nghĩa của đình chỉ điều tra trong tố 7 tụng hình sự 1.1.1. Khái niệm 8 1.1.2. Mục đích, ý nghĩa 10 1.2. Căn cứ đình chỉ điều tra trong tố tụng hình sự 17 1.2.1. Đình chỉ điều tra theo Bộ luật hình sự 17 1.2.2. Đình chỉ điều tra theo Bộ luật tố tụng hình sự 27 1.2.2.1. Người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu 27 1.2.2.2. Khi chứng minh được vụ án có những căn cứ không được 32 khởi tố vụ án hình sự 1.2.2.3. Đã hết thời hạn điều tra mà không chứng minh được bị can 33 hoặc người nào khác đã thực hiện tội phạm 1.3. Thẩm quyền, thủ tục đình chỉ điều tra và các quan hệ pháp 35 luật tố tụng hình sự phát sinh khi đình chỉ điều tra 1.3.1. Thẩm quyền đình chỉ điều tra 35 1.3.2. Thủ tục đình chỉ điều tra 38 1.3.3. Các quan hệ pháp luật tố tụng hình sự phát sinh khi đình chỉ 39 điều tra
  4. Chương 2: Các quy định pháp luật về đình chỉ điều tra 42 và thực tiễn áp dụng 2.1. Các quy định pháp luật về đình chỉ điều tra 42 2.1.1. Giai đoạn 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật tố tụng hình 42 sự năm 1988 2.1.2. Căn cứ pháp luật về đình chỉ điều tra theo quy định Bộ luật 44 tố tụng hình sự năm 1988 2.1.3. Các quy định pháp luật về đình chỉ điều tra trong Bộ luật tố 53 tụng hình sự năm 2003 2.2. Các quy định pháp luật về đình chỉ điều tra và thực tiễn áp 63 dụng 2.2.1. Tình hình đình chỉ điều tra 63 2.2.2. Đánh giá chất lượng đình chỉ điều tra trong tố tụng hình sự 66 2.2.2.1. Những kết quả đạt được trong công tác đình chỉ điều tra 66 2.2.2.2. Những hạn chế, tồn tại trong công tác đình chỉ điều tra 69 2.2.3. Nguyên nhân của những hạn chế, tồn tại 75 Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động 79 đình chỉ điều tra trong tố tụng hình sự 3.1. Quan điểm 79 3.1.1. Xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, bảo vệ công 79 lý, phụng sự nhân dân 3.1.2. Bảo đảm nguyên tắc pháp chế trong tố tụng hình sự 80 3.1.3. Bảo đảm quyền công dân 81 3.2. Giải pháp 83 3.2.1. Hoàn thiện pháp luật 83 3.2.2. Các giải pháp thực tiễn 89 Kết luận 102
  5. Danh mục tài liệu tham khảo 105 Danh mục các bảng Số hiệu Tên bảng Trang bảng 1.1 Những căn cứ đình chỉ điều tra miễn trách nhiệm hình sự 20 1.2 Số án đình chỉ điều tra tại thành phố Hải phòng từ năm 64 2005 - 2009 Danh mục các biểu đồ Số hiệu Tên biểu đồ Trang biểu đồ 2.1 Biểu đồ vụ án, bị can đình chỉ 63
  6. Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội bị pháp luật hình sự cấm thực hiện và là một hiện tượng có tính đa dạng thể hiện không chỉ ở các loại tội phạm mà còn ở chỗ tội phạm được thực hiện bởi những con người cụ thể với những tình tiết, diễn biến không giống nhau. Điều này dẫn đến tính chất, mức độ nguy hiểm của mỗi loại tội phạm, mỗi người phạm tội có sự cao thấp khác nhau và đương nhiên người thực hiện hành vi phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự trước Nhà nước, pháp luật. Thấm nhuần tư tưởng nhân đạo và nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa, cũng năm 1985 Bộ luật hình sự đầu tiên của nước ta ra đời và sau đó đã nhiều lần được sửa đổi bổ sung. Trong quá trình xây dựng Bộ luật hình sự luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm, chỉ đạo. Trong đó tư tưởng nhân đạo và nguyên tắc pháp chế luôn luôn được đề cao, được coi là một trong những nguyên tắc cơ bản của pháp luật hình sự. Chính vì vậy, không phải tất cả những người đã có hành vi phạm tội bị khởi tố với tư cách bị can đều bị truy tố ra tòa. Mặc dù đã thực hiện hành vi phạm tội nhưng vẫn có thể không bị truy tố nếu như họ được Cơ quan điều tra hoặc Viện kiểm sát ra quyết định đình chỉ điều tra. Chế định đình chỉ điều tra được quy định tại Điều 164 Bộ luật tố tụng hình sự: Trong trường hợp đình chỉ điều tra, bản kết luận điều tra nêu rõ quá trình điều tra, lý do và căn cứ đình chỉ điều tra. Cơ quan điều tra ra quyết định đình chỉ điều tra trong những trường hợp sau đây: 1
  7. a/ Có một trong những căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 105 và Điều 107 của Bộ luật này hoặc tại Điều 19, Điều 25 và khoản 2 Điều 69 của Bộ luật hình sự. b/ Đã hết thời hạn điều tra mà không chứng minh được bị can đã thực hiện tội phạm. [22]. Như vậy, đình chỉ điều tra là việc Cơ quan điều tra chấm dứt toàn bộ hoạt động điều tra đối với vụ án hình sự cũng như đối với bị can khi có các căn cứ của pháp luật quy định. Theo số liệu thống kê của Viện kiểm sát nhân dân tối cao về đình chỉ điều tra cho thấy: Năm 2005 cả nước đình chỉ điều tra 1.205 vụ/ 1.718 bị can; năm 2006 là 1.482 vụ/ 1.859 bị can so với năm 2005 tăng 277 vụ và 141 bị can; năm 2007 đình chỉ 1.461 vụ/ 1.836 bị can, số vụ và bị can có giảm so với năm 2006 là 21 vụ/ 23 bị can; tuy nhiên đến năm 2008 số án đình chỉ điều tra lại tăng, số đình chỉ là 1.470 vụ/ 1.904 bị can và 6 tháng đầu năm 2009 là 682 vụ/ 846 bị can. Chế định đình chỉ điều tra là biểu hiện rõ nét nhất của nguyên tắc nhân đạo và phỏp chế trong pháp luật hình sự. Đúng với tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt của Đảng và Nhà nước: "Truy tố cũng được, không truy tố cũng được thì không truy tố". Tuy nhiên, trong khoa học luật hình sự, tố tụng hình sự Việt Nam, chế định đình chỉ điều tra vẫn chưa được quan tâm, nghiên cứu một cách sâu sắc, đầy đủ có hệ thống và toàn diện. Chẳng hạn như việc đình chỉ điều tra do miễn trách nhiệm hình sự thì hàng loạt các vấn đề như khái niệm pháp lý về miễn trách nhiệm hình sự, hậu quả pháp lý của việc miễn trách nhiệm hình sự; thế nào là do sự chuyển biến tình hình mà hành vi phạm tội hoặc người phạm tội không còn nguy hiểm nữa, căn cứ áp dụng, thủ tục đình chỉ, thẩm quyền đình chỉ điều tra của các cơ quan được giao một số nhiệm vụ điều tra đều 2
  8. chưa được pháp luật ghi nhận Bên cạnh đó nhìn từ góc độ thực tiễn thì hoạt động đình chỉ điều tra còn có những mặt chưa thực sự chuyển biến. Mặc dù Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát đã có nhiều tiến bộ trong việc giảm số lượng án đình chỉ, nhất là những vụ đình chỉ điều tra vì bị can không phạm tội hoặc không đủ chứng cứ buộc tội cũng như giảm bớt số vụ đình chỉ sai. Song hiện nay số vụ và số bị can phải đình chỉ vẫn chiếm tỷ lệ cao đặc biệt số bị can phải đình chỉ vì không có sự kiện phạm tội, hành vi không cấu thành tội phạm vẫn xảy ra. Có trường hợp bị can bị tạm giam sau đó được Cơ quan điều tra đình chỉ. Thậm chí nhiều địa phương do đánh giá tính chất, mức độ hành vi của người phạm tội không đúng nên đình chỉ cả những vụ án bị can mà pháp luật không cho phép đình chỉ. Do vậy, Viện kiểm sát nhân dân đã hủy bỏ nhiều quyết định đình chỉ điều tra không có căn cứ để đưa ra truy tố, xét xử trước pháp luật. Đây là thực trạng đáng lo ngại cần có giải pháp khắc phục nhằm tránh làm oan người vô tội, bỏ lọt tội phạm. Xuất phát từ những lý do trên tôi thực hiện đề tài: "Đình chỉ điều tra trong tố tụng hình sự". Thông qua việc khảo sát, nghiên cứu để đưa ra ý kiến đánh giá về thực trạng đình chỉ điều tra hiện nay. Nêu lên những kết quả cơ bản đã đạt được cũng như những hạn chế, thiếu sót, tồn tại khi áp dụng chế định đình chỉ điều tra của cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền. Từ đó đưa ra những kiến nghị, giải pháp nhằm góp phần nâng cao chất lượng, đảm bảo việc đình chỉ điều tra đúng với các quy định của pháp luật mà mục đích cuối cùng là không để xảy ra oan, sai và không để lọt tội phạm. 2. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng, phạm vi và thời gian nghiên cứu của luận văn. 2.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích của luận văn là làm rõ những vấn đề lý luận về đình chỉ điều tra trong tố tụng hình sự và việc áp dụng các quy định pháp luật về đình chỉ điều tra trong thực tiễn. Đề xuất các giải pháp góp phần nâng cao chất lượng công tác đình chỉ điều tra. 3
  9. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn đặt ra các nhiệm vụ nghiên cứu sau: Về mặt lý luận: Trên cơ sở nghiên cứu quy định của pháp luật với hoạt động đình chỉ điều tra trong pháp luật hình sự và tố tụng hình sự, phân tích khái niệm, căn cứ đình chỉ của Cơ quan điều tra. Về mặt thực tiễn: Nghiên cứu, đánh giá việc áp dụng các căn cứ đình chỉ điều tra, việc kiểm sát đình chỉ điều tra của Viện kiểm sát nhân dân trong thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự và tố tụng hình sự ở nước ta. Đồng thời phân tích những ưu điểm, tồn tại xung quanh quy định về đình chỉ điều tra và thực tiễn. Đưa ra các giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng các quy phạm về đình chỉ điều tra trong pháp luật hình sự, tố tụng hình sự Việt Nam. 2.3. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hoạt động đình chỉ điều tra của Cơ quan điều tra; kiểm sát hoạt động đình chỉ điều tra của Viện kiểm sát nhân dân theo quy định của pháp luật hình sự và tố tụng hình sự Việt Nam. 2.4. Phạm vi nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu về việc đình chỉ điều tra của Cơ quan điều tra, kiểm sát đình chỉ điều tra của Viện kiểm sát nhân dân. Không đề cập đến hoạt động đình chỉ điều tra vụ án của Viện kiểm sát, Tòa án cũng như Viện kiểm sát, Tòa án quân sự. Về thời gian, luận văn nghiên cứu thực tiễn áp dụng quy định về đình chỉ điều tra các vụ án hình sự giai đoạn từ năm 2005 - 2009. 3. Cơ sở lý luận và các phương pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận của luận văn là quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về đấu tranh 4
  10. phòng và chống tội phạm, cũng như thành tựu của các chuyên ngành khoa học pháp lý khác. Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: Lịch sử, so sánh, phân tích, tổng hợp, thống kê 4. Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận văn Đây là một trong những công trình chuyên khảo trong khoa học luật hình sự, tố tụng hình sự Việt Nam nghiên cứu một cách có hệ thống những vấn đề lý luận và thực tiễn về đình chỉ điều tra với cấp độ là một luận văn thạc sĩ. Luận văn đã giải quyết về mặt lý luận những vấn đề sau: 1) Phân tích một cách có hệ thống những vấn đề lý luận về đình chỉ điều tra: mục đích, ý nghĩa, căn cứ và hậu quả đình chỉ điều tra thông qua hoạt động đình chỉ của Cơ quan điều tra và kiểm sát đình chỉ điều tra của Viện kiểm sát nhân dân. 2) Phân tích các trường hợp đình chỉ điều tra của Cơ quan điều tra theo quy định của Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành. Đồng thời đánh giá tổng thể những tồn tại xung quanh việc quy định đình chỉ điều tra trên phương diện lý luận và lập pháp hình sự. Những nguyên nhân của thực trạng này để tìm ra giải pháp khắc phục và nâng cao hiệu quả công tác đình chỉ điều tra, phục vụ yêu cầu thực tiễn cũng như công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm. 5. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Về mặt lý luận: Đây là công trình nghiên cứu chuyên khảo đồng bộ đề cập một cách có hệ thống và toàn diện những vấn đề lý luận và thực tiễn về đình chỉ điều tra theo luật hình sự, tố tụng hình sự Việt Nam ở cấp độ một luận văn thạc sĩ luật học với những đóng góp về mặt khoa học đã nêu trên. Về mặt thực tiễn: Luận văn góp phần vào việc xác định đúng đắn những điều kiện cụ thể của từng trường hợp đình chỉ điều tra trong thực tiễn điều tra của các cơ quan tiến hành tố tụng. Đưa ra các giải pháp hoàn thiện 5
  11. các quy định đình chỉ điều tra ở khía cạnh lập pháp, cũng như việc áp dụng chúng trong thực tiễn. Ngoài ra, luận văn còn có ý nghĩa làm tài liệu tham khảo lý luận cần thiết cho các cán bộ thực tiễn và các sinh viên, học viên cao học chuyên ngành tư pháp hình sự, cũng như phục vụ cho công tác lập pháp và hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự trong việc đấu tranh phòng và chống tội phạm ở nước ta hiện nay. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về đình chỉ điều tra trong tố tụng hình sự. Chương 2: Các quy định pháp luật về đình chỉ điều tra và thực tiễn áp dụng. Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động đình chỉ điều tra trong tố tụng hình sự. 6
  12. Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐÌNH CHỈ ĐIỀU TRA TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ 1.1. Khái Niệm, Mục Đích, ý Nghĩa của Đình Chỉ Điều TRA TRONG Tố Tụng Hình Sự Trong thực tiễn, các hình thức biểu hiện của tội phạm rất đa dạng, không giống nhau một cách tuyệt đối từ hành vi, tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội, hình thức lỗi, không gian, thời gian, địa điểm, hoàn cảnh, công cụ, phương tiện phạm tội Chính vì vậy pháp luật đã phân hóa và cá thể hóa hình phạt các loại tội phạm có tính chất ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng. Tùy theo từng loại tội phạm có khung hình phạt áp dụng tương ứng, phù hợp như đối với tội ít nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt là đến ba năm tù. Hay đối với tội phạm nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt là đến bảy năm tù Việc phân biệt các tội phạm với nhau có ý nghĩa với việc áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự, luật tố tụng hình sự cũng như điều tra, truy tố và đưa ra xét xử, áp dụng mức hình phạt tương ứng với mỗi loại tội phạm thể hiện sự nghiêm trị, răn đe, giáo dục và phòng ngừa tội phạm. Tuy nhiên không phải hành vi nào cũng đưa ra truy tố và xét xử. Có những trường hợp vi phạm pháp luật trong quá trình khởi tố điều tra thấy rằng hành vi đó, con người đó không còn nguy hiểm cho xã hội nữa có thể đình chỉ điều tra mà không nhất thiết phải đưa ra truy tố, xét xử và áp dụng các chế tài hình sự nghiêm khắc. Hoặc có những trường hợp người bị hại có đơn rút yêu cầu khởi tố không yêu cầu xử lý hình sự đối tượng gây án thì đình chỉ điều tra, chấm dứt mọi hoạt động tố tụng của vụ án, bị can như việc lấy lời khai bị can, bị hại, nhân chứng; kết luận giám định, nhận dạng và các quyền của bị can được 7
  13. khôi phục như những công dân khác mà pháp luật đã quy định Qua đó thể hiện đình chỉ điều tra là một chế định phản ánh chính sách phân hóa trách nhiệm hình sự và đảm bảo nguyên tắc công bằng, khách quan, nhân đạo của Nhà nước đối với việc cải tạo, giáo dục người phạm tội và phòng ngừa tội phạm. 1.1.1. Khái niệm Đứng trên bình diện nghiên cứu khoa học đã không ít những ý kiến, quan điểm khác nhau về đình chỉ điều tra. Như PGS.TS Võ Khánh Vinh cho rằng: Đình chỉ điều tra là một trong hai hình thức kết thúc hoạt động điều tra mà nội dung của nó là dựa trên những lý do và căn cứ nhất định chấm dứt mọi hoạt động nhằm phát hiện, thu thập, kiểm tra đánh giá những thông tin dùng làm chứng cứ để giải quyết vụ án hình sự. Đình chỉ điều tra được áp dụng khi quá trình điều tra vụ án mặc dù chưa đi đến chứng minh một cách chắc chắn rằng vụ việc xảy ra nhưng có căn cứ pháp lý thấy rằng không thể truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người thực hiện những hành vi liên quan đến vụ việc đó [39, tr. 480]. Ngoài ra TS. Trần Vi Dân có quan điểm cho rằng: Đình chỉ điều tra là việc Cơ quan điều tra chấm dứt hoạt động điều tra đối với vụ án khi có căn cứ theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự bằng việc ra quyết định đình chỉ điều tra do Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra được phân công điều tra vụ án hình sự ký ban hành [Dẫn theo: 1, tr. 348]. Bên cạnh đó có ý kiến cho rằng, đình chỉ điều tra là chấm dứt hết các hoạt động tố tụng đối với một vụ án thì đương nhiên chấm dứt cả mọi hoạt động tố tụng đối với một bị can nên không cần thiết phải ra quyết định đình chỉ điều tra đối với bị can. Đây là quan điểm hoàn toàn mới và cũng rất đúng đắn, chúng tôi nhất trí với việc đình chỉ điều tra là đương nhiên chấm dứt mọi hoạt động tố tụng đối với vụ án. Nhưng nếu chỉ dừng lại ở quyết định đình chỉ điều tra vụ án thì chưa đủ mà đình chỉ điều tra vụ án chỉ mang tính chất chung 8
  14. chung. Bởi lẽ khi một con người bị khởi tố thì tư cách tố tụng của họ là bị can, các quyền lợi ích hợp pháp của họ đã bị hạn chế. Ví dụ như bị can không thể tự do đi lại được, mà bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ, tạm giam hoặc biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú - đi đâu phải báo cáo chính quyền địa phương nơi cư trú Do vậy, nếu chỉ đình chỉ điều tra đối với vụ án thôi thì các quyền lợi của họ sẽ không được khôi phục nhất là trong những trường hợp người bị khởi tố oan, sai. Như vậy, trường hợp vụ án có bị can đã bị khởi tố thì đình chỉ điều tra đối với vụ án phải đình chỉ điều tra đối với bị can. Từ việc phân tích nêu trên, có thể đưa ra khái niệm về đình chỉ điều tra trong tố tụng hình sự như sau: Đình chỉ điều tra là việc Cơ quan điều tra chấm dứt toàn bộ hoạt động điều tra đối với vụ án hình sự cũng như đối với bị can khi có các căn cứ luật định. So với tạm đình chỉ điều tra, việc dừng các hoạt động điều tra ở đây không có ý nghĩa tạm thời mà là kết thúc hoạt động điều tra. Là kết cục của một quá trình hoạt động điều tra, khi xuất hiện lý do khách quan theo quy định của pháp luật không thể xử lý hình sự đối với người thực hiện hành vi hoặc do khả năng của cơ quan điều tra không thể chứng minh được hành vi phạm tội khi thời hạn điều tra đã hết và theo quy định của pháp luật phải ngừng các hoạt động đó. Còn tạm đình chỉ điều tra là việc tạm ngừng tiến hành các hoạt động điều tra đối với vụ án hoặc đối với bị can vì những lý do nhất định như bị can bị bệnh tâm thần, bị bệnh hiểm nghèo khác; vụ án xảy ra nhưng không điều tra chứng minh được tội phạm là ai hoặc bị can đã phạm tội bỏ trốn do hết thời hạn điều tra phải tạm đình chỉ. Việc tạm đình chỉ điều tra đồng nghĩa với việc cơ quan tiến hành tố tụng chưa đưa ra những kết luận cuối cùng về kết quả điều tra, chưa khẳng định về việc tiếp tục điều tra hay không. 9
  15. Khái niệm đình chỉ điều tra rất gần gũi với khái niệm đình chỉ vụ án. Tuy nhiên hai khái niệm này hoàn toàn khác nhau. Đình chỉ vụ án là hình thức kết thúc vụ án như đình chỉ điều tra, nhưng việc kết thúc ở đây là vụ án hình sự và vụ án không ở giai đoạn điều tra nữa. Do vậy đình chỉ vụ án được thực hiện ở giai đoạn truy tố, xét xử do Viện kiểm sát, Tòa án áp dụng. 1.1.2. Mục đích, ý nghĩa Điều 3 Bộ luật hình sự quy định "Mọi hành vi phạm tội phải được phát hiện kịp thời, xử lý nhanh chóng, công minh theo đúng pháp luật". Thực hiện được nguyên tắc xử lý tội phạm đó các cơ quan tiến hành tố tụng phải có một quá trình thu thập chứng cứ làm rõ tội phạm, cũng như áp dụng các biện pháp cần thiết để ngăn chặn không cho tội phạm tiếp tục xảy ra. Khi sự việc có dấu hiệu của tội phạm, đòi hỏi các cơ quan có thẩm quyền phải làm sáng tỏ có hay không có sự việc phạm tội, ai là người phạm tội và có thỏa mãn dấu hiệu của cấu thành tội phạm hay không, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và những vấn đề khác có liên quan của vụ án việc làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án trải qua một quá trình gồm nhiều giai đoạn phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan tiến hành tố tụng. Các giai đoạn đó bao gồm: khởi tố, điều tra, xét xử. Các hoạt động khởi tố, điều tra nhằm thu thập chứng cứ phục vụ cho việc truy tố, xét xử. Trên cơ sở các chứng cứ thu thập được, Tòa án xem xét, đánh giá chứng cứ một cách chính thức và ra các quyết định về sự việc và con người phạm tội. Mỗi giai đoạn của hoạt động tố tụng hình sự có nhiệm vụ và định hướng khác nhau nhưng đều hướng tới mục đích giải quyết vụ án khách quan, toàn diện đúng quy định của pháp luật và do các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện [14, tr. 12]. Đối với giai đoạn khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn mở đầu tố tụng hình sự, giai đoạn này bắt đầu bằng việc phát hiện những thông tin về tội phạm và kết thúc bằng việc cơ quan có thẩm quyền ra quyết định khởi tố vụ án hình sự. 10
  16. Khởi tố vụ án hình sự là một khái niệm được hiểu ở nhiều khía cạnh khác nhau. Trước hết, đó là một chế định của Bộ luật tố tụng hình sự, tức là tập hợp những quy phạm pháp luật tố tụng hình sự, quy định về trình tự và thủ tục khởi tố vụ án hình sự. Thứ hai, khởi tố vụ án hình sự được hiểu là một hành vi tố tụng điều tra cũng bắt đầu được tiến hành. Thứ ba, khởi tố vụ án hình sự được hiểu là một giai đoạn tố tụng độc lập trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Cũng như giai đoạn khác của tố tụng hình sự, khởi tố vụ án hình sự có những nhiệm vụ cụ thể mà những mục tiêu và nhiệm vụ cụ thể này đều tuân thủ mục đích và nhiệm vụ chung của tố tụng hình sự là phát hiện chính xác, nhanh chóng kịp thời và công minh mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Nhiệm vụ cụ thể của giai đoạn khởi tố vụ án hình sự sự thể hiện việc tiếp nhận, xử lý tin báo và tố giác về tội phạm, xác minh các tin báo, tố giác đó để kiểm tra tính hợp pháp của các lý do và căn cứ để khởi tố vụ án hình sự. Giai đoạn này cũng có nhiệm vụ làm rõ các tình tiết loại trừ tố tụng đối với vụ việc, phòng ngừa và ngăn chặn tội phạm, giữ gìn, bảo quản các dấu vết của vụ án theo những quy định của luật tố tụng hình sự. Có thể nói, giai đoạn khởi tố vụ án hình sự tạo ra những điều kiện cần thiết để thực hiện nhiệm vụ xác định người phạm tội và tội phạm ở các giai đoạn tố tụng tiếp theo. Tính chất quan trọng của mục đích và các nhiệm vụ cụ thể của giai đoạn khởi tố vụ án hình sự còn được quy định bởi các ý nghĩa chính trị xã hội và ý nghĩa pháp lý của nó. ý nghĩa chính trị - xã hội của giai đoạn này được thể hiện việc kịp thời, khởi tố đúng pháp luật sẽ là một biện pháp rất quan trọng để bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của xã hội và lợi ích hợp pháp của công dân; ngăn chặn, phòng ngừa các hành vi phạm tội. Đồng thời cũng thể hiện sự phản ứng nhạy cảm kịp thời của các cơ quan đấu tranh phòng chống tội phạm nhằm xác định 11
  17. sự thật của vụ án và truy cứu trách nhiệm hình sự người có hành vi phạm tội. Đồng thời khẳng định trên thực tế nguyên tắc không tránh khỏi hình phạt của người tội phạm mà V.I. Lê nin đã nêu ra. Việc phát hiện ra tội phạm kịp thời sẽ tạo ra niềm tin của quần chúng nhân dân vào pháp luật. Bên cạnh đó việc khởi tố vụ án hình sự khi có những căn cứ mà pháp luật quy định là không được khởi tố sẽ tạo niềm tin cho quần chúng nhân dân vào sự công minh của pháp luật, đồng thời cũng tiết kiệm sức người sức của cho Nhà nước vì nó đã không để các Cơ quan điều tra, Kiểm sát, Tòa án và Thi hành án phải tiến hành tố tụng một cách lãng phí. Ngược lại, việc không khởi tố hoặc khởi tố vụ án không kịp thời sẽ dễ dẫn đến việc tội phạm bị che giấu, chứng cứ bị thất thoát, bị tiêu hủy làm cho việc điều tra, quá trình xử lý tội phạm khó khăn và rất có thể sẽ dẫn đến hiện tượng oan, sai do nhầm lẫn trong quá trình giải quyết vụ án. ý nghĩa pháp lý của việc khởi tố vụ án hình sự được thể hiện ở chỗ khi các cơ quan có thẩm quyền quyết định khởi tố hình sự là lúc bắt đầu áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự. Tuy quyết định này chỉ là sơ bộ đánh giá nhưng cũng đã chỉ ra rằng tội phạm bị khởi tố là tội gì và thẩm quyền điều tra thuộc về cơ quan nào. Như vậy, chỉ sau khi khởi tố vụ án hình sự thì các hoạt động điều tra, khởi tố và hỏi cung bị can, lấy lời khai người làm chứng, người bị hại, khám xét, bắt bị can để tạm giam, đối chất, nhận dạng mới được tiến hành (trừ hành vi tố tụng cấp thiết như khám nghiệm hiện trường). Cũng từ giai đoạn này, các quan hệ pháp luật tố tụng hình sự được xác lập [31, tr. 21-22]. Giai đoạn điều tra được bắt đầu từ khi có quyết định khởi tố vụ án hình sự và kết thúc khi Cơ quan điều tra hoàn thành bản kết luận điều tra, chuyển hồ sơ sang Viện kiểm sát đề nghị truy tố người phạm tội trước Tòa án hoặc đình chỉ điều tra. Như vậy, điều tra vụ án hình sự là một giai đoạn của tố tụng hình sự trong đó Cơ quan điều tra và các cơ quan khác được giao một số hoạt động điều tra áp dụng các quy định pháp luật tố tụng hình sự để thu thập 12
  18. chứng cứ chứng minh tội phạm, người phạm tội và những vấn đề khác có liên quan đến vụ án như việc làm rõ các đặc điểm tính nguy hiểm cho xã hội, tính có lỗi, tính chống đối pháp luật, nhân thân người phạm tội, những tình tiết tăng nặng giảm nhẹ, vai trò đồng phạm làm cơ sở cho việc xét xử của Tòa án. Đồng thời thông qua hoạt động điều tra xác định nguyên nhân điều kiện phạm tội đối với từng vụ án cụ thể và kiến nghị các biện pháp phòng ngừa với các cơ quan, tổ chức hữu quan. Đối với giai đoạn điều tra cũng như các giai đoạn khác có nhiều ý nghĩa đặc biệt trong công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm. Về mặt chính trị xã hội, thực hiện tốt nhiệm vụ điều tra đã góp phần đảm bảo nguyên tắc phát hiện nhanh chóng, chính xác, xử lý công minh theo đúng pháp luật không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Về mặt pháp lý thì giai đoạn điều tra kết thúc cũng là bắt đầu của giai đoạn mới, nhiệm vụ mới với các cơ quan tiến hành tố tụng. Nếu việc điều tra là chính xác, chứng minh sự việc phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội thì vụ án sẽ tiếp tục được giải quyết bằng các thủ tục tố tụng tiếp theo của Viện kiểm sát và Tòa án. Còn nếu việc điều tra là phiến diện, chủ quan không chứng minh được có sự việc phạm tội, sự việc phạm tội đó do người khác thực hiện hay người thực hiện đó mất năng lực trách nhiệm hình sự sẽ dẫn đến phải đình chỉ điều tra vụ án, đình chỉ điều tra đối với bị can. Thậm chí có trường hợp phải đình chỉ vụ án bằng các quyết định sau này của Viện kiểm sát hoặc Tòa án. Như vậy tố tụng hình sự là toàn bộ hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng và cá nhân, cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội nhằm giải quyết vụ án khách quan, toàn diện, nhanh chóng, chính xác và đúng pháp luật. Từ những phân tích nêu trên, đình chỉ điều tra có những mục đích và ý nghĩa sau: 13
  19. Một là, đình chỉ điều tra có ý nghĩa sâu sắc ở chỗ đã thiết lập sự công bằng giữa lợi ích công và lợi ích riêng của cá nhân con người, người bị hại, người bị khởi tố. Về phía người bị hại là cơ sở quan trọng để khẳng định và chứng minh rằng có hay không hành vi phạm tội đã diễn ra đối với họ, hành vi đó có phải xử lý hình sự và chịu trách nhiệm về hậu quả pháp lý hay không. Còn đối với người bị khởi tố thì quyết định đình chỉ điều tra như cởi bỏ được sợi dây pháp luật mà không thể ai ngoài sự công bằng, khoan hồng của pháp luật hình sự đã chứng minh rằng bản thân họ có phạm tội hay không, có hành vi sự kiện phạm tội nhưng có đến mức độ nào đó có thể tha và miễn trách nhiệm hình sự cho họ. Tại Điều 4 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định: Khi tiến hành tố tụng, Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên, Chánh án, Phó chánh án Tòa án, Thẩm phán, Hội thẩm trong phạm vi trách nhiệm của mình phải tôn trọng và bảo vệ các quyền lợi ích hợp pháp của công dân, thường xuyên kiểm tra tính hợp pháp và sự cần thiết của những biện pháp đã áp dụng. Kịp thời hủy bỏ hoặc thay đổi những biện pháp đó, nếu xét thấy có vi phạm pháp luật hoặc không còn cần thiết nữa. Các quyền và tự do cơ bản của con người là những giá trị xã hội cao nhất có ý nghĩa to lớn về nhiều mặt cần phải được tôn trọng và bảo vệ một cách có hiệu quả. Các quyền cơ bản của công dân được quy định trong Hiến pháp là thành quả của cuộc đấu tranh chống ngoại xâm của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng. Chính vì vậy đảm bảo công bằng các quyền lợi hợp pháp của người công dân không chỉ có ý nghĩa chính trị xã hội mà còn tác động đến đời sống hàng ngày của người dân. Do đó, khi tiến hành áp dụng các biện pháp tố tụng hình sự để giải quyết vụ án một mặt phải đảm bảo thực hiện nhiệm vụ của tố tụng hình sự đồng thời phải tôn trọng các quyền cơ bản của công dân. Nếu quá trình điều tra không chứng minh được hành vi, chủ thể đã thực hiện tội phạm thì đương nhiên phải đình chỉ điều tra, khôi phục lại quyền của một công dân bình thường mà pháp luật quy 14
  20. định và không phân biệt dù người đó là ai, người có quyền chức, địa vị, người giàu, nghèo và nam hay nữ Hai là, đình chỉ điều tra còn đảm bảo được tính khách quan của vụ án, khắc phục được sự định kiến của các cơ quan tiến hành tố tụng đối với bị can cho rằng họ là người phạm tội nên trong quá trình giải quyết vụ án chỉ thu thập chứng cứ buộc tội mà bỏ qua chứng cứ gỡ tội. Điều này đồng nghĩa với việc xác định sự thật vụ án, toàn bộ diễn biến của sự việc phạm tội đã xảy ra và các vấn đề cần giải quyết: Có hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời gian địa điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội; ai là người thực hiện hành vi phạm tội, có lỗi hay không có lỗi, có lỗi do cố ý hay vô ý, có năng lực trách nhiệm hình sự hay không, mục đích, động cơ phạm tội Quá trình chứng minh, thu thập, kiểm tra và đánh giá chứng cứ đó đều là cơ sở pháp lý rút ra kết luận về việc giải quyết vụ án. Nếu kết quả điều tra cho thấy không có đủ căn cứ để tiếp tục tiến hành mọi thủ tục tố tụng tiếp theo đối với vụ án, bị can thì việc đình chỉ điều tra là hệ quả tất yếu chứng minh cho việc xác định sự thật khách quan là nguyên tắc cơ bản xuyên suốt quá trình giải quyết, đảm bảo được sự công bằng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Ba là, dưới góc độ nhân đạo và bảo vệ quyền con người trong tư pháp hình sự: Đình chỉ điều tra trong tố tụng hình sự với tư cách là một chế định còn phản ánh chính sách phân hóa trách nhiệm hình sự và nguyên tắc nhân đạo trong luật hình sự Việt Nam. Điều này thể hiện trong thực tiễn đấu tranh và phòng chống tội phạm không phải bất kỳ trường hợp nào người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà luật hình sự quy định là tội phạm, bị xã hội lên án và đáng bị xử lý về hình sự đều phải chịu trách nhiệm hình sự. Có trường hợp xét thấy không phải áp dụng trách nhiệm hình sự vẫn có thể đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng và chống tội phạm, cũng như công tác giáo dục, cải tạo người phạm tội và phù hợp với nguyên tắc nhân đạo của luật hình sự. Do vậy các cơ quan nhà nước có thẩm quyền không buộc họ phải chịu 15