Luận văn Điều kiện kinh doanh dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh của cơ sở khám, chữa bệnh tư nhân theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh

pdf 76 trang vuhoa 24/08/2022 9860
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Điều kiện kinh doanh dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh của cơ sở khám, chữa bệnh tư nhân theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_dieu_kien_kinh_doanh_dich_vu_kham_benh_chua_benh_cu.pdf

Nội dung text: Luận văn Điều kiện kinh doanh dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh của cơ sở khám, chữa bệnh tư nhân theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI Trương Minh Điền ĐIỀU KIỆN KINH DOANH DỊCH VỤ KHÁM BỆNH, CHỮA BỆNH CỦA CƠ SỞ KHÁM, CHỮA BỆNH TƯ NHÂN THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2018
  2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI Trương Minh Điền ĐIỀU KIỆN KINH DOANH DỊCH VỤ KHÁM BỆNH, CHỮA BỆNH CỦA CƠ SỞ KHÁM, CHỮA BỆNH TƯ NHÂN THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Chuyên ngành: Luật Kinh tế Mã số: 8.38.01.07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC : PGS.TS. NGUYỄN ĐỨC MINH HÀ NỘI - 2018
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Tác giả luận văn TRƯƠNG MINH ĐIỀN
  4. LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành tốt bài luận văn nghiên cứu với đề tài: “Điều kiện kinh doanh dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh của cơ sở khám, chữa bệnh tư nhân theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh”cùng với sự nỗ lực cố gắng của bản thân, em xin bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc đến PGS.TS Nguyễn Đức Minh đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ em hoàn thành đề tài luận văn tốt nghiệp. Đồng thời, em cũng xin cảm ơn các thầy cô giáo khoa Luật, các thầy cô giáo phụ trách giảng dạy chuyên ngành Luật Kinh tế, Học viện Khoa học Xã hội Việt Nam. Các anh chị đồng nghiệp, gia đình và các bạn đã tận tình giúp đỡ, đóng góp ý kiến, tạo điều kiện thuận lợi cho em hoàn thành luận văn này. Với kiến thức hạn hẹp của em khi nghiên cứu vấn đề này không khỏi những hạn chế. Vì vậy, em rất mong sự góp ý để đề tài của em được hoàn thiện hơn. Tác giả luận văn TRƯƠNG MINH ĐIỀN
  5. MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 Chương 1 : NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐIỀU KIỆN KINH DOANH DỊCH VỤ KHÁM BỆNH, CHỮA BỆNH CỦA CƠ SỞ KHÁM, CHỮA BỆNH TƯ NHÂN 9 1.1. Khái niệm, đặc điểm của dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh 9 1.2. Khái niệm điều kiện kinh doanh dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh 15 1.3. Pháp luật về điều kiện kinh doanh dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh 17 1.4. Nội dung điều kiện kinh doanh dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh 20 Chương 2 : THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH VÀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ ĐIỀU KIỆN KINH DOANH DỊCH VỤ KHÁM BỆNH, CHỮA BỆNH CỦA CÁC CƠ SỞ KHÁM, CHỮA BỆNH TƯ NHÂN TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 35 2.1. Thực trạng pháp luật về điều kiện kinh doanh dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh 35 2.2. Thực hiện pháp luật về điều kiện kinh doanh dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh từ thực tiễn ở thành phố Hồ Chí Minh 43 Chương 3 : QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ ĐIỀU KIỆN KINH DOANH DỊCH VỤ KHÁM BỆNH, CHỮA BỆNH CỦA CÁC CƠ SỞ KHÁM, CHỮA BỆNH TƯ NHÂN 50 3.1. Quan điểm 50 3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về điều kiện kinh doanh dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh 52 3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về điều kiện kinh doanh dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh 60 KẾT LUẬN 67 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
  6. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BYT Bộ Y tế CP Chính phủ NĐ Nghị định QĐ Quyết định UBND Ủy ban nhân dân XHCN Xã hội chủ nghĩa
  7. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong xu hướng toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế văn hóa thế giới hiện nay, chất lượng của các hàng hóa, dịch vụ là một trong những tâm điểm của cộng đồng quốc tế nói chung và của Việt Nam nói riêng. Chăm sóc và bảo vệ sức khỏe con người là một trong những lĩnh vực cung cấp dịch vụ hàng hóa đặc biệt liên quan mật thiết đến đời sống con người. Xã hội càng phát triển nhu cầu về chất lượng của dịch vụ này càng cao. Mỗi bệnh viện mỗi trung tâm y tế thực hiện chăm sóc sức khỏe con người đều phải hết sức cố gắng, có những thay đổi quan trọng cả về vật chất và nhân lực để nâng cao chất lượng dịch vụ khám chữa bệnh tại cơ sở mình nhằm thỏa mãn tối đa nhu cầu của bệnh nhân và khẳng định uy tín để tồn tại và phát triển. Thực hiện chủ trương xã hội hóa y tế, những năm qua, các cơ sở y, dược tư nhân trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh được đầu tư, phát triển, giúp giảm quá tải cho các bệnh viện công lập, đáp ứng nhu cầu khám, chữa bệnh ngày càng cao của nhân dân. Theo báo cáo của Sở Y tế Thành phố, tính đến nay trên địa bàn Thành phố có 47 bệnh viện tư nhân trong đó có 21 bệnh viện đa khoa và 26 bệnh viện chuyên khoa; 196 phòng khám đa khoa tư nhân trong đó có 21 phòng khám đa khoa có liên quan đến yếu tố nước ngoài 12 phòng khám đa khoa đăng ký người hành nghề với quốc tịch Trung Quốc, 9 phòng khám đa khoa đăng ký người hành nghề với các quốc tịch như: Argentina, Nhật, Pháp, Hàn Quốc, Singapore, Mỹ, Israel, Philippine, Anh, Ucraina, [1]. Việc chấp hành pháp luật một bộ phận người hành nghề, các doanh nghiệp chưa nghiêm. Cá biệt có những cơ sở đã bị xử lý phạt tiền nhiều lần nhưng vẫn tiếp tục vi phạm. Thậm chí có cơ sở đang trong thời gian đình chỉ hoạt động nhưng không chấp hành mà vẫn lén lút hoạt động, thông qua việc 1
  8. quảng cáo trên internet và giao dịch với bệnh nhân thông qua mạng xã hội. Ngoài ra, có trường hợp người nước ngoài hoạt động khám chữa bệnh nhưng không đăng ký, sử dụng người phiên dịch không đúng với nhân sự đã đăng ký đã được Bộ Y tế, Sở Y tế cấp phép. Có cơ sở khám chữa bệnh không có người phiên dịch có văn bằng chuyên môn về y tế hoặc bằng chuyên môn được làm giả. Khi đoàn kiểm tra đến, có cơ sở sử dụng bác sĩ Trung Quốc nhưng không hợp tác với đoàn mà né tránh, trốn khỏi phòng khám. Nguy hiểm hơn, nhiều phòng khám, cơ sở hoạt động không có giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh, thường xuyên phát tờ rơi, quảng cáo liên tục trên phương tiện thông tin đại chúng với nội dung: Có đội ngũ giáo sư, bác sĩ giỏi, trang thiết bị hiện đại, phương pháp tiên tiến có thể chữa được nhiều bệnh phức tạp, nan y nhằm lừa bịp người bệnh. Trong những năm qua, công tác xây dựng pháp luật của Việt Nam đã từng bước được củng cố và tăng cường nhằm tạo lập một khung pháp lý cơ bản phục vụ cho sự phát triển bền vững của đất nước. Trong đó, pháp luật ngành nghề kinh doanh có điều kiện nói chung và kinh doanh dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh còn nhiều vấn đề phát sinh trong quá trình thực thi pháp luật. Luật Đầu tư năm 2014 là một bước đột phá mạnh mẽ về các quy định liên quan đến điều kiện kinh doanh. Lần đầu tiên trong văn bản cấp luật, mục tiêu khi quy định về ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện và điều kiện kinh doanh được xác định rõ ràng. Bên cạnh việc xác định mục tiêu, Luật Đầu tư năm 2014 còn đưa ra danh mục ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện. Theo đó, 243 ngành, nghề trong Danh mục là những ngành, nghề, khi thực hiện kinh doanh sẽ tác động đến lợi ích công cộng, đến mức buộc Nhà nước phải can thiệp bằng điều kiện kinh doanh. Danh mục ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện sửa đổi năm 2016 đã thể hiện được tinh thần cải cách, thúc đẩy quyền tự do kinh doanh 2
  9. của doanh nghiệp, nhất quán với các chính sách tạo thuận lợi cho doanh nghiệp, xây dựng môi trường kinh doanh lành mạnh trong các Nghị quyết 19- 2016/NQ-CP của Chính phủ ngày 28 tháng 04 năm 2016 về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia hai năm 2016-2017, định hướng đến năm 2020 và Nghị quyết 35/NQ-CP của Chính phủ ngày 16 tháng 5 năm 2016 về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp đến năm 2020. Điều này rất phù hợp với các nhiệm vụ trọng tâm của ngành Y tế trong thời gian qua là Phát triển y tế cơ sở; giảm quá tải bệnh viện, nâng cao chất lượng dịch vụ khám chữa bệnh; đẩy mạnh công tác y tế dự phòng phù hợp với tình hình mới; phát triển nguồn nhân lực y tế, tăng cường nghiên cứu và ứng dụng khoa học công nghệ. Khảo sát diễn biến của quá trình rà soát các điều kiện kinh doanh dễ dàng nhận thấy rằng, có không ít quy định mang tính đột phá về điều kiện đầu tư, kinh doanh trong Luật Đầu tư năm 2014 và Luật Doanh nghiệp năm 2014 đang bị bóp méo vì quan điểm cải cách nửa vời, thỏa hiệp, dễ dãi và thiếu đồng bộ. Những tồn tại trong việc quy định về ngành, nghề kinh doanh có điều kiện đang đặt ra nhiều thách thức đối với hoạt động sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế nước ta, đòi hỏi các ngành, các cấp cần sớm có những giải pháp để rà soát và rút gọn các quy định về ngành nghề kinh doanh có điều kiện, tạo một môi trường kinh doanh thuận lợi, hỗ trợ doanh nghiệp phát triển Trong đó có quy định điều kiện kinh doanh đối với kinh doanh dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh. Vì thế cần phải nghiên cứu cơ bản và chuyên sâu về điều kiện kinh doanh khám bệnh, chữa bệnh của cơ sở khám, chữa bệnh theo hướng phù hợp với sự phát triển của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh tư nhân nhưng đảm bảo vai trò quản lý nhà nước trong lĩnh vực y tế và nhiệm vụ bảo vệ, chăm sóc sức khỏe nhân dân. Vì vậy, việc lựa chọn vấn đề “Điều kiện kinh doanh dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh của cơ sở khám, chữa bệnh tư nhân 3
  10. theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh” làm đề tài luận văn thạc sĩ đáp ứng được các yêu cầu lý luận và thực tiễn hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Điều kiện kinh doanh dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh của cơ sở khám, chữa bệnh tư nhân theo pháp luật một vấn đề đáng bàn. Cho đến nay, đã có những công trình nghiên cứu đề cấp đến vấn đề pháp luật và thực thi pháp luật có liên quan đến ngành nghề kinh doanh có điều kiện, cụ thể như: Theo tác giả Nguyễn Đình Cung việc sửa đổi Luật doanh nghiệp hướng tới giảm điều kiện, thủ tục đối với doanh nghiệp khi gia nhập thị trường. Theo đó, hồ sơ và nội dung được giảm và đơn giản hóa hơn trước đây, bởi lẽ việc đăng ký ngành nghề kinh doanh đem lại nhiều rủi ro cho doanh nghiệp. Rủi ro thứ nhất là doanh nghiệp kinh doanh hàng hóa, dịch vụ không có trong giấy điều kiện kinh doanh sẽ là vi phạm và xử lý hành chính hoặc thậm chí truy cứu trách nhiệm hình sự, mặc dù doanh nghiệp được phép kinh doanh những gì pháp luật không cấm. Rủi ro tiếp thuộc về phía đối tác, nếu hợp đồng hợp tác được ký mà doanh nghiệp không đăng ký kinh doanh thì rất dễ bị tuyên vô hiệu khi xảy ra tranh chấp. Ngoài ra, trong thực tế triển khai nhiều ngành nghề kinh doanh không có trong danh mục của cơ quan quản lý nhà nước dẫn tới việc doanh nghiệp phải xin ý kiến bộ ngành liên quan mất rất nhiều thời gian, tiền bạc để có thể đăng ký. Thậm chí có doanh nghiệp phải đăng ký ngành nghề kinh doanh không đúng với thực tế hoạt động. Việc sửa đổi Luật doanh nghiệp theo hướng đơn giản hóa, thông thoáng hơn cũng nhận được nhiều ý kiến phản hồi. Một số đánh giá lo ngại sự thông thoáng trong điều kiện kinh doanh tạo thuận lợi cho một số đối tượng lợi dụng, thành lập doanh nghiệp nhằm mục đích lừa đảo, trốn thuế, mua bán khống hóa đơn. Tác giả Lê Minh Toàn trong bài viết Cuộc đối đầu giữa “Luật không cấm” và “Luật cho phép” có đề cập đến câu chuyện về “Luật không cấm” và 4
  11. “Luật cho phép”, tác giả đi sâu về việc tìm hiểu các câu hỏi về những vấn đề còn gặp bất cập và đưa ra câu trả lời phù hợp để giải quyết vấn đề. Theo đó, thực tiễn thành lập và điều kiện kinh doanh đã xảy ra sự “đối đầu” của hai nguyên tắc là: “Có thể làm tất cả những gì mà luật không cấm” một trong những nguyên tắc cơ bản của nhà nước pháp quyền mà theo đó, mọi công dân và doanh nghiệp có thể làm tất cả những gì một khi điều đó không bị pháp luật cấm. Như vậy, pháp luật chỉ quy định những điều cấm mà không quy định danh mục những hành vi cho phép. Nguyên tắc này giúp phát huy mọi sáng tạo của các chủ thể phục vụ lợi ích của xã hội, của Nhà nước và của công dân. Tuy nhiên, đối với các cơ quan nhà nước, các cán bộ - công chứclại phải áp dụng nguyên tắc “Chỉ được làm những gì mà luật cho phép”, nhằm tránh những hành vi tuỳ tiện, xâm phạm quyền và lợi ích chính đáng của công dân. Chẳng hạn, sau khi Luật doanh nghiệp 2005 có hiệu lực, có nhà đầu tư muốn thành lập doanh nghiệp để kinh doanh ngành nghề “vận tải đa phương thức”, nhưng do pháp luật chưa quy định vấn đề này nên Phòng điều kiện kinh doanh từ chối cấp giấy phép (do không có theo danh mục ngành nghề kinh doanh nên không biết thuộc trường hợp cấm hay bị hạn chế kinh doanh với điều kiện kèm theo). 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Điều kiện kinh doanh dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh tư nhân theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh 3.2. Phạm vi nghiên cứu Điều kiện kinh doanh dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh tư nhân thuộc phạm vi, trách nhiệm quản lý của Bộ Y tế. 5
  12. 4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 4.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở đánh giá thực hiện pháp luật về điều kiện kinh doanh dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh tư nhân thuộc phạm vi, trách nhiệm quản lý của Bộ Y tế. 4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Nghiên cứu lý luận về điều kiện kinh doanh dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh của cơ sở khám, chữa bệnh tư nhân hiện nay. - Phân tích, đánh giá thực trạng về điều kiện kinh doanh dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh hiện nay . - Đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện các quy định điều kiện kinh doanh dịch vụ phù hợp với sự phát triển của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh tư nhân nhưng đảm bảo vai trò quản lý nhà nước trong lĩnh vực y tế và nhiệm vụ bảo vệ, chăm sóc sức khỏe nhân dân. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận nghiên cứu duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về điều kiện kinh doanh dịch vụ phù hợp với sự phát triển của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh tư nhân nhưng đảm bảo vai trò quản lý nhà nước trong lĩnh vực y tế và nhiệm vụ bảo vệ, chăm sóc sức khỏe nhân dân. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Tác giả đã kết hợp sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học phổ biến của khoa học xã hội để giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra, cụ thể như: các phương pháp tổng hợp, phân tích, thống kê, so sánh; các phương pháp điều tra, khảo sát, phân tích thực tiễn về điều kiện kinh doanh dịch vụ phù hợp với sự phát triển của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh tư nhân nhưng 6
  13. đảm bảo vai trò quản lý nhà nước trong lĩnh vực y tế và nhiệm vụ bảo vệ, chăm sóc sức khỏe nhân dân trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận Luận văn là công trình chuyên khảo, nghiên cứu có tính hệ thống, khảo sát, đánh giá toàn diện về thực trạng tuân thủ pháp luật về điều kiện kinh doanh dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh tư nhân nhưng đảm bảo vai trò quản lý nhà nước trong lĩnh vực y tế và nhiệm vụ bảo vệ, chăm sóc sức khỏe nhân dân trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. Vì vậy, luận văn sẽ cung cấp những kiến thức, thông tin, luận điểm cũng như đưa ra các khái niệm, đặc điểm, phân tích các nội dung pháp luật về kinh doanh có điều kiện trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe để từ đó đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật, phương pháp quản lý nhà nước về công chứng trong ở nước ta trong thời gian tới. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Như đã nói ở trên, luận văn là công trình chuyên khảo đầu tiên, nghiên cứu có tính hệ thống, khảo sát, đánh giá toàn diện về điều kiện kinh doanh dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh của cơ sở khám, chữa bệnh tư nhân hiện nay trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. Nội dung luận văn tập trung phân tích những kết quả, tồn tại và nguyên nhân thực trạng thực hiện pháp luật về điều kiện kinh doanh dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh của cơ sở khám, chữa bệnh tư nhân hiện nay trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, từ đó có những Đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện quy định điều kiện kinh doanh dịch vụ phù hợp với sự phát triển của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh tư nhân nhưng đảm bảo vai trò quản lý nhà nước trong lĩnh vực y tế và nhiệm vụ bảo vệ, chăm sóc sức khỏe nhân dân. 7
  14. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài mục lục, mở đầu, kết luận, danh mục các bảng biểu và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm có 3 chương, cụ thể như sau: Chương 1. Những vấn đề lý luận về điều kiện kinh doanh dịch vụ khám bệnh, chữa bênh của cơ sở khám, chữa bệnh tư nhân. Chương 2: Thực trạng quy định và thực hiện pháp luật về điều kiện kinh doanh dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh của cơ sở khám, chữa bệnh tư nhân từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh. Chương 3. Quan điểm, giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện quy định về điều kiện kinh doanh dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh của các cơ sở khám, chữa bệnh tư nhân. 8
  15. Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐIỀU KIỆN KINH DOANH DỊCH VỤ KHÁM BỆNH, CHỮA BỆNH CỦA CƠ SỞ KHÁM, CHỮA BỆNH TƯ NHÂN 1.1. Khái niệm, đặc điểm của dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh 1.1.1. Khái niệm dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh Dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh là một loại dịch vụ. Để hiểu dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh, trước hết cần làm rõ khái niệm dịch vụ. Dịch vụ nói chung, dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh nói riêng, là kết quả đầu ra của một quá trình hay một hoạt động nào đó. Tuy nhiên, do tính chất vô hình của nó nên dịch vụ được định nghĩa là “kết quả của một quá trình hay một hoạt động nào đó nhưng không thể nhìn thấy được, không đo được và không đếm được”. Thực tế có rất nhiều định nghĩa khác nhau về dịch vụ. Các học giả đứng trên từng quan điểm riêng của mình nên cũng có những quan niệm, định nghĩa khác nhau về dịch vụ. Hiện tại có một số quan niệm về dịch vụ, chẳng hạn: Theo Từ điển Tiếng Việt: Dịch vụ là công việc phục vụ trực tiếp cho những nhu cầu nhất định của số đông, có tổ chức và được trả công [10]. Định nghĩa về dịch vụ trong kinh tế học được hiểu là những thứ tương tự như hàng hoá nhưng phi vật chất. Theo quan điểm kinh tế học, bản chất của dịch vụ là sự cung ứng để đáp ứng nhu cầu như: dịch vụ du lịch, thời trang, chăm sóc sức khoẻ và mang lại lợi nhuận. Philip Kotler định nghĩa dịch vụ là một hoạt động hay lợi ích cung ứng nhằm để trao đổi, chủ yếu là vô hình và không dẫn đến việc chuyển quyền sở hữu. Việc thực hiện dịch vụ có thể gắn liền hoặc không gắn liền với sản phẩm vật chất [4] 9
  16. Tóm lại, có nhiều khái niệm về dịch vụ được phát biểu dưới những góc độ khác nhau nhưng tựu chung thì: Dịch vụ là hoạt động có chủ đích nhằm đáp ứng nhu cầu nào đó của con người. Đặc điểm của dịch vụ là không tồn tại ở dạng sản phẩm cụ thể (hữu hình) như hàng hoá nhưng nó phục vụ trực tiếp nhu cầu nhất định của xã hội. Dịch vụ khám chữa bệnh là kết quả mang lại nhờ các hoạt động tương tác giữa người cung cấp dịch vụ và khách hàng để đáp ứng nhu cầu về sức khoẻ như phòng bệnh, khám bệnh, chẩn đoán và đưa ra phương pháp điều trị thích hợp nhằm nâng cao sức khoẻ do các cơ sở y tế Nhà nước (Trạm y tế xã, Trung tâm y tế huyện/TP, các cơ sở y tế tuyến tỉnh và trung ương) và các cơ sở y tế tư nhân (Phòng khám, bệnh viện tư, hiệu thuốc) cung cấp. Trong lĩnh vực y tế, cơ chế thị trường không thể vận hành một cách hiệu quả. Các nhà phân tích kinh tế đã thừa nhận trong thị trường y tế luôn tồn tại các yếu tố “thất bại thị trường”, cụ thể: Thị trường y tế không phải là thị trường tự do. Trong thị trường tự do, giá của một mặt hàng được xác định dựa trên sự thỏa thuận tự nguyện giữa người mua và người bán. Dịch vụ khám chữa bệnh là một ngành dịch vụ có điều kiện, tức là có sự hạn chế nhất định đối với sự gia nhập thị trường và trong quá trình kinh doanh của các cơ sở dịch vụ khám chữa bệnh. Cụ thể, muốn cung ứng dịch vụ khám chữa bệnh cần được cấp giấy phép hành nghề và cần đảm bảo những điều kiện nhất định về cơ sở vật chất, về các điệu kiện bắt buộc để được phép kinh doanh trong lĩnh vực này. Trên thực tế, bệnh nhân hiểu biết rất ít về bệnh tật và các chỉ định điều trị, do vậy hầu như người bệnh hoàn toàn phải dựa vào các quyết định của thầy thuốc trong việc lựa chọn các dịch vụ y tế (cầu do cung quyết định). Nếu vấn đề này không được kiểm soát tốt sẽ dẫn tới tình trạng lạm dụng dịch vụ từ phía cung ứng, đẩy cao chi phí y tế. 10
  17. Do tính chất đặc thù của dịch vụ khám chữa bệnh và thị trường dịch vụ khám chữa bệnh, Nhà nước đóng vai trò rất quan trọng trong việc quản lý và cung ứng dịch vụ chăm sóc sức khoẻ. Nhà nước cần giữ vai trò cung ứng đối với các dịch vụ khám chữa bệnh “công cộng” và dịch vụ dành cho các đối tượng có nhu cầu để tư nhân có thể cung ứng các dịch vụ khám chữa bệnh tư. Đồng thời với sự tạo điều kiện thuận lợi phát triển các loại hình dịch vụ khám chữa bệnh tư, vai trò quản lý của Nhà nước rất cần thiết trong việc kiểm soát giá cả và chất lượng dịch vụ, tăng cường thông tin, thẩm định điều kiện hành nghề như đã nêu ở trên. Công cụ hữu hiệu nhất trong kiểm soát giá cả và dịch vụ cung ứng chính là phương thức chi trả phù hợp. Kinh nghiệm quốc tế đã cho thấy rất khó kiểm soát các yếu tố thất bại thị trường trong thị trường bảo hiểm y tế tư nhân. Mục tiêu bao phủ bảo hiểm y tế và tiếp cận dịch vụ khám chữa bệnh cơ bản cho mọi người dân chỉ có thể đạt được thông qua con đường bảo hiểm y tế toàn dân với sự hỗ trợ của Nhà nước cho các đối tượng như người nghèo, cận nghèo, dân tộc thiểu số, người già và sự tham gia tự giác của cộng đồng. Dịch vụ khám chữa bệnh là một ngành dịch vụ trong đó người cung ứng và người sử dụng quan hệ với nhau thông qua giá dịch vụ. 1.1.2. Đặc điểm của dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh Dịch vụ khám bênh, chữa bệnh có những đặc điểm của dịch vụ trong sự so sánh với sản phẩm, hàng hóa hữu hình như: Tính vô hình (hay phi vật chất): Đây là tính không thể nhìn thấy, không nếm được, không nghe được, không cầm được dịch vụ trước khi tiêu dung chúng. Đặc điểm này đòi hỏi nhà quản trị phải dựa vào các yếu tố gián tiếp để tổ chức cung ứng dịch vụ và đánh giá chất lượng dịch vụ. Tính không thể chia cắt được: Quá trình cung ứng và sử dụng dịch vụ diễn ra đồng thời. Vì vậy, dịch vụ không thể dự trữ, không thể lưu kho và hơn 11
  18. thế nữa, khách hàng là một trong những yếu tố trực tiếp quyết định chất lượng dịch vụ. Tính không ổn định: Chất lượng dịch vụ dao động trong một khoảng rất rộng, tùy thuộc vào hoàn cảnh tạo ra dịch vụ (như người cung ứng, thời gian, địa điểm cung ứng). Ví dụ: Chẩn đoán bệnh đúng hay sai tùy thuộc vào trình độ và thái độ của bác sĩ, cùng một bác sĩ có thể lúc này chẩn đoán bệnh tốt, lúc khác chẩn đoán bệnh không tốt. Tính không lưu giữ được: Dịch vụ không lưu giữ được, không thể tồn kho và không thể vận chuyển từ nơi này đến nơi khác Tính vô hình Không thể chia cắt Dịch vụ Không lưu giữ được Không ổn định Hình 1.1. Bốn đặc điểm cơ bản của dịch vụ [4] Những đặc điểm giống các loại dịch vụ khác Tính chất vô hình của dịch vụ: Dịch vụ xuất hiện đa dạng nhưng không tồn tại ở một mô hình cụ thể như đối với sản xuất hàng hoá. Tính chất đúng thời điểm và không thể dự trữ, không thoả mãn hai điều kiện này dịch vụ trở nên không có giá trị. 12
  19. Do phụ thuộc quá nhiều yếu tố: Không gian, thời gian, trạng thái tâm lý, hoàn cảnh của các bên tham gia nên chất lượng dịch vụ mang tính chất không đồng đều. Do tính chất không thể dự trữ và không đồng đều nên gặp khó khăn trong việc tiêu chuẩn hoá dịch vụ. Tuy nhiên vẫn có thể xác định được một mức độ phục vụ nhất định nào đó. Dịch vụ không thể tồn tại độc lập mà gắn liền với người tạo dịch vụ. Khác với hàng hoá, dịch vụ là sự gắn chặt song hành giữa dịch vụ với người tạo ra dịch vụ. Chính từ sự yêu cầu của người sử dụng mà dịch vụ hình thành và quá trình tạo ra dịch vụ cũng chính là quá trình tiêu dùng dịch vụ. Đó là sự ảnh hưởng mật thiết của người tiêu dùng tới sự tồn tại của dịch vụ. Không giống các loại dịch vụ khác, dịch vụ khám chữa bệnh có một số đặc điểm riêng, đó là: Mỗi người đều có nguy cơ mắc bệnh và nhu cầu chăm sóc sức khoẻ ở các mức độ khác nhau. Chính vì không dự đoán được thời điểm mắc bệnh nên thường người ta gặp khó khăn trong chi trả các chi phí y tế không lường trước được. Dịch vụ khám chữa bệnh là loại hàng hoá mà người sử dụng (người bệnh) thường không tự mình lựa chọn được mà chủ yếu do bên cung ứng (cơ sở y tế) quyết định. Nói một cách khác, ngược lại với thông lệ “Cầu quyết định cung” trong dịch vụ khám chữa bệnh “Cung quyết định cầu”. Cụ thể, người bệnh có nhu cầu khám chữa bệnh nhưng điều trị bằng phương pháp nào, thời gian bao lâu lại do bác sĩ quyết định. Như vậy, người bệnh chỉ có thể lựa chọn nơi điều trị, ở một chừng mực nào đó, bác sĩ điều trị chứ không được chủ động lựa phương pháp điều trị. 13
  20. Dịch vụ khám chữa bệnh là loại hàng hoá gắn liền với sức khoẻ, tính mạng con người nên không giống các nhu cầu khác, khi bị ốm, mặc dù không có tiền nhưng người ta vẫn phải mua (khám chữa bệnh) đây là đặc điểm đặc biệt không giống các loại hàng hóa khác. Dịch vụ khám chữa bệnh nhiều khi không bình đẳng trong mối quan hệ, đặc biệt trong tình trạng cấp cứu: Không thể chờ đợi được và chấp nhận dịch vụ bằng mọi giá. Bên cung cấp dịch vụ có thể là một tổ chức hay cũng có thể là một cá nhân. Để được là bên cung cấp dịch vụ khám chữa bệnh thì phải có giấy phép hành nghề theo quy định của Nhà nước. 1.2.3. Phân loại dịch vụ khám chữa bệnh Phân loại theo đối tượng phục vụ: Có ba loại dịch vụ khám chữa bệnh: Khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế khám chữa bệnh viện phí và khám chữa bệnh theo yêu cầu. - Dịch vụ khám chữa bệnh bảo hiểm y tế: là các dịch vụ cung ứng trực tiếp cho người sử dụng có tham gia bảo hiểm y tế và các chi phí khám chữa bệnh của người sử dụng được cơ quan bảo hiểm mà họ tham gia chi trả theo quy định của Luật bảo hiểm y tế và của từng cơ quan bảo hiểm. - Dịch vụ khám chữa bệnh viện phí: là dịch vụ cung ứng cho các đối tượng đến cấp cứu, khám chữa bệnh tại bệnh viện hoặc các cơ sở y tế. - Dịch vụ khám chữa bệnh theo yêu cầu: là các dịch vụ khám chữa bệnh chỉ cung ứng trực tiếp cho người có yêu cầu riêng. Phân loại theo phân tuyến kỹ thuật và danh mục kỹ thuật trong khám chữa bệnh Danh mục kỹ thuật trong khám chữa bệnh là những dịch vụ khám chữa bệnh mà các cơ sở y tế đăng ký với Nhà nước được cung cấp tại đơn vị mình. 14
  21. Danh mục kỹ thuật trong khám chữa bệnh được sắp xếp theo chuyên khoa, chuyên ngành như: Dịch vụ khoa ngoại, chấn thương, nội, sản, nhi Phân tuyến kỹ thuật là những quy định của cơ quan Nhà nước trong phạm vi chuyên môn kỹ thuật cho các tuyến từ tuyến xã, huyện, tỉnh đến Trung ương (Phân tuyến kỹ thuật và danh mục kỹ thuật trong khám chữa bệnh trong Quyết định số 23/2005/QĐ-BYT ngày 30 tháng 08 năm 2005 của Bộ Y tế về việc ban hành Quy định phân tuyến kỹ thuật và danh mục kỹ thuật trong khám chữa bệnh). 1.2. Khái niệm điều kiện kinh doanh dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh Điều kiện kinh doanh là những yêu cầu nhà nước đặt ra buộc các chủ thể kinh doanh phải đáp ứng được khi thực hiện kinh doanh trong những ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Đây được coi là công cụ quản lý nền kinh tế, là nội dung không thể thiếu ở mọi quốc gia trên thế giới. Mỗi quốc gia đều có những quy định cụ thể về điều kiện kinh doanh phù hợp với yêu cầu quản lý kinh tế và môi trường pháp lý riêng của quốc gia mình. Qua đó, có thể thấy được yếu tố chủ quan là phục vụ mục đích quản lý nhà nước trong việc thực thi các quyền lực của Nhà nước trên mọi mặt của xã hội. Nhưng điều kiện kinh doanh của Việt Nam cũng có yếu tố khách quan là xuất phát từ xu thế chung của thế giới về điều kiện kinh doanh. Điều kiện kinh doanh dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh cũng giống như các điều kiện kinh doanh khác là các điều kiện về chủ thể, cơ sở vật chất do Nhà nước ban hành nhưng trong lĩnh vực khám bệnh, chữa bệnh nhằm mục đích quản lý Nhà nước. Các chủ thể tham gia kinh doanh dịch vụ phải đáp ứng các điều kiện này mới được phép kinh doanh. Để làm rõ thêm điều kiện kinh doanh, cần phân biệt biệt giấy phép kinh doanh (trước khi Nghị định 43 về đăng ký doanh nghiệp ra đời) và giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. 15
  22. Để hoạt động kinh doanh hợp pháp, mọi chủ thể đều phải làm thủ tục đăng ký kinh doanh. Không nên hiểu giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh là một loại giấy phép kinh doanh vì giữa chúng có rất nhiều điểm khác biệt. Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh có ý nghĩa xác lập tư cách chủ thể kinh doanh, thể hiện sự chứng nhận của cơ quan hành chính nhà nước về sự ra đời của thương nhân (chủ thể kinh doanh), về quyền kinh doanh những ngành, nghề nhất định. Tại Khoản 2 Điều 15 Luật doanh nghiệp 2005 quy định: “Cơ quan đăng ký kinh doanh có trách nhiệm xem xét hồ sơ đăng ký kinh doanh và cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh trong thời hạn mười ngày làm việc, kể từ ngày nhận hồ sơ; nếu từ chối cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh thì thông báo bằng văn bản cho người thành lập doanh nghiệp biết. Thông báo phải nêu rõ lý do và các yêu cầu sửa đổi, bổ sung.” Như vậy, khi tổ chức, cá nhân đáp ứng đủ những điều kiện mà pháp luật quy định, cơ quan nhà nước có thẩm quyền có nghĩa vụ cấp đăng ký kinh doanh cho họ. Về Nội dung Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh được quy định tại Điều 25 Luật doanh nghiệp, Điều kiện cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh được quy định tại Điều 24 Luật doanh nghiệp. Trong khi đó giấy phép kinh doanh có ý nghĩa pháp lý thể hiện sự cho phép của cơ quan nhà nước thực hiện theo cơ chế xin phép – cho phép. Trong những trường hợp nhất định, cơ quan nhà nước có thẩm quyền vẫn có thể từ chối việc cấp giấy phép để bảo vệ lợi ích của cộng đồng. Tại khoản 2 Điều 7 Luật doanh nghiệp quy định: Đối với ngành, nghề mà pháp luật về đầu tư và pháp luật có liên quan quy định phải có điều kiện thì doanh nghiệp chỉ được kinh doanh ngành, nghề đó khi có đủ điều kiện theo quy định. Điều kiện kinh doanh là yêu cầu mà doanh nghiệp phải có hoặc phải thực hiện khi kinh doanh ngành, nghề cụ thể, được thể hiện bằng giấy phép kinh doanh, giấy 16
  23. chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh, chứng chỉ hành nghề, chứng nhận bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp, yêu cầu về vốn pháp định hoặc yêu cầu khác.” Như vậy, giấy phép kinh doanh có ý nghĩa xác định thời điểm được quyền hoạt động kinh doanh của chủ thể kinh doanh. Nghĩa là loại giấy này thông thường sẽ được cấp sau Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Cho dù đã được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh đối với những ngành nghề kinh doanh có điều kiện, người kinh doanh chỉ được phép hoạt động kinh doanh khi được cấp giấy phép kinh doanh. Hiện nay, thuật ngữ “giấy chứng nhận điều kiện kinh doanh” đã được thay thế bởi “giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp”, kể từ khi Nghị định 43 quy định về đăng ký doanh nghiệp ra đời. Theo đó, “Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp là văn bản hoặc bản điện tử mà cơ quan đăng ký kinh doanh cấp cho doanh nghiệp ghi lại những thông tin về đăng ký kinh doanh và đăng ký thuế do doanh nghiệp đăng ký. Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp đồng thời là Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và Giấy chứng nhận đăng ký thuế của doanh nghiệp.” (khoản 2 Điều 3 NĐ 43). 1.3. Pháp luật về điều kiện kinh doanh dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh Điều kiện kinh doanh là những yêu cầu nhà nước đặt ra buộc các chủ thể kinh doanh phải đáp ứng được khi thực hiện kinh doanh trong những ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Đây được coi là công cụ quản lý nền kinh tế, là nội dung không thể thiếu ở mọi quốc gia trên thế giới. Mỗi quốc gia đều có những quy định cụ thể về điều kiện kinh doanh phù hợp với yêu cầu quản lý kinh tế và môi trường pháp lý riêng của quốc gia mình. Việc tìm hiểu pháp luật về điều kiện kinh doanh của các quốc gia trên thế giới là rất cần thiết để có thể rút ra bài học kinh nghiệm đáng quý trong quá trình xây dựng pháp luật về nội dung này ở Việt Nam. 17