Luận văn Dịch vụ bán lẻ của nhà đầu tư nước ngoài theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh

pdf 83 trang vuhoa 24/08/2022 9500
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Dịch vụ bán lẻ của nhà đầu tư nước ngoài theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_dich_vu_ban_le_cua_nha_dau_tu_nuoc_ngoai_theo_phap.pdf

Nội dung text: Luận văn Dịch vụ bán lẻ của nhà đầu tư nước ngoài theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI LƯU PHƯƠNG NHẬT THÙY DỊCH VỤ BÁN LẺ CỦA NHÀ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Chuyên ngành: Luật Kinh tế Mã số: 60.38.01.07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS BÙI NGUYÊN KHÁNH Hà Nội - 2016
  2. MỤC LỤC MỞ ĐẦU Error! Bookmark not defined. Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ DỊCH VỤ BÁN LẺ CỦA NHÀ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI 8 1.1. Khái niệm về dịch vụ phân phối và dịch vụ bán lẻ hàng hóa 8 1.2. Một số vấn đề lý luận về dịch vụ bán lẻ hàng hóa 11 1.3. Khái niệm về nhà đầu tư nước ngoài trong hoạt động dịch vụ bán lẻ 23 Chương 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ DỊCH VỤ BÁN LẺ CỦA NHÀ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 27 2.1. Các cam kết về dịch vụ bán lẻ của Việt Nam khi gia nhập WTO 27 2.2. Pháp luật về điều kiện và thủ tục gia nhập thị trường bán lẻ hàng hóa của nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam 33 2.3. Thực trạng pháp luật về dịch vụ bán lẻ hàng hóa 50 2.4. Một số vấn đề đặt ra từ thực tiễn áp dụng pháp luật về dịch vụ bán lẻ của nhà đầu tư nước ngoài tại Thành phố Hồ Chí Minh 57 Chương 3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ DỊCH VỤ BÁN LẺ CỦA NHÀ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI 63 3.1. Yêu cầu hoàn thiện pháp luật đối với dịch vụ bán lẻ của nhà đầu tư nước ngoài63 3.2. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật đối với dịch vụ bán lẻ của nhà đầu tư nước ngoài 67 KẾT LUẬN 73 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 75
  3. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT WTO Tổ chức thương mại thế giới GATS Hiệp định chung về thương mại dịch vụ MFN Nguyên tắc đối xử tối huệ quốc TPP Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương DVPP Dịch vụ phân phối DVBB Dịch vụ bán buôn DVBL Dịch vụ bán lẻ FDI Đầu tư trực tiếp nước ngoài CPC Hệ thống phân loại sản phẩm của Liên Hiệp Quốc UBND Ủy ban nhân dân TTTM Trung tâm thương mại ASEAN Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á BTA Hiệp định thương mại song phương Việt Nam – Hoa Kỳ FTA Khu vực mậu dịch tự do APEC Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương ASEM Diễn đàn hợp tác Á - Âu ENT Kiểm tra nhu cầu kinh tế NT Đãi ngộ quốc gia CHTL Cửa hàng tiện lợi TMĐT Thương mại điện tử ST Siêu thị HTX Hợp tác xã VSATTP Vệ sinh an toàn thực phẩm TNCs Các công ty xuyên quốc gia TNDN Thu nhập doanh nghiệp
  4. 1. Tính cấp thiết của đề tài Ngày nay, toàn cầu hóa kinh tế, hội nhập kinh tế quốc tế là đặc trưng và xu hướng phát triển phổ biến của nền kinh tế thế giới. Việt Nam chúng ta cũng đang nỗ lực hòa nhập vào xu thế chung đó. Cách đây 9 năm, vào ngày 11/01/2007, Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Tổ chức Thương Mại Thế giới (WTO), sự kiện này mở ra cơ hội mới cho sự phát triển đất nước và cả những thách thức cần phải vượt qua khi Việt Nam được tham gia vào tổ chức thương mại lớn nhất toàn cầu. Các cam kết mở cửa thị trường cho nhà đầu tư nước ngoài thuộc các nước thành viên WTO trong lĩnh vực phân phối, đặc biệt là dịch vụ bán lẻ, được coi là một trong số những cam kết quan trọng nhất của Việt Nam khi tham gia vào WTO. Bởi vì phân phối đóng vai trò quan trọng trong hoạt động thương mại hiện đại và là một trong những ngành kinh doanh thiết yếu của các nền kinh tế. Ở nhiều quốc gia, bán buôn và bán lẻ chỉ đứng thứ hai sau hoạt động sản xuất nếu xét đến đóng góp vào GDP. Trong nhóm G7 (Hoa Kỳ, Nhật Bản, Đức, Pháp, Anh, Ý, Canada), dịch vụ phân phối đóng góp cho GDP từ 8% - 15% và cho thị trường việc làm từ 11% - 19%. Tại Hoa Kỳ, mỗi năm bán lẻ chiếm từ 50% - 60% tổng đóng góp của toàn bộ ngành phân phối vào GDP. Với hơn 90 triệu dân, trong đó hơn 60% người tiêu dùng trẻ, Việt Nam được coi là thị trường mục tiêu cho các nhà đầu tư trong lĩnh vực bán lẻ. Qua 9 năm gia nhập WTO, hiện nay, Ở Việt Nam có khoảng 700 siêu thị và trung tâm mua sắm, trong đó các nhà bán lẻ nước ngoài chiếm 40%, trong 125 trung tâm thương mại thì khu vực FDI có 31, chiếm khoảng 25%. Theo Bộ Công thương, đến năm 2020, Việt Nam có khoảng 1.200 – 1.300 siêu thị, 180 trung tâm thương mại và 157 trung tâm mua sắm. Vì vậy, Việt Nam được coi là một 1
  5. trong những thị trường nhiều tiềm năng nhất đối với các nhà đầu tư trên thế giới về phân phối, đặc biệt là bán lẻ. Theo kết quả của Tập đoàn Tư vấn A.T.Kearney, Việt Nam đứng thứ 14 trong Bảng xếp loại chỉ số phát triển bán lẻ toàn cầu. Doanh số bán lẻ thị trường Việt Nam được dự tính khoảng trên 20 tỷ USD mỗi năm. Tuy nhiên, cùng với cơ hội, các doanh nghiệp trong nước cũng phải đối đầu với các thách thức lớn khi cam kết về thị trường bán lẻ cho nhà đầu tư nước ngoài được mở hoàn toàn vào ngày 01/01/2015. Hơn nữa, việc Việt Nam tham gia Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) vào ngày 05/10/2015 vừa qua, mức thuế quan giảm xuống 0% cho các mặt hàng nhập khẩu, sẽ tạo điều kiện để hàng hóa nhập khẩu tràn vào hệ thống bán lẻ. Các doanh nghiệp trong nước buộc phải cạnh tranh quyết liệt do hàng rào bảo hộ bị dỡ bỏ, phải thực hiện chế độ đãi ngộ tối huệ quốc và đối xử quốc gia; các sản phẩm nước ta phải cạnh tranh bình đẳng với các sản phẩm nước khác không chỉ trên thị trường thế giới mà cả trên thị trường nội địa. Sự cạnh tranh không chỉ ở góc độ chất lượng, giá thành sản phẩm mà còn ở góc độ năng lực kinh doanh của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp trong nước phải tận dụng tối đa cơ hội, đẩy lùi thách thức và tự tạo cho mình các cơ hội mới ngày càng tốt hơn. Nhằm cụ thể hóa và áp dụng vào thực tiễn một cách đúng đắn nhất các cam kết của Việt Nam về dịch vụ phân phối, cụ thể là dịch vụ bán lẻ, Chính phủ và các Bộ, ngành đã ban hành hàng loạt các văn bản quy phạm pháp luật để điều chỉnh về lĩnh vực này. Trong số các văn bản đó, đáng chú ý nhất là Nghị định số 23/2007/NĐ-CP ngày 12 tháng 02 năm 2007 của Chính phủ quy định chi tiết Luật Thương mại về hoạt động mua bán hàng hóa và các hoạt động liên quan trực tiếp đến mua bán hàng hóa của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam; Thông tư số 08/2013/TT-BCT ngày 22 tháng 4 2
  6. năm 2013 quy định chi tiết Luật Thương mại về hoạt động mua bán hàng hóa và các hoạt động liên quan trực tiếp đến mua bán hàng hóa của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam; Thông tư số 34/2013/TT-BCT ngày 24 tháng 12 năm 2013 công bố lộ trình thực hiện các hoạt động mua bán hàng hóa và các hoạt động liên quan trực tiếp đến mua bán hàng hóa của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Các văn bản nêu trên đã có giá trị rất lớn trong việc điều chỉnh hoạt động mua bán hàng hóa nói chung và dịch vụ bán lẻ nói riêng của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, chứng tỏ Việt Nam đã và đang thực hiện những bước cần thiết để đảm bảo các quy định trong nước phù hợp với cam kết WTO. Tuy nhiên, việc áp dụng và thực thi cam kết về dịch vụ bán lẻ trên thực tế đã, đang và sẽ phát sinh nhiều vướng mắc, có thể vi phạm các cam kết WTO của Việt Nam. Trong quá trình nghiên cứu và thực tiễn công tác tư vấn pháp luật của mình, tác giả đã nhận thấy nhiều lỗ hổng trong khung pháp lý và nhiều bất cập xuất phát từ cơ chế quản lý nhà nước đối với dịch vụ này. Từ những vấn đề mang tính lý luận cơ bản như thiếu định nghĩa pháp lý cho khái niệm “cơ sở bán lẻ”, “người tiêu dùng cuối cùng”, phương pháp xác định các tiêu chí và áp dụng các tiêu chí về “nhu cầu kinh tế”, cho đến cơ chế thực thi pháp luật của cơ quan nhà nước như thủ tục, quy trình cấp giấy chứng nhận đầu tư, trình tự, thủ tục lập cơ sở bán lẻ trong dịch vụ bán lẻ đối với nhà đầu tư nước ngoài chưa rõ ràng, đồng bộ, thống nhất Với những phân tích nêu trên, tác giả quyết định chọn đề tài “Dịch vụ bán lẻ của nhà đầu tư nước ngoài theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh” làm Luận văn Thạc sỹ Luật học chuyên ngành Luật Kinh tế của mình, nhằm đưa ra một cái nhìn tổng quan về cơ sở lý luận và thực tiễn đối với dịch vụ bán lẻ của nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, đồng thời đề xuất kiến nghị những giải pháp hoàn thiện các quy định pháp 3
  7. luật về vấn đề này, đảm bảo cơ chế về dịch vụ bán lẻ đối với nhà đầu tư nước ngoài được thực thi trên thực tiễn. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Như đã phân tích về lý do chọn đề tài, dịch vụ bán lẻ của nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam ngày càng phát triển, đa dạng và ngày càng trở nên nóng bỏng kể từ khi Việt Nam gia nhập WTO. Vì vậy, đã có một số đề tài, bài báo, bài viết đề cập đến các khía cạnh của dịch vụ này như: - Đề tài khoa học cấp bộ “Nghiên cứu các dịch vụ bán buôn, bán lẻ của một số nước và vận dụng vào Việt Nam” do Viện nghiên cứu Thương Mại – Bộ Công thương chủ trì thực hiện năm 2007, TS. Nguyễn Thị Nhiễu làm chủ nhiệm đề tài. - MUTRAP, Dự án hỗ trợ thương mại đa biên “Báo cáo Rà soát khuôn khổ pháp lý về dịch vụ phân phối ở Việt Nam và những khuyến nghị về sự phù hợp của các quy định chuyên ngành với cam kết WTO” được hoàn thành tháng 12/2009. - Luận án tiến sĩ kinh tế “Hoàn thiện chính sách phát triển dịch vụ phân phối bán lẻ hàng hóa ở Việt Nam trong thời kỳ hội nhập” của tác giả Nguyễn Thanh Bình, năm 2012. - Luận văn Thạc sỹ Luật học của tác giả Lê Trạch Giang “Tự do hóa thương mại dịch vụ phân phối - Các cam kết và tác động đến các quy định hiện hành”. - Ngoài các Luận văn, còn có các bài viết chuyên đề của một số tác giả, hội thảo, các bài viết trên webisite đề cập đến vấn đề này. Tuy nhiên, các công trình khoa học, bài viết, bài báo này chỉ nghiên cứu chung về dịch vụ phân phối, hoặc có đề cập đến dịch vụ bán lẻ nhưng chủ yếu dưới góc độ kinh tế, chưa khái quát, hệ thống và làm rõ toàn diện về dịch vụ bán lẻ của nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam dưới góc độ Luật học. 4
  8. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của luận văn là nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về dịch vụ bán lẻ của nhà đầu tư nước ngoài; phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về dịch vụ bán lẻ của nhà đầu tư nước ngoài từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh; để từ đó đề xuất các phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về dịch vụ bán lẻ của nhà đầu tư nước ngoài trong thời gian tới. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Với mục đích trên, tác giả đề ra các nhiệm vụ trọng tâm nghiên cứu cụ thể của luận văn trong giới hạn phạm vi sau đây: - Nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đê lý luận về dịch vụ bán lẻ của nhà đầu tư nước ngoài; - Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về dịch vụ bán lẻ của nhà đầu tư nước ngoài từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh; - Đề xuất các phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về dịch vụ bán lẻ của nhà đầu tư nước ngoài trong thời gian tới 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của Luận văn này là nghiên cứu cam kết của Việt Nam gia nhập WTO về dịch vụ bán lẻ, các quy định pháp luật cụ thể của nước ta về dịch vụ này và cơ chế thực thi các cam kết, quy định pháp luật về dịch vụ bán lẻ của nhà đầu tư nước ngoài trên thực tế. 4.2. Phạm vi nghiên cứu: Trong phạm vi của đề tài, tác giả chỉ nghiên cứu về hoạt động bán lẻ (hay còn gọi là dịch vụ bán lẻ) của nhà đầu tư nước ngoài ở TP.HCM, một trong 4 hoạt động về mua bán hàng hóa và các hoạt động liên quan trực tiếp 5
  9. đến mua bán hàng hóa của nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam theo các cam kết WTO về dịch vụ phân phối và Nghị định 23/2007/NĐ-CP (bao gồm: bán buôn, bán lẻ, đại lý mua bán hàng hóa và nhượng quyền thương mại). Thời gian nghiên cứu và không gian nghiên cứu: nghiên cứu trên toàn quốc, theo các tài liệu tham khảo và thực tiễn. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Tác giả nghiên cứu và thực hiện Luận văn trên cơ sở phương pháp luận duy vật lịch sử và duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về nhà nước và pháp luật. Các phương pháp cụ thể mà tác giả sử dụng trong quá trình nghiên cứu thực hệ đề tài này là: - Phương pháp phân tích, tổng hợp: phương pháp này được sử dụng chủ yếu để lý giải, phân tích những vấn đề lý luận về dịch vụ bán lẻ của nhà đầu tư nước ngoài. - Phương pháp so sánh, đối chiếu: phương pháp này được sử dụng để so sánh, làm rõ các quy định pháp luật hiện hành về dịch vụ bán lẻ của nhà đầu tư nước ngoài với những quy định trong những quy phạm pháp luật trước đây. - Phương pháp hệ thống hóa: tham khảo, vận dụng những kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học, bài viết, bài báo có liên quan đến đề tài, để trích dẫn vào Luận văn, nhằm bổ sung, làm sáng tỏ nội dung luận văn. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa về mặt lý luận: Luận văn hệ thống hóa, bổ sung và phát triển cơ sở lý luận về dịch vụ bán lẻ của nhà đầu tư nước ngoài, góp phần vào công tác nghiên cứu pháp luật, thực tiễn trong dịch vụ bán lẻ của nhà đầu tư nước ngoài ở Việt Nam 6
  10. hiện nay, đồng thời đưa ra những giái pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về vấn đề này. 6.2. Ý nghĩa về mặt thực tiễn Luận văn sẽ chỉ ra thực trạng tiếp cận dịch vụ bán lẻ của nhà đầu tư nước ngoài ở TP.HCM hiện nay và các yếu tố ảnh hưởng đến vấn đề này, đồng thời đưa ra được những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật và hoàn thiện pháp luật trong dịch vụ bán lẻ của nhà đầu tư nước ngoài ở Việt Nam, góp phần thúc đẩy sự phát triển của thị trường bán lẻ, một thị trường giữ vai trò thiết yếu trong việc phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam. Ngoài ra, luận văn cũng có thể là tài liệu tham khảo trong quá trình học tập của các sinh viên, học viên tại các cơ sở, trường đào tạo Luật, Kinh tế. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phần nội dung của luận văn được cấu thành 03 chương, cụ thể như sau: Chương 1: Những vấn đề lý luận về dịch vụ bán lẻ của nhà đầu tư nước ngoài theo quy định pháp luật Việt Nam. Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng về dịch vụ bán lẻ của nhà đầu tư nước ngoài từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh Chương 3: Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về dịch vụ bán lẻ của nhà đầu tư nước ngoài. 7
  11. Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ DỊCH VỤ BÁN LẺ CỦA NHÀ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI 1.1. Khái niệm về dịch vụ phân phối và dịch vụ bán lẻ hàng hóa 1.1.1 Khái niệm về dịch vụ phân phối Phân phối là một khâu trung gian trong quá trình tái sản xuất mở rộng xã hội: Sản xuất – phân phối, lưu thông – trao đổi – tiêu dùng. Như vậy, dịch vụ phân phối (hay còn gọi là hoạt động phân phối) là việc thực hiện một phần hay toàn bộ các hoạt động có liên quan đến tổ chức điều hành và vận chuyển hàng hóa từ người sản xuất đến người tiêu dùng. Trong xã hội, các nhà bán buôn và bán lẻ thực hiện hoạt động phân phối là việc họ bán hàng hoá, kèm theo hàng loạt các dịch vụ phụ trợ có liên quan (phục vụ cho quá trình bán hàng) như bảo quản lưu kho hàng hoá; di chuyển, lắp ráp, sắp xếp và phân loại đối với hàng hoá có khối lượng lớn. Trên các bình diện khác nhau, ta có thể có nhiều cách hiểu khác nhau về “dịch vụ phân phối”. Thứ nhất, xét trên bình diện của nhà sản xuất thì phân phối là cách thức tổ chức hoặc phương pháp để đưa hàng hóa tới người tiêu dùng, bao gồm một chuỗi các hoạt động từ khâu sản xuất, vận chuyển hàng hóa tới các chủ thể khác nhau và mục tiêu là đưa đến người tiêu dùng. Thứ hai, xét trên bình diện của những người chuyên hoạt động trong lĩnh vực phân phối với tính chất là khâu trung gian giữa nhà sản xuất và người tiêu dùng, thì phân phối có thể hiểu là dịch vụ bán buôn và dịch vụ bán lẻ hàng hóa. Theo đó, những nhà bán buôn và bán lẻ sẽ bán hàng hóa cho khách hàng, mà khách hàng ở đây có thể là người kinh doanh hoặc người tiêu dùng. Thứ ba, xét trên bình diện của người tiêu dùng thì phân phối hàng hóa thường được hiểu là hoạt động bán lẻ hàng hóa tới người tiêu dùng, sử dụng 8
  12. hàng hóa. Hình thức thông dụng, phổ biến có thể thấy là các đại lý bán lẻ, hệ thống các siêu thị, mạng lưới bán lẻ khác Có thể thấy rằng, xét trên các bình diện khác nhau thì phân phối hàng hóa có thể hiểu ở các khía cạnh khác nhau; tuy nhiên, mục đích của hoạt động phân phối hàng hóa vẫn chỉ là đưa hàng hóa từ nhà sản xuất hoặc nhà nhập khẩu tới tay khách hàng và người tiêu dùng. Từ đó, có thể đưa ra khái niệm về phân phối hàng hóa như sau: Phân phối hàng hóa là hoạt động đưa hàng hóa từ nhà sản xuất hoặc nhà nhập khẩu tới các nhà phân phối hoặc tới khách hàng, người tiêu dùng. Theo hệ thống phân loại sản phẩm của Liên hiệp quốc - Central Product Clasification (CPC) của Tổ chức Thương mại thế giới thì ngành dịch vụ phân phối bao gồm bốn nhóm dịch vụ chính: dịch vụ đại lý hoa hồng (Commission Agent’s Services, ký hiệu CPC 621), dịch vụ bán buôn (Wholesale Trade Services, ký hiệu CPC 622), dịch vụ bán lẻ (Retailing Services, CPC 631 + 632 + 6111 + 6113 + 6121) và nhượng quyền thương mại (Franchising, ký hiệu CPC 8929) [27, tr.4]. 1.1.2 Khái niệm về dịch vụ bán lẻ hàng hóa. Theo cách hiểu nói trên của WTO thì dịch vụ bán lẻ là nội dung và là một trong những phương thức thực hiện dịch vụ phân phối được xem là đặc trưng nhất. Một cách chung nhất, dịch vụ bán lẻ hàng hóa được hiểu là hình thức phân phối hàng hóa, mà theo đó, nhà phân phối bán hàng hóa trực tiếp cho người tiêu dùng. Hiện nay, có khá nhiều định nghĩa khác nhau về bán lẻ: Theo Đại từ điển Tiếng Việt, bán lẻ là hình thức “bán từng cái, từng ít một trực tiếp cho người tiêu dùng”. [57, tr.95] Theo danh mục phân loại CPC: “Bán lẻ là hoạt động bán hàng hoá cho người tiêu dùng hoặc các hộ tiêu dùng từ một địa điểm cố định (cửa hàng, 9
  13. kiốt) hay một địa điểm khác (bán trực tiếp) và các dịch vụ phụ liên quan”. [30; tr.2]. Theo định nghĩa của Phòng Thống kê Liên Hợp quốc (United Nations Statistics Division-Unstats) “bán lẻ là hoạt động bán các sản phẩm hoàn chỉnh và dịch vụ cho người tiêu thụ để thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng cá nhân hay hộ gia đình”. Cũng từ cách tiếp cận này, các quy định pháp luật về phân phối bán lẻ hàng hóa của pháp luật Trung Quốc cũng đưa ra khái niệm về bán lẻ, theo đó bán lẻ là bán hàng và cung cấp các dịch vụ liên quan phụ trợ cho tiêu dùng cá nhân hoặc tập thể tại một địa điểm cố định hoặc đặt hàng qua truyền hình, điện thoại, mail, internet, hoặc bằng máy bán hàng tự động [28, tr.52]. Theo khoản 8 Điều 3 Nghị định số 23/2007/NĐ-CP ngày 12 tháng 02 năm 2007 của Chính phủ Việt Nam quy định chi tiết Luật Thương mại về hoạt động mua bán hàng hóa và các hoạt động liên quan trực tiếp đến mua bán hàng hóa của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, “Bán lẻ là hoạt động bán hàng hoá trực tiếp cho người tiêu dùng cuối cùng”. Như vậy, tuy có nhiều định nghĩa bán lẻ theo nhiều cách khác nhau nhưng tất cả đều thể hiện một đặc điểm chung của bán lẻ đó là hoạt động dịch vụ đưa hàng hoá đến tay người tiêu dùng cuối cùng (Tiêu dùng trong sản xuất và tiêu dùng của cá nhân hay gia đình). Nói cách khác, bán lẻ gồm tất cả các hoạt động liên quan đến việc bán hàng hóa trực tiếp cho người tiêu dùng cuối cùng để họ sử dụng vào mục đích cá nhân, không kinh doanh. Ở đây, người tiêu dùng là người cuối cùng mua được hàng hoá đó và mua hàng hoá đó với mục đích để tiêu dùng. Theo khái niệm này thì “bán lẻ” phải là hoạt động liên quan đến bán hàng hóa trực tiếp và có đối tượng người mua là “người tiêu dùng cuối cùng”. 10
  14. 1.2. Một số vấn đề lý luận về dịch vụ bán lẻ hàng hóa 1.2.1 Khái niệm về pháp luật phân phối bán lẻ hàng hóa Như trên đã trình bày, bán lẻ được hiểu theo nhiều cách khác nhau, nhưng nhìn chung đó chính là hoạt động liên quan đến bán hàng hóa trực tiếp và có đối tượng người mua là “người tiêu dùng cuối cùng”. Tuy nhiên, “người tiêu dùng cuối cùng” được hiểu như thế nào thì lại chưa có một định nghĩa pháp lý nào, mà pháp luật hiện hành chỉ quy định “Người tiêu dùng là người mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ cho mục đích tiêu dùng, sinh hoạt của cá nhân, gia đình, tổ chức” (khoản 1 Điều 3 Luật bảo vệ người tiêu dùng 2010). Trên thực tế, “người tiêu dùng cuối cùng” trong dịch vụ bán lẻ bao gồm cả cá nhân, hộ gia đình, các doanh nghiệp, tổ chức mua công nghiệp, thương mại, các tổ chức khác, bao gồm cả các doanh nghiệp sản xuất hàng hóa. Điều này dẫn đến việc liệu một doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cung cấp nguyên phụ liệu cho các khách hàng là các doanh nghiệp của Việt Nam tại các địa điểm trong nước có phải là hoạt động bán lẻ hay không? Như vậy, rõ ràng đã có sự khác biệt về định nghĩa bán lẻ khi Việt Nam thể chế hóa các quy định của cam kết WTO vào pháp luật trong nước, không thống nhất giữa các văn bản pháp luật trong nước với nhau về cùng một khái niệm. Vì vậy, để đảm bảo sự thống nhất giữa pháp luật trong nước và cam kết WTO mà Việt Nam đã tham gia, cũng như đảm bảo sự thống nhất giữa các văn bản pháp luật trong nước về dịch vụ bán lẻ, những vấn đề lý luận về bán lẻ hàng hóa cần sớm được làm sáng tỏ và hoàn thiện, đặc biệt là đối với các quy định có liên quan đến nhà đầu tư nước ngoài (doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài). Những vấn đề lý luận này bao gồm bản chất của dịch vụ phân phối bán lẻ hàng hóa là gì, nhu cầu điều chỉnh pháp luật đối với hoạt động này ra sao, pháp luật có vai trò như thế nào khi nó là công cụ để Nhà nước điều chỉnh 11
  15. dịch vụ phân phối bán lẻ hàng hóa - một lĩnh vực kinh tế - thương mại rất gần gũi và có ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống con người. Thứ nhất, có thể khẳng định rằng bản chất của dịch vụ phân phối bán lẻ hàng hóa là một dịch vụ thương mại, nó có tính chất của một hoạt động kinh doanh với các yếu tố chủ thể (cá nhân, doanh nghiệp thực hiện dịch vụ phân phối bán lẻ hàng hóa, người tiêu dùng); khách thể là lợi nhuận mà nhà kinh doanh hướng tới, là việc thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng; hình thức pháp lý của mối quan hệ phân phối bán lẻ hàng hóa là hợp đồng phân phối bán lẻ hàng hóa hay hợp đồng mua bán hàng hóa (bằng văn bản hoặc hình thức khác) Qua đó, các chủ thể thực hiện dịch vụ phân phối bán lẻ hàng hóa theo những cách thức và nhu cầu nhất định. Thứ hai, có thể nói rằng pháp luật có vai trò rất quan trọng trong việc điều chỉnh hoạt động phân phối bán lẻ hàng hóa bởi: những mối quan hệ chủ yếu trong lĩnh vực này là quan hệ giữa nhà phân phối và người tiêu dùng, mà đối tượng của hoạt động phân phối bán lẻ chủ yếu là những hàng hóa tiêu dùng đáp ứng nhu cầu sinh hoạt của con người như thực phẩm, đồ gia dụng, thuốc men, xăng dầu Pháp luật cần có sự điều chỉnh để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho người tiêu dùng, lợi ích chung của cộng đồng bên cạnh việc bảo vệ quyền, lợi ích của các chủ thể kinh doanh. Người tiêu dùng là những cá nhân cụ thể trong xã hội, họ sử dụng hàng hóa tiêu dùng hàng ngày, hàng giờ, nếu không có những công cụ mang tính pháp lý thể hiện tính quyền lực nhà nước bảo vệ họ khi có xâm hại bất hợp pháp, thì cuộc sống của họ không được đảm bảo, như vậy cũng có nghĩa là việc đảm bảo quyền con người không đạt được hiệu quả. Hơn nữa, đảm bảo quyền con người lại là vấn đề rất quan trọng trong một Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, mà Việt Nam đang trong tiến trình xây dựng. 12
  16. Thứ ba, việc điều chỉnh pháp luật đối với lĩnh vực phân phối bán lẻ hàng hóa còn xuất phát từ nhu cầu trực tiếp quản lý nền kinh tế mà trong đó dịch vụ phân phối bán lẻ hàng hóa đóng một vai trò hết sức quan trọng. Hơn nữa, Việt Nam đang hội nhập kinh tế quốc tế trên mọi lĩnh vực, điều này càng đòi hỏi phải có một hệ thống pháp luật hoàn thiện. Đảng Cộng sản Việt Nam ta đã xác định tầm quan trọng của ngành dịch vụ phân phối (trong đó có hoạt động phân phối bán lẻ), và đã quán triệt quan điểm chỉ đạo phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn mới. “Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020” được thông qua tại Đại hội lần thứ XI Đảng đã chỉ rõ: “Chủ động tham gia vào mạng phân phối toàn cầu, phát triển nhanh hệ thống phân phối các sản phẩm có lợi thế cạnh tranh ở cả trong và ngoài nước, xây dựng thương hiệu hàng hoá Việt Nam” [44, tr.2]. Trong Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng khi nói về phương hướng, nhiệm vụ đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, Đảng ta cũng xác định “Chủ động phát triển mạnh hệ thống phân phối bán buôn, bán lẻ trong nước, tham gia vào mạng phân phối toàn cầu”. [54, tr.2] Để phát triển tốt ngành dịch vụ phân phối nói chung và ngành bán lẻ nói riêng cần phải có một hệ thống pháp lý vững chắc, toàn diện, hợp lý, phù hợp với tình hình kinh tế, xã hội trong nước cũng như tình hình chung của thế giới và khu vực. Mặt khác, thực tế có khá nhiều vấn đề nảy sinh xung quanh hoạt động phân phối bán lẻ hàng hóa, mà nổi cộm là vấn đề bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Thực tế quyền lợi người tiêu dùng vẫn bị xâm hại, nhiều trường hợp không thể tìm ra nguyên nhân, chủ thể gây thiệt hại; hoặc rất khó có thể tìm ra. Ví dụ, việc người tiêu dùng bị ngộ độc thức ăn do tiêu dùng sản phẩm hàng hóa là thực phẩm, nhưng do không xác định được nguồn gốc thực phẩm 13
  17. nên không thể yêu cầu bồi thường thiệt hại, và trong trường hợp này thì rủi ro thuộc về người tiêu dùng Thực tế có rất nhiều trường hợp như vậy xảy ra, vì vậy, việc điều chỉnh pháp luật đối với dịch vụ phân phối bán lẻ hàng hóa là hết sức cần thiết. Nó góp phần đảm bảo quyền lợi của người tiêu dùng và nó đóng một vai trò nhất định bên cạnh pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng nói riêng. Bên cạnh đó, pháp luật là một công cụ hết sức hữu hiệu để Nhà nước quản lý kinh tế, xã hội. Khi đã ghi nhận thành những quy phạm pháp luật, Nhà nước có thể sử dụng quyền lực của mình để điều chỉnh những mối quan hệ cần thiết nhằm đảm bảo trật tự xã hội và thúc đẩy sự phát triển kinh tế. Đặc biệt, chúng ta đã gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) – (Việt Nam đã trở thành thành viên thứ 150 của WTO vào năm 2007) và chúng ta cũng có những cam kết trong lĩnh vực dịch vụ phân phối, trong đó có phân phối bán lẻ hàng hóa. Khi tham gia sân chơi chung mang tầm quốc tế này, Việt Nam cần tuân thủ luật chơi và nghiêm chỉnh thực hiện những gì đã cam kết theo những nguyên tắc và nội dung cụ thể. Đó cũng là lý do mà pháp luật nước ta cần phù hợp với xu hướng chung của pháp luật quốc tế, cũng như phù hợp với quy định của WTO, với cam kết của Việt Nam khi gia nhập tổ chức này. Thứ tư, xuất phát từ thực tiễn pháp lý cho thấy, pháp luật Việt Nam cũng như pháp luật quốc tế từ lâu đã có những quy định điều chỉnh dịch vụ phân phối hàng hóa, trong đó có phân phối bán lẻ hàng hóa. Pháp luật nhiều quốc gia như Nhật Bản, Hàn Quốc, Cộng hòa Pháp đều có các quy định về phân phối bán lẻ hàng hóa [28, tr.2] Từ những phân tích trên có thể hiểu “Pháp luật về phân phối bán lẻ hàng hóa là hệ thống quy phạm pháp luật điều chỉnh những mối quan hệ phát sinh trong lĩnh vực phân phối bán lẻ hàng hóa ở Việt Nam, nhằm đảm bảo sự phát triển của thị trường một cách lành mạnh, đảm bảo quyền lợi người tiêu 14
  18. dùng và lợi ích xã hội”. Pháp luật về phân phối bán lẻ hàng hóa có vai trò rất quan trọng cả về mặt lý luận và thực tiễn. 1.2.2 Nội dung pháp luật về dịch vụ bán lẻ hàng hóa Pháp luật về dịch vụ bán lẻ là chế định quan trọng của pháp luật thương mại. Pháp luật về dịch vụ bán lẻ được hiểu là hệ thống tổng thể các quy phạm pháp luật trong nước và các cam kết quốc tế mà Việt Nam tham gia điều chỉnh quan hệ, hoạt động bán lẻ hàng hóa. Nội dung của pháp luật về phân phối bán lẻ hàng hóa ở nước ta bao gồm pháp luật trong nước và pháp luật quốc tế có liên quan. Có thể kể đến một số văn bản sau: Hiệp định GATS 1994, Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa kỳ năm 2000, Hiệp định thương mại Việt – Trung 1991, Hiệp định thương mại Việt Nam – Australia 1990, Hiệp định thương mại Việt Nam – Iran 1994, Hiệp định TPP trong đó có chứa những quy định liên quan đến phân phối hàng hóa của Việt Nam với các nước. Tuy nhiên, khi nghiên cứu về những quy định của Hiệp định chung về thương mại dịch vụ GATS 1994 và các cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO tác giả nhận thấy có những vấn đề pháp lý đề cập trực tiếp, cụ thể đối với ngành phân phối bán lẻ hàng hóa. Đặc biệt, WTO là một sân chơi rộng lớn có tính chất toàn cầu và hiện nay nó đang có tác động rất lớn đối với nền kinh tế của Việt Nam. Bởi vậy, luận văn sẽ chú trọng phân tích, đánh giá những nghĩa vụ chung và các cam kết của Việt Nam về phân phối bán lẻ hàng hóa khi gia nhập WTO. Từ việc phân tích vai trò pháp luật về phân phối bán lẻ hàng hóa và những nguyên tắc pháp lý của pháp luật về phân phối bán lẻ hàng hóa cho thấy, pháp luật về lĩnh vực này cần có những nội dung cơ bản sau: Thứ nhất, pháp luật về điều kiện và thủ tục gia nhập thị trường của chủ thể thực hiện phân phối bán lẻ hàng hóa. Đây là một yêu cầu thiết yếu mang tính chất bắt buộc đối với hầu hết mọi chủ thể kinh doanh. Bất kỳ nhà đầu tư 15
  19. là cá nhân, tổ chức trong hay ngoài nước khi có nhu cầu kinh doanh và gia nhập thị trường trong mọi lĩnh vực của nền kinh tế đều phải tuân thủ những điều kiện nhất định của pháp luật về điều kiện kinh doanh, đăng ký kinh doanh. Sở dĩ pháp luật cần điều chỉnh vấn đề này vì đó là điều kiện đảm bảo cho nhà nước quản lý nền kinh tế. Nhà nước cần quản lý được số lượng chủ thể tham gia kinh doanh đối với từng lĩnh vực nhất định, từ đó có những điều chỉnh về chính sách và pháp luật sao cho phù hợp với tình hình phát triển và sự thay đổi của nền kinh tế. Bằng việc chấp thuận cho sự ra đời của một chủ thể kinh doanh bằng các hình thức khác nhau, Nhà nước có nghĩa vụ đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể đó trước pháp luật. Không chỉ thế, việc thực hiện thủ tục gia nhập thị trường còn đảm bảo việc thực hiện nghĩa vụ của doanh nghiệp đối với Nhà nước, đối với xã hội, là cơ sở pháp lý để Nhà nước yêu cầu doanh nghiệp thực hiện các nghĩa vụ tài chính (nộp thuế) và nghĩa vụ xã hội khác. Chủ thể tham gia thị trường phân phối bán lẻ hàng hóa cũng không ngoại lệ, khi nhà đầu tư muốn thực hiện hoạt động kinh doanh phân phối bán lẻ hàng hóa thì cần đáp ứng đầy đủ mọi quy định của pháp luật về thành lập doanh nghiệp, đăng ký kinh doanh, các yêu cầu khác để đáp ứng các điều kiện nhằm đảm bảo hoạt đông kinh doanh. Thứ hai, pháp luật về hoạt động phân phối bán lẻ hàng hóa. Sau khi tiến hành các thủ tục gia nhập thị trường và đáp ứng được các điều kiện để thực hiện hoạt động kinh doanh thì các chủ thể kinh doanh tiến hành phân phối bán lẻ hàng hóa. Trong quá trình hoạt động kinh doanh, nhà đầu tư tiến hành phân phối bán lẻ hàng hóa đến người tiêu dùng, do vậy, pháp luật cần có sự điều chỉnh để đảm bảo hoạt động kinh doanh đúng pháp luật, hàng hóa được phân phối không thuộc diện bị cấm kinh doanh, đảm bảo chất lượng, đảm bảo quyền lợi người tiêu dùng. 16