Luận văn Điều hòa lợi ích giữa chủ nợ và con nợ thông qua thủ tục phá sản ở Việt Nam

pdf 87 trang vuhoa 24/08/2022 9760
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Điều hòa lợi ích giữa chủ nợ và con nợ thông qua thủ tục phá sản ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_dieu_hoa_loi_ich_giua_chu_no_va_con_no_thong_qua_th.pdf

Nội dung text: Luận văn Điều hòa lợi ích giữa chủ nợ và con nợ thông qua thủ tục phá sản ở Việt Nam

  1. ®¹i häc quèc gia hµ néi khoa luËt t¹ v¨n giang ®iÒu hßa lîi Ých gi÷a chñ nî vµ con nî th«ng qua thñ tôc ph¸ s¶n ë viÖt nam luËn v¨n th¹c sÜ luËt häc Hµ néi - 2011 1 2
  2. ®¹i häc quèc gia hµ néi khoa luËt t¹ v¨n giang ®iÒu hßa lîi Ých gi÷a chñ nî vµ con nî th«ng qua thñ tôc ph¸ s¶n ë viÖt nam Chuyªn ngµnh : LuËt kinh tÕ M· sè : 60 38 50 luËn v¨n th¹c sÜ luËt häc Ng•êi h•íng dÉn khoa häc: TS. Bïi Nguyªn Kh¸nh Hµ néi - 2011 3 4
  3. MỤC LỤC CỦA LUẬN VĂN Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục MỞ ĐẦU 1 Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐIỀU HÒA 5 LỢI ÍCH GIỮA CHỦ NỢ VÀ CON NỢ THÔNG QUA THỦ TỤC PHÁ SẢN 1.1. Phá sản và các chức năng của pháp luật phá sản hiện đại 5 1.1.1. Khái niệm phá sản 5 1.1.2. Phân loại phá sản 7 1.1.2.1. Phá sản trung thực và phá sản gian trá 8 1.1.2.2. Phá sản tự nguyện và phá sản bắt buộc 8 1.1.2.3. Phá sản doanh nghiệp và phá sản cá nhân 9 1.1.3. Lịch sử hình thành và phát triển pháp luật phá sản 10 1.1.3.1. Sơ khảo sự hình thành và phát triển của Luật phá sản phương Tây 10 1.1.3.2. Sự hình thành và phát triển của các quy định pháp luật về phá sản ở 12 Việt Nam 1.1.4. Các chức năng của pháp luật phá sản hiện đại 15 1.1.4.1. Bảo vệ lợi ích chính đáng của các chủ nợ 17 1.1.4.2. Bảo vệ lợi ích của con nợ 17 1.1.4.3. Bảo vệ lợi ích của người lao động 18 1.1.4.4. Bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, góp phần tạo môi trường kinh doanh 19 lành mạnh 1.2. Nội dung cơ bản của việc điều hòa lợi ích giữa chủ nợ và con nợ 20 qua thủ tục phá sản 1.2.1. Nhu cầu điều hòa lợi ích giữa chủ nợ và con nợ thông qua thủ tục phá 20 sản 1.2.2. Các nội dung cơ bản của việc điều hòa lợi ích giữa chủ nợ và con nợ 24 1.2.2.1. Tối đa hóa việc thu hồi nợ cho các chủ nợ 24 1.2.2.2. Đưa ra những cơ hội cho việc phục hồi lại con nợ khi mà quyền lợi của 27 chủ nợ và nhu cầu xã hội có thể được đáp ứng tốt hơn bằng cách duy trì hoạt động của con nợ chứ không phải là thanh lí sản nghiệp của con nợ 1.2.2.3. Tôn trọng sự tự do ý chí của chủ nợ và con nợ trong việc thỏa thuận 31 để giải phóng nợ 1.2.2.4. Quy định cách thức đối xử một cách công bằng giữa các chủ nợ 32 1.2.2.5. Đem tới cơ hội bắt đầu lại cho các con nợ trung thực sau khi bị đổ vỡ 36 Chƣơng 2: THỰC TRẠNG ĐIỀU HÒA LỢI ÍCH GIỮA CHỦ 39 1 2
  4. NỢ VÀ CON NỢ THÔNG QUA THỦ TỤC PHÁ SẢN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 2.1. Tố quyền trong thủ tục phá sản 39 2.1.1. Các chủ thể có quyền yêu cầu mở thủ tục phá sản 39 2.1.2. Căn cứ phát sinh tố quyền 44 2.2. Hội nghị chủ nợ 46 2.2.1. Thành phần tham dự hội nghị chủ nợ 47 2.2.2. Nội dung của hội nghị chủ nợ 50 2.3. Điều hòa lợi ích giữa chủ nợ và con nợ thông qua thủ tục phục 53 hồi 2.3.1. Nội dung của phương án phục hồi 58 2.3.2. Thực hiện phương án phục hồi và hệ quả pháp lý 63 2.4. Điều hòa lợi ích giữa chủ nợ và con nợ thông qua thủ tục thanh lí tài sản 67 2.4.1. Căn cứ mở thủ tục thanh lý tài sản 67 2.4.2. Các nội dung cơ bản của thủ tục thanh lí 69 2.5. Hệ quả pháp lí của quyết định tuyên bố phá sản 73 Chƣơng 3: PHƢƠNG HƢỚNG, GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG 77 CAO HIỆU QUẢ ĐIỀU HÒA LỢI ÍCH GIỮA CHỦ NỢ VÀ CON NỢ THÔNG QUA THỦ TỤC PHÁ SẢN 3.1. Nhu cầu nâng cao hiệu quả của việc điều hòa lợi ích giữa chủ nợ 77 và con nợ thông qua thủ tục phá sản 3.2. Phƣơng hƣớng 80 3.3. Các giải pháp cự thể nhằm nâng cao hiệu quả điều hòa lợi ích 81 giữa chủ nợ và con nợ thông qua thủ tục phá sản 3.3.1. Các giải pháp lý 81 3.3.1.1. Tuyên bố xóa nợ cho chủ doanh nghiệp tư nhân và thành viên hợp 82 danh sau quyết định phá sản 3.3.1.2. Bổ sung các quy định về xử lý đối với từng loại tài sản cụ thể của 83 doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản, những tài sản được miễn trừ ra khỏi tài sản phá sản 3.3.1.3. Quy định cụ thể, đầy đủ về các cơ chế xác định chính xác tài sản phá 84 sản 3.3.1.4. Cần ghi nhận sự xuất hiện của các chủ nợ mới trong thủ tục phá sản 84 và dành cho loại chủ nợ này đặc quyền thanh toán so với các chủ nợ cũ nhằm tạo điều kiện cho việc áp dụng thành công thủ tục phục hồi con nợ 3.3.1.5. Hoàn thiện các quy định pháp luật khác có liên quan đến giải quyết 86 phá sản 3.3.2. Các giải pháp bổ trợ khác 87 3.3.2.1. Nâng cao năng lực và trình độ đội ngũ cán bộ tham gia giải quyết phá 87 3 4
  5. sản 3.3.2.2. Chuyên nghiệp hóa hoạt động quản lý tài sản phá sản 89 3.3.2.3. Tăng cường kỷ luật tài chính kế toán 90 KẾT LUẬN 92 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 93 5 6
  6. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài Tự do cạnh tranh và phá sản là những thuộc tính vốn có của kinh tế thị trường. Trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp nào không đáp ứng được những đòi hỏi nghiệt ngã của thương trường, của sức ép cạnh tranh sẽ bị đào thải. Để loại bỏ những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ kéo dài, mất khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn, đồng thời phòng ngừa, khắc phục những hậu quả, rủi ro mà những doanh nghiệp này có thể gây ra cho nền kinh tế, mỗi quốc gia đều phải xây dựng và thực thi một cơ chế phá sản có hiệu quả. Tuy nhiên, do tính chất nhạy cảm và mức độ ảnh hưởng rộng tới nhiều đối tượng khác nhau trong đời sống kinh tế nên cơ chế phá sản luôn đòi hỏi sự can thiệp mềm dẻo, linh hoạt của Nhà nước, phù hợp với những yêu cầu thực tiễn mà hoạt động kinh doanh đặt ra. Bên cạnh những mục tiêu dài hạn mà pháp luật phá sản hiện đại thường hướng đến như: tái cấu trúc nền kinh tế thông qua việc đào thải các doanh nghiệp thua lỗ, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực kinh tế và xã hội tới bảo vệ quyền và lợi ích của người lao động còn có mục tiêu quan trọng nhất - điều hòa lợi ích giữa chủ nợ và con nợ. Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1993 là văn bản luật đầu tiên về phá sản ở Việt Nam. Sau nhiều chương trình nghiên cứu, sửa đổi và hoàn thiện, thực hiện Nghị quyết số 12/2002/QH11 ngày 16/12/2002 của Quốc hội nhiệm kỳ khóa XI về chương trình xây dựng pháp luật, pháp lệnh năm 2003 và Nghị quyết số 222/2003/NQ- UBTVQH 11 ngày 10/02/2003 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Tòa án nhân dân tối cao đã cùng với các cơ quan hữu quan tổng kết thực tiễn thi hành Luật Phá sản doanh nghiệp và xây dựng dự thảo Luật Phá sản mới. Qua 6 lần dự thảo, tại kỳ họp thứ 5 của Quốc hội khoá XI, Luật Phá sản 2004 đã được thông qua, thay thế cho Luật Phá sản doanh nghiệp 1993. Tiếp thu có chọn lọc pháp luật về phá sản của một số nước trên thế giới, Luật Phá sản năm 2004, với thiên hướng ưu tiên việc phục hồi con nợ đã chú ý rất nhiều tới việc điều hòa lợi ích giữa các chủ nợ và con nợ, tạo điều kiện cho việc giải quyết các vụ việc phá sản một cách công bằng, hiệu quả, đảm bảo được lợi ích của các bên liên quan. Tuy nhiên, thực tế lại cho thấy, sau hơn sáu năm thực thi, vai trò của Luật phá 7 8
  7. sản 2004 cũng vẫn mờ nhạt như Luật phá sản doanh nghiệp 1993 - một đạo luật đã bị coi là "phá sản". Chỉ một số ít các doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản được rút lui một cách có trật tự khỏi thương trường. Đặc biệt là các quy định về thủ tục phục hồi và thủ tục thanh lí tài sản còn nhiều bất cập trong việc dàn xếp lợi ích giữa chủ nợ và con nợ cũng như giữa các chủ nợ với nhau một cách hài hòa qua đó làm mất đi những ưu việt của thủ tục phá sản so với thủ tục đòi nợ dân sự. Từ những lý do kể trên, tác giả luận văn mạnh dạn lựa chọn đề tài "Điều hòa lợi ích giữa chủ nợ và con nợ thông qua thủ tục phá sản ở Việt Nam" làm đề tài nghiên cứu cho luận văn của mình. Đây là một chủ đề nghiên cứu vừa có ý nghĩa sâu sắc về mặt lý luận vừa có tính thực tiễn cao ở Việt Nam hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu Đã từ lâu, việc nghiên cứu về phá sản và pháp luật phá sản không còn là một hướng nghiên cứu xa lạ ở Việt Nam. Đã có rất nhiều các công trình nghiên cứu công phu về chùm chủ đề này được công bố, trong đó có những công trình tiêu biểu như: "Giáo trình Luật Kinh tế", "Giáo trình Luật thương mại" của Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Luật Hà Nội, Đại học Kinh tế quốc dân, Đại học Mở Hà Nội, Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh, và các sách tham khảo như: "Pháp luật phá sản của Việt Nam 2005" của PGS.TS Dương Đăng Huệ; "Báo cáo rà soát, đánh giá thực tiễn thi hành Luật phá sản năm 2004" do Bộ Tư pháp xây dựng; hoặc các bài viết như: "Đi tìm triết lý của Luật phá sản" của PGS.TS Phạm Duy Nghĩa; "Luật phá sản năm 2004 với việc cải thiện môi trường kinh doanh tại Việt Nam" của PGS.TS Dương Đăng Huệ; "Một số ý kiến về dự thảo Luật phá sản (sửa đổi)" của PGS.TS Dương Đăng Huệ - Cao Đăng Vinh ; cho tới các khóa luận tốt nghiệp bậc cử nhân, luận văn thạc sĩ và luận án tiến sĩ đã bảo vệ thành công. Tuy nhiên, đến nay ít có những công trình khoa học đánh giá pháp luật về phá sản trên tiêu chí điều hòa lợi ích của chủ nợ và con nợ thông qua thủ tục phá sản. Bởi vậy, việc nghiên cứu chuyên sâu, toàn diện về thủ tục phá sản như là một thủ tục đòi nợ, trong đó chú trọng tới vấn đề điều hòa lợi ích của các chủ nợ và con nợ để làm nổi bật lên tính hiệu quả của thủ tục này so với thủ tục dân sự thì chưa có bất kỳ một công trình nghiên cứu nào. 3. Mục đích và phạm vi nghiên cứu của đề tài 9 10
  8. 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận chung về điều hòa lợi ích của chủ nợ và con nợ thông qua thủ tục phá sản; phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về phá sản hiện nay dưới tiêu chí điều hòa lợi ích của chủ nợ và con nợ đề từ đó đề xuất các phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của pháp luật phá sản ở nước ta hiện nay. Để thực hiện được mục đích trên, đề tài có các nhiệm vụ cụ thể sau: - Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận chung về điều hòa lợi ích của chủ nợ và con nợ thông qua thủ tục phá sản; - Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về phá sản hiện nay dưới tiêu chí điều hòa lợi ích của chủ nợ và con nợ; - Nghiên cứu so sánh về pháp luật về phá sản của một số quốc gia trên thế giới dưới tiêu chí điều hòa lợi ích của chủ nợ và con nợ; - Đề xuất các phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của pháp luật phá sản ở nước ta hiện nay. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Trong khuôn khổ của một luận văn tốt nghiệp thạc sĩ luật học, tác giả luận văn chỉ tập trung khai thác và nghiên cứu đề tài ở phạm vi những vấn đề pháp lý liên quan đến việc điều hòa lợi ích giữa chủ nợ và con nợ thông qua thủ tục phá sản ở Việt Nam. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Để thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu của mình, luận văn đã sử dụng phối hợp các phương pháp tổng hợp, phân tích, thống kê, so sánh. Phương pháp được sử dụng chủ yếu trong luận văn này là phương pháp tổng hợp, phân tích nhằm đánh giá thực trạng điều chỉnh và áp dụng pháp luật về phá sản dưới tiêu chí điều hòa lợi ích của chủ nợ và con nợ 5. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của 11 12
  9. luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về điều hòa lợi ích giữa chủ nợ và con nợ thông qua thủ tục phá sản. Chương 2: Thực trạng điều hòa lợi ích giữa chủ nợ và con nợ thông qua thủ tục phá sản ở Việt Nam hiện nay. Chương 3: Phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả điều hòa lợi ích giữa chủ nợ và con nợ thông qua thủ tục phá sản 13 14
  10. Chƣơng 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐIỀU HÒA LỢI ÍCH GIỮA CHỦ NỢ VÀ CON NỢ THÔNG QUA THỦ TỤC PHÁ SẢN 1.1. Phá sản và các chức năng của pháp luật phá sản hiện đại 1.1.1. Khái niệm phá sản Phá sản là hiện tượng kinh tế - xã hội phát sinh từ rất sớm trong lịch sử loài người. Về mặt học thuật, phá sản là một thuật ngữ gây khá nhiều tranh luận về xuất xứ của nó. Một số nhà nghiên cứu cho rằng, thuật ngữ phá sản bắt nguồn từ chữ "Ruin" trong tiếng Latin có nghĩa là sự "khánh tận". Thuật ngữ này được dùng đề chỉ tình trạng mất cân đối giữa thu và chi của một chủ doanh nghiệp mà biểu hiện trực tiếp của sự mất cân đối đó là tình trạng mất khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn. Một số nhà nghiên cứu khác cho rằng, thuật ngữ phá sản bắt nguồn từ chữ "Banca Rotta" của La Mã với ý nghĩa là "chiếc ghế bị gãy". Điều này có cơ sở là một tập quán thương mại, người nào mất khả năng thanh toán nợ thì cũng mất luôn quyền tham gia các đại hội thương gia và do đó chiếc ghế ngồi của người đó bị đem ra khỏi hội trường. Từ đó, "chiếc ghế bị gãy" trở thành hình ảnh tượng trưng cho sự vỡ nợ hay mất khả năng thanh toán nợ của một thương nhân. Và vì vậy, hiện nay thuật ngữ phá sản được gọi trong tiếng Anh là Bankrupcy và trong tiếng pháp là Banqueroute. Cùng với hướng giải thích như trên, các luật gia Mỹ khi tiếp cận về thuật ngữ phá sản lại cho rằng phá sản bắt nguồn từ chữ Latin "Banque" có nghĩa là cái bàn hoặc ghế dài và từ "Ruptus" có nghĩa là bị gãy. Và hình tượng này được sử dụng để chỉ sự thất thế của một thương gia trên thương trường khi mất khả năng thanh toán nợ đến hạn. Như vậy, thuật ngữ phá sản dù được lý giải rất khác nhau về xuất xứ, song khái niệm này đều được sử dụng để chỉ sự đổ vỡ trong hoạt động kinh doanh của một thương nhân hay của một doanh nghiệp. Trong tiếng Việt, theo tinh thần của Luật Thương mại năm 1972 của chính quyền Sài Gòn trước đây, thuật ngữ khánh tận dùng để chỉ phá sản thương gia còn vỡ nợ được dùng để chỉ sự phá sản của cá nhân, ngoài ra, phá sản còn được nhìn nhận là một thủ tục tư pháp thanh toán tài sản. Hiện nay, trên cơ sở Luật Phá sản doanh nghiệp 15 16
  11. năm 1993 và Luật Phá sản năm 2004, Khái niệm phá sản được xem xét dưới hai bình diện: thứ nhất là doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản và thứ hai là phá sản là thủ tục phục hổi hoặc xử lí nợ đặc biệt. Lịch sử phá sản của thế giới đã ghi nhận Italia là nước khai sinh ra đạo luật phá sản đầu tiên của thời kỳ La Mã. Đến thời kỳ Trung cổ, các quốc gia châu Âu cũng ban hành luật phá sản. Lúc đầu luật này được áp dụng vào lĩnh vực thương nghiệp, sau đó mở rộng ra nhiều lĩnh vực hoạt động sản xuất kinh doanh. Hiện tượng phá sản trở nên phổ biến trong thời kỳ tư bản chủ nghĩa, nó là một trong những nguyên nhân thúc đẩy sự phát triển kinh tế, hình thành nên những tập đoàn kinh tế tư bản độc quyền. Phá sản là hiện tượng bình thường trong nền kinh tế. Nhưng nó mới chỉ xuất hiện và phổ biến ở nước ta từ khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường. Trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung bao cấp trước đây, phá sản và pháp luật về phá sản không tồn tại. Bởi lẽ, đặc trưng của nền kinh tế này là thừa nhận nguyên tắc nhà nước lãnh đạo nền kinh tế (nguyên tắc này được ghi nhận tại Điều 22 và Điều 23 Hiến pháp Việt Nam năm 1980); ghi nhận sự thống lĩnh của chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa dưới hai hình thức là sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể (Điều 18, Điều 23, Điều 26 Hiến pháp Việt Nam 1980); phủ nhận quyền tự do kinh doanh thông qua việc khẳng định sự độc quyền ngoại thương nhà nước (Điều 21 Hiến pháp năm 1980) và cấm đoán các hình thức sản xuất, kinh doanh phi xã hội chủ nghĩa (Điều 24, Điều 25 Hiến pháp năm 1980). Như vậy, trong nền kinh tế này không có sự tồn tại của nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, không có tự do kinh doanh, tức là không có đầy đủ các tiền đề kinh tế - pháp lý để tạo ra được sự cạnh tranh thực sự trên thương trường. Trong hoàn cảnh như vậy, không thể có phá sản và do đó, không thể có pháp luật về phá sản. Tại Việt Nam sau đổi mới kinh tế, các doanh nghiệp được quyền tự chủ kinh doanh kèm theo đó là hiện tượng phá sản cũng xuất hiện. Kinh tế càng phát triển, cạnh tranh càng gay gắt thì phá sản càng có xu hướng gia tăng, đòi hỏi phải có sự điều chỉnh của pháp luật. Luật phá sản doanh nghiệp 1993 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 30 tháng 12 năm 1993 là văn bản đầu tiên có giá trị pháp lý cao nhất điều chỉnh vấn đề về phá sản. Nhưng sau hơn 10 năm thực hiện đã bộc lộ nhiều điểm lạc hậu cần thay đổi, để phù hợp hơn với sự phát triển của nền kinh tế, của xã hội. Vì vậy, ngày 15/6/2004, Quốc hội đã thông qua Luật phá sản 17 18
  12. 2004 thay thế Luật phá sản doanh nghiệp 1993, có hiệu lực từ ngày 15/10/2004. Theo Điều 3 Luật phá sản 2004 thì "doanh nghiệp, hợp tác xã không có khả năng thanh toán được các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu thì coi là lâm vào tình trạng phá sản" [45]. Như vậy, có thể định nghĩa phá sản như sau: Phá sản là thủ tục giải quyết thanh toán nợ được Tòa án thực hiện theo một trình tự, thủ tục luật định (thủ tục phá sản) do doanh nghiệp, hợp tác xã không có khả năng thanh toán được các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ yêu cầu. 1.1.2. Phân loại phá sản Phân loại phá sản có ý nghĩa rất quan trọng trong việc xem xét và xử lý các quan hệ phát sinh trong khi giải quyết phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã. Việc phân loại phá sản nhằm xác lập cơ chế giải quyết phù hợp với tính chất của từng loại phá sản. Dựa vào những căn cứ khác nhau, người ta phân chia phá sản thành nhiều loại khác nhau nhưng thường được chia thành ba dạng chủ yếu thường gặp là: phá sản trung thực và phá sản gian trá, phá sản tự nguyện và phá sản bắt buộc, phá sản doanh nghiệp và phá sản cá nhân. 1.1.2.1. Phá sản trung thực và phá sản gian trá Căn cứ vào tính xác thực của việc phá sản ta có thể chia phá sản thành phá sản trung thực và phá sản gian trá. Phá sản trung thực là trường hợp phá sản đúng theo quy định của Luật phá sản, là hậu quả của việc mất khả năng thanh toán do những nguyên nhân khách quan hay những rủi ro trong kinh doanh gây ra. Doanh nghiệp có thể bị phá sản theo nhiều nguyên nhân khác nhau như: bị ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế, sự thay đổi chính sách pháp luật của nhà nước, sự chuyển đổi xu hướng người tiêu dùng, sự biến động giá cả trên thị trường, thiên tai, dịch bệnh ; hoặc có thể do yếu tố nội tại của bản thân doanh nghiệp như tình trạng quản lý kém, chọn hướng đầu tư kinh doanh không phù hợp, bị mất uy tín trên thương trường , nhưng những nguyên nhân này đều nằm ngoài ý muốn của con nợ. Ngược lại, phá sản gian trá lại hoàn toàn do chủ ý của con nợ, là hiện tượng phá sản do con nợ có những thủ đoạn gian trá, có sắp đặt trước, cố tình tạo nên tình trạng mất khả năng thanh toán nhằm chiếm đoạt tài sản của người khác. Đối với phá sản trung thực, pháp luật chủ yếu nhằm vào giải quyết vấn đề xử lý tài sản hoặc phục 19 20
  13. hồi doanh nghiệp (nếu có thể phục hồi); đối với phá sản gian trá, ngoài những vấn đề này, pháp luật còn phải truy cứu trách nhiệm đối với những cá nhân có vi phạm pháp luật. Khoản 3 Điều 8 Luật phá sản 2004 quy định "trong quá trình tiến hành thủ tục phá sản nếu phát hiện có dấu hiệu tội phạm thì Thẩm phán cung cấp tài liệu (bản sao) cho Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp để xem xét việc khởi tố về hình sự và vẫn tiến hành thủ tục phá sản theo quy định của Luật này" [45]. 1.1.2.2. Phá sản tự nguyện và phá sản bắt buộc Căn cứ vào cơ sở pháp lý làm phát sinh quan hệ pháp luật phá sản, cụ thể là căn cứ vào chủ thể nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, phá sản được chia thành phá sản tự nguyện và phá sản bắt buộc. Phá sản tự nguyện là phá sản do chính con nợ yêu cầu khi thấy mình lâm vào tình trạng phá sản. Ngược lại, phá sản bắt buộc là trường hợp phá sản được thực hiện theo yêu cầu của các chủ thể không phải là doanh nghiệp mắc nợ (chủ nợ, người lao động ). Việc phân loại phá sản tự nguyện và bắt buộc rất có ý nghĩa trong việc xây dựng luật thủ tục áp dụng cho việc giải quyết các vụ việc phá sản, đặc biệt là trong xác định nghĩa vụ chứng minh của người nộp đơn. 1.1.2.3. Phá sản doanh nghiệp và phá sản cá nhân Căn cứ vào đối tượng áp dụng của Luật phá sản, người ta phân chia phá sản thành: phá sản doanh nghiệp và phá sản cá nhân. Thực tế cho thấy, việc ban hành Luật phá sản ở đa số các nước xuất phát trực tiếp từ nhu cầu giải quyết tình trạng mất khả năng thanh toán cùng với những hậu quả của nó trong hoạt động kinh doanh của các thương nhân, vì vậy đa số các nước chỉ áp dụng pháp luật phá sản với các thương nhân để giải quyết các khoản nợ phát sinh trong kinh doanh. Tuy nhiên, cũng có nước không giới hạn phạm vi áp dụng của Luật phá sản ở các thương nhân; pháp luật phá sản được áp dụng đối với mọi chủ thể pháp luật dân sự lâm vào tình trạng phá sản, không phân biệt thương nhân hay không phải là thương nhân. Ví dụ, "Luật phá sản Mỹ quy định: Bất kể cá nhân hay pháp nhân, thương gia hay người kinh doanh không hưởng quy chế thương gia, khi đã lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán nợ đến hạn thì đều thuộc đối tượng điều chỉnh của luật này" [49, tr. 10]. Ở Việt Nam hiện nay, Luật phá sản được áp dụng đối với các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế và hợp tác xã được thành lập và hoạt động theo quy định 21 22
  14. của pháp luật. Như vậy, theo pháp luật Việt Nam hiện hành, không phải tất cả các thương nhân khi lâm vào tình trạng phá sản đều được áp dụng Luật phá sản để giải quyết; những thƣơng nhân không phải là hợp tác xã và doanh nghiệp (nhƣ tổ hợp tác có đăng ký kinh doanh, kinh doanh cá thể) khi lâm vào tình trạng phá sản sẽ không được giải quyết theo quy định của pháp luật phá sản. Về lý luận, xét từ yêu cầu của việc đảm bảo nguyên tắc bình đẳng trong kinh doanh, vấn đề đối tƣợng áp dụng của Luật phá sản ở Việt Nam cần đƣợc nghiên cứu thêm. 1.1.3. Lịch sử hình thành và phát triển pháp luật phá sản 1.1.3.1. Sơ khảo sự hình thành và phát triển của Luật phá sản phương Tây Từ khi xã hội bắt đầu xuất hiện hàng hóa thì quan hệ mua bán cũng xuất hiện để đáp ứng nhu cầu của con người, và ắt sẽ có tình trạng không trả được nợ. Cách thức giải quyết tình trạng vỡ nợ ở mỗi xã hội, mỗi thời kỳ lịch sử là khác nhau. Xã hội nào cũng tồn tại trong một trật tự nhất định, và cách thức giải quyết tình trạng vỡ nợ có thể được coi như là luật lệ trong cái trật tự đó. Cùng với sự phát triển của xã hội, cách nhìn nhận về tình trạng vỡ nợ cũng thay đổi, kèm theo đó là sự thay đổi về cách thức giải quyết tình trạng này. Lịch sử phá sản của thế giới ghi nhận rằng, Italia là nước khai sinh ra Luật phá sản (Actof Bankrep Tcy) từ thời La Mã. Vào thời La Mã cổ đại, các chế định về phá sản đã xuất hiện mặc dù ban đầu chỉ là những chế định riêng lẻ về thủ tục đòi nợ tập thể trong một số đạo luật. Trong thời kỳ này, người gây ra phá sản bị coi như đã phạm một tội hình sự và cần phải bị trừng phạt. Cách thức giải quyết tình trạng vỡ nợ là đưa ra những hình phạt hết sức dã man để trừng trị con nợ. Ví dụ, Luật 12 bảng (năm 449 TCN) của La Mã đã quy định: "trường hợp con nợ đi vay nợ của nhiều người mà không trả được các chủ nợ có quyền băm con nợ ra thành nhiều mảnh" (Bảng 3, Điều 6). Từ khi La Mã trở thành đế quốc, một thị trường thống nhất trải rộng từ Lon Don tới Constantinople (Istanbul ngày nay) đã hình thành. Lệ băm xác con nợ thành nhiều mảnh đã dần được thay thế bởi một luật văn minh hơn. Tài sản của con nợ được thâu tóm và phân chia theo một trật tự nhất định - một trình tự thanh toán tài sản tư pháp đã ra đời (cesio bonorum). Tài sản của con nợ được tòa án địa phương (của con nợ) đứng ra quản lý, rồi phân chia số tài sản này cho các chủ nợ tùy theo vốn, lãi của 23 24
  15. mỗi người. Về sau, những quy định này được cải tiến, hoàn chỉnh và nâng lên thành luật phá sản của La Mã thời cổ đại. Sau khi đế quốc La Mã tan rã vào thế kỷ thứ 5 sau Công nguyên, châu Âu bước vào thời kỳ Trung Cổ với sự chia sẻ quyền lực của nhà thờ và các lãnh chúa phong kiến. Nền thương mại của người La Mã sụp đổ, thủ tục thanh toán tài sản bị lãng quên cùng với một hệ thống pháp luật vốn đã hoàn chỉnh và phát triển. Người vỡ nợ bị tống giam và đối xử như tội phạm - một hiện tượng còn kéo dài nhiều thập kỷ và chỉ bắt đầu chấm dứt trong thế kỷ 19 theo pháp luật Anh Mỹ. Từ thế kỷ thứ X, nền kinh tế thương mại tái xuất hiện, thương nhân là những người đầu tiên áp dụng lại trình tự thanh toán khi vỡ nợ của người La Mã. Nếu vỡ nợ, thương nhân bị mất nơi bán hàng trên chợ, tài sản bị thu và phân chia cho chủ nợ tương tự như cesio bonorum. Mặc dù luật lệ của thương nhân hoặc được thu nạp từng phần vào thông luật Anh, hoặc được pháp điển hóa trong Bộ luật thương mại Pháp 1807 - bộ luật của những người hàng xén, nhưng nó vẫn không thay đổi được thói quen xem vỡ nợ như tội phạm ở các nước phương Tây trong một thời gian dài. So với sự khắc nghiệt của hình phạt đối với người vỡ nợ ở phương Tây thời kỳ này, tư duy phân chia tài sản trong Điều 592 Bộ luật Hồng Đức năm 1460 của nhà làm luật thời Lê có nhiều điểm tiến bộ và nhân đạo hơn hẳn. Cho đến đầu thế kỷ XX, vỡ nợ vẫn được pháp luật nhiều nước Âu Mỹ xem như một dạng tội phạm, có thể bị trừng phạt từ tù giam cho tới tử hình. Vào những năm 1820 ở nhiều bang của nước Mỹ, 3 trong số 5 tội phạm bị bắt giam vì tội vỡ nợ. Chủ nợ có thể bắt giữ người mắc nợ vì hai lý do: (i) để cưỡng bách người mắc nợ xuất hiện trước tòa án, (ii) để cưỡng bách trả nợ. Luật phá sản kế tiếp nhau ra đời từ Tây Ban Nha, Pháp, Đức cho tới Anh quốc, song mục đích trước hết của chúng là bảo vệ lợi ích của chủ nợ và trừng phạt người vỡ nợ. Từ đạo luật Anne năm 1705 của nước Anh, một tư duy mới manh nha xuất hiện: thay vì trừng phạt, pháp luật nước Anh tuyên bố xóa nợ cho con nợ trung thực với những điều kiện nhất định. Sau khi đã giao nộp sản nghiệp và hoàn tất thủ tục thanh toán, con nợ được tuyên bố xóa mọi khoản nợ và có thể bắt đầu một sự nghiệp mới. Từ thủ tục phá sản chỉ dành riêng cho thương nhân, pháp luật mở rộng đối tượng áp dụng thủ tục phá sản cho mọi cá nhân. Cho đến khi các công ty và thuyết về pháp nhân xuất hiện, luật phá sản cũng được áp dụng cho công ty và những pháp nhân khác. Do lịch sử phát triển đặc thù đó, ở Anh và Mỹ người ta vẫn duy trì các quy định về phá sản cá nhân (hoặc người tiêu dùng) riêng biệt 25 26
  16. với phá sản công ty, trong khi ở nhiều nước châu Âu, pháp luật về phá sản về cơ bản vẫn chỉ áp dụng cho thương nhân. Đối với phá sản cá nhân, pháp luật ngày càng mang tính nhân đạo, nhấn mạnh sự xóa nợ và tạo cơ hội lập thân mới cho người vỡ nợ hoặc định rõ các nguồn thu và tài sản không bị thâu gom để thanh toán cho chủ nợ. 1.1.3.2. Sự hình thành và phát triển của các quy định pháp luật về phá sản ở Việt Nam Từ khi Việt Nam còn là một xã hội phong kiến, nhà làm luật thời đó cũng đã dự liệu đến trường hợp người mắc nợ không trả được nợ, và đưa ra những cách thức giải quyết tình trạng này. Ví dụ, Điều 592 Bộ luật Hồng Đức (1460) có quy định nếu người mắc nợ: Là quan từ cửu phẩm trở lên, mắc nợ nhiều quá mà không có đủ tài sản trả hết tất cả các chủ nợ, được quyền tâu xin thanh toán tài sản, chia cho các chủ nợ tùy theo số nợ nhiều hay ít. Người mắc nợ không được giấu giếm tài sản, trái luật bị phạt 80 trượng. Chủ nợ nào tìm được tài sản giấu được phép xin lấy đủ số nợ [Dẫn theo 41]. Như vậy, ở đây nhà làm luật cũng đã quy định một trình tự để thu hồi tài sản của người mắc nợ và phân chia cho các chủ nợ theo một trật tự nhất định. Tuy nhiên, những quy định này lại chỉ áp dụng cho người có quan tước từ cửu phẩm trở lên mà không áp dụng cho dân thường. Còn Bộ luật Gia Long lại quy định chủ nợ có thể cầm tù người mắc nợ để cưỡng bách trả nợ: (i) nếu số nợ dưới 30 lạng bạc, sau khi bị giam giữ quá 1 năm, nếu quả thực mất khả năng thanh toán, con nợ sẽ không bị đòi nợ nữa và bị đánh trượng tùy theo số nợ; (ii) nếu số nợ vượt quá 30 lạng bạc, quá hạn giam giữ 1 năm, vụ việc được tâu lên nhà vua để tùy vua chung quyết [Dẫn theo 41]. Năm 1857, thực dân Pháp bắt đầu xâm lược nước ta và đến 1887 thì Việt Nam bị chia thành 3 miền Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ dưới sự cai quản của thực dân Pháp. Ban đầu người Pháp áp dụng Bộ luật thương mại Pháp vào nhượng địa Nam Kỳ, sau Hòa ước Giáp Thân 1884 đạo luật này được áp dụng cho cả Bắc Kỳ, và sau 1892 thì áp dụng vào tất cả các tòa án Pháp tại Trung Kỳ. Về lý thuyết, Bộ luật thương mại Pháp chỉ chính thức hết hiệu lực ở miền Nam sau ngày 20/12/1972 khi chính quyền Việt Nam Cộng hòa ban hành Luật thương mại. Là một phần của thương luật Pháp, 27 28
  17. pháp luật về phá sản và thanh toán tư pháp được áp dụng trực tiếp vào nước ta mà không có một thử nghiệm đáng kể nào để chuyển hóa chúng thành tiếng Việt trong suốt một nửa thế kỷ đầu tiên của thời đô hộ. Bộ luật thương mại Trung phần được ban hành ngày 12/06/1942 theo Dụ số 46 của Bảo Đại là đạo luật thương mại đầu tiên của người Việt Nam, có hiệu lực từ 25/01/1944 và chính thức hết hiệu lực ở miền Nam ngày 20/12/1972. Vay mượn pháp luật phá sản Pháp, đạo luật này phân tách "khánh tận" và "thanh toán tư pháp", và "khánh tận" là thuật ngữ đầu tiên được dùng để gọi tên cho tình trạng mất khả năng thanh toán của một thương nhân ở Việt Nam. Theo quy định của Bộ luật thương mại Trung phần thì quy chế khánh tận chỉ áp dụng cho thương nhân, và người vỡ nợ bị xem như tội phạm, bị bắt giam với một số tội danh (tội tiểu hình liên quan đến khánh tận) (Điều 180, 189, 253-255 Bộ luật thương mại Trung phần). Người khánh tận ngoài việc bị mất quyền quản trị, tài sản bị niêm phong, còn bị tước quyền bầu cử, bị cấm một số hành vi kinh doanh và quản lý, án khánh tận được ghi vào lịch sử tư pháp của người vỡ nợ (Điều 201 Bộ luật thương mại Trung phần). So với khánh tận, thanh toán tư pháp là một thủ tục mang tính khoan hồng so với người vỡ nợ ngay tình. Khi lâm vào tình trạng không trả được nợ, con nợ ngay tình có thể nộp đơn yêu cầu thụ lý án thanh toán tư pháp. Theo trình tự này, người mắc nợ được hưởng một vài quy chế giảm nhẹ như sau: (i) không bị bắt giam (Điều 240 Bộ luật thương mại Trung phần); (ii) không bị mất quyền quản trị mà được tiếp tục chiếm giữ và quản lý sản nghiệp dưới sự giám sát của kiểm soát viên do tòa án ấn định; (iii) tiếp tục được hành nghề và thực hiện các hành vi mà tòa án cho phép; (iv) có thể thỏa hiệp với các chủ nợ, tòa sẽ ban hành án công nhận thỏa hiệp này. Nếu có dấu hiệu gian tình, thủ tục thanh toán tư pháp có thể chuyển thành một vụ án khánh tận. Năm 1954, sau khi người Pháp rút chạy khỏi Việt Nam, lãnh thổ nước ta chia làm hai miền với hai chế độ chính trị khác nhau. Tại miền Nam, những chế định về phá sản cũ vẫn được áp dụng cho đến ngày 20/12/1972, chính quyền Việt Nam Cộng hòa ban hành luật thương mại thay thế. Tuy nhiên, ngoài một số cải biên mang tính kỹ thuật, đạo luật này không có gì mới mẻ so với Bộ luật thương mại Trung phần 1942, vẫn duy trì hai thủ tục khánh tận và thanh toán tư pháp. Còn tại miền Bắc, trong suốt một giai đoạn dài từ 1945 đến 1985, chúng ta áp dụng mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung, nhà nước kiểm soát và định đoạt mọi nguồn lực sản xuất nên pháp luật về 29 30