Luận văn Địa vị pháp lý của tập đoàn kinh tế nhà nước ở Việt Nam

pdf 93 trang vuhoa 24/08/2022 9100
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Địa vị pháp lý của tập đoàn kinh tế nhà nước ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_dia_vi_phap_ly_cua_tap_doan_kinh_te_nha_nuoc_o_viet.pdf

Nội dung text: Luận văn Địa vị pháp lý của tập đoàn kinh tế nhà nước ở Việt Nam

  1. MỤC LỤC Trang Lời cam đoan Mục lục Danh mục các chữ viết tắt. Danh mục các hình vẽ. MỞ ĐẦU . 1 Chương 1 5 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TẬP ĐOÀN KINH TẾ . 1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM CỦA TẬP ĐOÀN KINH TẾ 5 1.1.1. Khái niệm 5 1.1.2. Đặc điểm của tập đoàn kinh tế 8 1.1.3. Vai trò của tập đoàn kinh tế 14 1.2. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA TẬP ĐOÀN KINH TẾ TRÊN THẾ GIỚI . 19 1.2.1. Qui luật hình thành các tập đoàn kinh tế 19 1.2.2. Phương thức hình thành và phát triển của tập đoàn kinh tế . 21 1.2.3. Điều kiện hình thành tập đoàn kinh tế 23 1.3. MÔ HÌNH TỔ CHỨC VÀ QUẢN LÝ TẬP ĐOÀN KINH TẾ 25 1.3.1. Mô hình tổ chức tập đoàn kinh tế 25 1.3.2. Mô hình quản lý tập đoàn kinh tế 33 Chương 2 NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁP LÝ CƠ BẢN VỀ TẬP ĐOÀN KINH TẾ NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM 36 2.1. CĂN CỨ PHÁP LÝ CỦA TẬP ĐOÀN KINH TẾ NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM . 36 2.1.1. Một số văn bản pháp qui về tập đoàn kinh tế nhà nước 36 2.1.2. Cơ hội và thách thức đối với các tập đoàn kinh tế nhà nước hiện nay . 40
  2. 2.2. THÀNH LẬP TẬP ĐOÀN KINH TẾ NHÀ NƯỚC 46 2.2.1. Phương thức thành lập tập đoàn kinh tế nhà nước 46 2.2.2. Điều kiện thành lập các Tập đoàn kinh tế nhà nước 47 2.2.3. Trình tự, thủ tục thành lập mới Tập đoàn kinh tế nhà nước . 49 2.3. QUẢN LÝ, ĐIỀU HÀNH TRONG TẬP ĐOÀN KINH TẾ NHÀ NƯỚC 51 2.3.1. Tổ chức quản lý, điều hành của tập đoàn kinh tế nhà nước 51 2.3.2. Chức năng, quyền và nghĩa vụ, tổ chức quản lý công ty mẹ 54 2.3.3. Quan hệ giữa công ty mẹ và các doanh nghiệp tham gia tập đoàn 66 2.4. QUẢN LÝ, GIÁM SÁT ĐỐI VỚI TẬP ĐOÀN KINH TẾ NHÀ NƯỚC 70 Chương 3 MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA TẬP ĐOÀN KINH TẾ NHÀ NƯỚC . 75 3.1. GIẢI PHÁP TRONG QUẢN LÝ, GIÁM SÁT HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC TẬP ĐOÀN KINH TẾ NHÀ NƯỚC 75 3.2. GIẢI PHÁP VỀ QUẢN LÝ VỐN, TÀI SẢN NHÀ NƯỚC TẠI CÁC TẬP 78 ĐOÀN KINH TẾ NHÀ NƯỚC 3.3. GIẢI PHÁP VỀ CƠ CHẾ KIỂM SOÁT TÀI CHÍNH TRONG MÔ HÌNH TẬP ĐOÀN KINH TẾ 81 KẾT LUẬN 85 TÀI LIỆU THAM KHẢO 87
  3. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT FDI: Đầu tư trực tiếp nước ngoài HĐQT: Hội đồng quản trị OHC: Công ty mẹ vừa nắm vốn vừa trực tiếp kinh doanh PHC: Công ty mẹ nắm vốn thuần túy TĐKT: Tập đoàn kinh tế
  4. DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ Trang Hình 1.1. Mô hình tập đoàn theo cấu trúc hợp nhất 25 Hình 1.2. Mô hình tập đoàn theo cấu trúc công ty mẹ nắm giữ vốn . 27 Hình 1.3. Mô hình tập đoàn theo cấu trúc đa trung tâm 29 Hình 1.4. Tập đoàn theo mô hình đầu tư đơn cấp 29 Hình 1.5. Tập đoàn theo mô hình đầu tư đa cấp 30 Hình 1.6. Tập đoàn theo mô hình đầu tư hỗn hợp . 31 Hình 1.7. Mô hình “tập đoàn trong tập đoàn” 31
  5. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Việt Nam đang trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước, chủ động hội nhập ngày càng sâu và rộng vào kinh tế quốc tế. Do đó, yêu cầu phát triển kinh tế thời kỳ tới không chỉ là nâng cao tốc độ tăng trưởng, mở rộng kinh tế đối ngoại mà còn cần chủ động tạo ra và phát huy những lợi thế so sánh để đi tắt, đón đầu tạo ra những bước đột phá về kinh tế, bứt khỏi nguy cơ tụt hậu so với các nước trong khu vực và quốc tế. Thực tiễn khách quan này đặt ra yêu cầu cần phải cơ cấu sắp xếp lại các doanh nghiệp có qui mô nhỏ, lẻ, hoạt động manh mún thành những doanh nghiệp có qui mô lớn, không chỉ có đủ khả năng trở thành đối tác mà còn có thể cạnh tranh với các TĐKT của nước ngoài. Đồng thời, có thể phát huy vai trò đầu tàu của kinh tế nhà nước trong một số lĩnh vực mũi nhọn của nền kinh tế, đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đứng trước yêu cầu đó TĐKT là mô hình phù hợp với những yêu cầu khách quan và chủ quan trong bối cảnh hội nhập và phát triển kinh tế đất nước. Mặc dù, môi trường kinh tế - xã hội của chúng ta chưa hội tụ thật đầy đủ những điều kiện để các TĐKT ra đời một cách tự nhiên, nhưng trong thực tế, đã xuất hiện một số điều kiện khá cơ bản để hình thành các TĐKT. Do vậy, rất cần đến vai trò chủ động của Nhà nước trong việc hình thành các TĐKT. Song, Đảng và Nhà nước vẫn xác định: việc thành lập và cho ra đời các TĐKT không thể triển khai một cách ồ ạt theo kiểu phong trào mà lựa chọn cách thí điểm. Tuy nhiên, từ năm 2005 một số TĐKT nhà nước đã được thí điểm thành lập, nhưng địa vị pháp lý của chúng không có, cho đến ngày 05 tháng 11 năm 2009 Chính phủ ban hành Nghị định 101/2009/NĐ-CP về thí điểm thành lập, tổ chức, hoạt động và quản lý TĐKT nhà nước. Nghị định này là khuôn khổ pháp lý chính thức đầu tiên cho các TĐKT nhà nước và cơ bản đã khắc phục được tình trạng “mất phương hướng” của các TĐKT nhà nước. Đồng thời, đây cũng chính là căn cứ pháp lý chính thức cho việc xác định địa vị pháp lý của thực thể kinh doanh này. 1
  6. Mặc dù, khung pháp lý chính thức cho việc ra đời các TĐKT nhà nước đã được ban hành, nhưng nếu so với thế giới thì khái niệm về TĐKT ở Việt Nam vẫn còn khá mới mẻ. Do vậy, những nghiên cứu cơ bản và chuyên sâu về TĐKT nói chung và TĐKT nhà nước nói riêng ở nước ta cũng còn hạn chế. Rất nhiều vấn đề cả về lý luận lẫn thực tiễn vẫn còn gây tranh cãi, đặc biệt trong việc xác định địa vị pháp lý của TĐKT nhà nước, mà nội dung xoay quanh những vấn đề như: Thế nào là một TĐKT? TĐKT có những đặc trưng gì? TĐKT có tư cách pháp nhân không? Quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm pháp lý của TĐKT trước pháp luật như thế nào? Mối quan hệ với đại diện chủ sở hữu và các cơ quan quản lý nhà nước khác có liên quan Để góp phần tạo điều kiện thúc đẩy sự hình thành và phát triển các TĐKT nói chung và các TĐKT nhà nước ở Việt Nam nói riêng, thì việc nghiên cứu một cách bài bản, đầy đủ, có hệ thống về các vấn đề liên quan đến địa vị pháp lý của TĐKT nhà nước ở Việt Nam là vấn đề cấp thiết. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Ở Việt Nam, khái niệm TĐKT mới chỉ được nhắc đến nhiều trong hơn 20 năm nay. Có lẽ vì thế mà những nghiên cứu về TĐKT ở nước ta – cả về lý luận lẫn thực tiễn vẫn còn rất hạn chế. Phần lớn những nghiên cứu của các chuyên gia chủ yếu được thể hiện qua các bài viết trên các tạp chí khoa học, các bài báo. Đồng thời, cũng đã có một số công trình nghiên cứu về TĐKT của một số tác giả trước đó như: Luận văn Thạc sỹ: “Một số vấn đề về TĐKT nhà nước ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Phan Minh Tuấn; “TĐKT - Thực trạng và hướng hoàn thiện về khung pháp lý trong nền kinh tế Việt Nam” – Luận văn Thạc sỹ của tác giả Nguyễn Thị Trâm; “Quản lý vốn nhà nước trong các TĐKT” – tác giả Đoàn Thanh Hải. Tuy nhiên, tất cả các công trình nghiên cứu trên đều được thực hiện trong bối cảnh chưa có khung pháp lý chính thức cho việc thành lập, tổ chức và hoạt động của thực thể kinh doanh này. Chính vì vậy, chưa có cơ sở pháp lý cho việc xác định Địa vị pháp lý của TĐKT nhà nước ở Việt Nam hiện nay và cũng chưa có công trình nghiên cứu nào đề cập đến nội dung này. Vì vậy, có thể nhận định rằng, công trình nghiên cứu của 2
  7. tôi là hoàn toàn mới, không trùng lặp với bất cứ công trình nghiên cứu khoa học nào đã được công bố trước đây ở nước ta. 3. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài 3.1. Mục đích của đề tài Mục đích nghiên cứu của đề tài là trên cơ sở nghiên cứu một cách đầy đủ các vấn đề lý luận và thực tiễn có liên quan, xây dựng một chế độ pháp lý về TĐKT nhà nước. Thành công của đề tài một mặt khắc phục tình trạng “mất phương hướng” của các TĐKT nhà nước đã được thí điểm thành lập trong thời gian qua, mặt khác góp phần phát triển các TĐKT nhà nước, đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế trong bối cảnh hội nhập hiện nay. 3.2. Nhiệm vụ của đề tài Để thực hiện được mục tiêu trên, đề tài có một số nhiệm vụ chủ yếu sau đây: - Một là, làm rõ cơ sở lý luận về TĐKT nói chung và TĐKT nhà nước ở Việt Nam nói riêng. - Hai là, phân tích, đánh giá các qui định pháp luật hiện hành về TĐKT nhà nước trong giai đoạn thí điểm. - Ba là, chỉ ra những thuận lợi và khó khăn của các TĐKT nhà nước. Đồng thời, kiến nghị một số giải pháp nhằm hoàn thiện địa vị pháp lý của TĐKT nhà nước ở Việt Nam hiện nay. 4. Phạm vi nghiên cứu Những vấn đề lý luận và thực tiễn về TĐKT có đối tượng nghiên cứu tương đối rộng. Trong phạm vi đề tài này, với khuôn khổ của luận văn thạc sỹ, tác giả chỉ tập trung chủ yếu tìm hiểu cơ sở pháp lý về TĐKT nhà nước, trong đó chủ yếu tập trung giải quyết một số vấn đề cơ bản nhất tạo nên địa vị pháp lý của thực thể kinh doanh này, như: vấn đề khái niệm, điều kiện thành lập, quản lý điều hành, và vấn đề quản lý, giám sát đối với TĐKT nhà nước 5. Phương pháp nghiên cứu Đề tài sử dụng một cách tổng hợp các phương pháp nghiên cứu mà trước hết là phép biện chứng của chủ nghĩa duy vật biện chứng của Chủ nghĩa Mác – Lênin 3
  8. và các phương pháp nghiên cứu khoa học truyền thống, như phương pháp phân tích, tổng hợp và so sánh. 6. Cấu trúc của luận văn Mở đầu Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TẬP ĐOÀN KINH TẾ Chương 2: NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁP LÝ CƠ BẢN VỀ TẬP ĐOÀN KINH TẾ NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM. Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA TẬP ĐOÀN KINH TẾ NHÀ NƯỚC. KẾT LUẬN TÀI LIỆU THAM KHẢO 4
  9. Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TẬP ĐOÀN KINH TẾ 1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM CỦA TẬP ĐOÀN KINH TẾ 1.1.1. Khái niệm TĐKT Lịch sử ra đời và phát triển của các TĐKT gắn liền với quá trình phát triển của các doanh nghiệp từ đơn lẻ đến liên kết phức tạp, từ qui mô nhỏ đến qui mô lớn, từ đơn sở hữu đến đa sở hữu dưới tác động của các qui luật kinh tế cơ bản. Tuy nhiên, cho đến nay, vẫn chưa có một khái niệm duy nhất cho TĐKT, mỗi quốc gia có một định nghĩa khác nhau dẫn đến nhiều cách gọi khác nhau đối với thực thể kinh doanh này. Nhưng có thể khẳng định TĐKT là thuật ngữ dùng để chỉ một tổ hợp kinh doanh, hơn là một chủ thể pháp lý. Ở nước ta, khái niệm TĐKT mới chỉ được nhắc đến nhiều trong hơn 20 năm nay. Để có cái nhìn tổng thể về TĐKT, cần phải nghiên cứu một cách khái quát dưới cả góc độ ngôn ngữ lẫn bản chất của nó. Khi nói đến TĐKT ở các nước Mỹ la tinh và các nước Tây Âu nhiều danh từ khác nhau đã được sử dụng như: “groups” hay “business group”, “conglomerate”, “cartel”, “trust”, “alliance”, “syndicate”. Ấn Độ dùng thuật ngữ “business houses”. Ở Hàn Quốc gọi là “Chaebol”. Nhật Bản trước chiến tranh thế giới thứ hai gọi là “zaibatsu” và sau chiến tranh gọi là “keiretsu”. Trung Quốc sử dụng thuật ngữ “Tập đoàn doanh nghiệp”. Sự đa dạng về tên gọi hay thuật ngữ sử dụng đã nói lên tính đa dạng của hình thức liên kết được khái quát chung là tập đoàn. Việc sử dụng thuật ngữ nào phụ thuộc vào nguồn gốc xuất xứ và tính chất đặc trưng của từng loại TĐKT mà quốc gia đó lựa chọn. Xét về phương diện ngôn ngữ, thuật ngữ “groups” hay “business group”, “corporate group”, hay “alliance” thường chỉ hình thức TĐKT được tổ chức trên cơ sở kết hợp tính đặc thù của tổ chức kinh tế với cơ chế thị trường; về đặc trưng, đó là một nhóm công ty có tư cách pháp nhân riêng biệt nhưng lại có mối quan hệ về phương diện quản lý. Mối quan hệ giữa các công ty liên kết dưới dạng business group có thể dưới dạng chính qui hoặc không chính qui, không nhất thiết phải hợp thành một thực thể duy nhất. Điểm căn bản đưa đến việc thành lập tập đoàn là khi 5
  10. một công ty đang tạo ra nhiều lợi nhuận, nhưng lại không thể phát triển mạnh thêm, vì thị trường đã bão hòa nên cần phải hướng vào ngành sản xuất mới có khả năng phát triển mạnh hơn trong tương lai. Việc đầu tư vào công nghệ mới nhằm tránh cho công ty rơi vào lạc hậu do sự thay đổi nhanh của công nghệ. Tập đoàn (Chaebol) ở Hàn Quốc được sử dụng để chỉ một liên minh gồm nhiều công ty hình thành quanh một công ty mẹ. Các công ty con hoạt động để đáp ứng yêu cầu vật tư và dịch vụ của công ty mẹ và các công ty này thường nắm giữ cổ phần, vốn góp của nhau. Chaebol thường thuộc sở hữu của cá nhân và do đó đặt dưới quyền quản lý của một gia đình. “Keiretsu” là thuật ngữ tiếng Nhật Bản chỉ một nhóm các doanh nghiệp độc lập về mặt pháp lý nắm cổ phần của nhau và thiệt lập được mối quan hệ mật thiết về nguồn vốn, nguồn nhân lực, công nghệ, cung ứng nguyên vật liệu, tiêu thụ sản phẩm. Thông thường các công ty hợp thành Keiretsu có sự liên kết không chặt chẽ được tổ chức quanh một ngân hàng để phục vụ lợi ích của các bên. Khái niệm về “Tập đoàn doanh nghiệp” ở Trung Quốc có nhiều điểm khá tương đồng với Keiretsu của Nhật Bản, Chaebol của Hàn Quốc hay Conglomerates của Châu Âu, Châu Mỹ. Theo đó, tập đoàn doanh nghiệp là một tổ hợp kinh doanh - tập hợp các doanh nghiệp có liên quan với nhau bởi một công ty mẹ. Công ty mẹ của mỗi tập đoàn doanh nghiệp sẽ hoạt động như là hạt nhân của tập đoàn, còn các công ty con và các doanh nghiệp có liên quan khác đều là các pháp nhân được pháp luật công nhận, chia sẻ tất cả các quyền dân sự có liên quan và chịu trách nhiệm dân sự phát sinh. Những công ty trực thuộc hoặc các đơn vị không phải là pháp nhân sẽ không phải là các thành viên độc lập của tập đoàn [32]. Tập đoàn doanh nghiệp không phải là pháp nhân mà đơn giản chỉ là tên gọi của các doanh nghiệp thành lập tập đoàn với hai cấp độ, các công ty mẹ và các công ty con. “Conglomerate” là dạng tập đoàn đa ngành, đa lĩnh vực. Các công ty thành viên ít có mối quan hệ công nghệ sản xuất với nhau mà chủ yếu là quan hệ về hành chính và tài chính. Đặc điểm cơ bản của Conglomerate là hoạt động chủ yếu nhằm mở rộng phạm vi kiểm soát tài chính. 6
  11. “Cartel” trong tiếng Anh cũng rất hay được sử dụng để chỉ về TĐKT. Đặc trưng tiêu biểu của cartel là việc kiểm soát giá bán hàng hóa, dịch vụ nhưng cũng có một số cartel được tổ chức nhằm kiểm soát giá mua nguyên vật liệu đầu vào. Tại nhiều nước, mô hình này bị hạn chế bởi luật chống phá giá, song chúng vẫn tồn tại dưới hình thức ngầm hoặc công khai, chính thức hoặc không chính thức. “Trust” là mô hình liên minh độc quyền. Mục đích của việc hình thành trust là nhằm thu được lợi nhuận độc quyền cao, chiếm nguồn nguyên liệu và khu vực đầu tư; tạo ra sự độc quyền, kiểm soát sản xuất và tiêu thụ sản phẩm đối với những hàng hóa, dịch vụ nhất định. Theo các chuyên gia kinh tế thì hình thức liên kết kinh tế này chính là các tập đoàn đa quốc gia. Như vậy, hiện nay khái niệm về TĐKT vẫn đang chưa có sự thống nhất không chỉ trong phạm vi quốc gia mà còn là nội dung gây nhiều tranh luận trên phạm vi quốc tế, cũng như giữa các nhà khoa học chuyên ngành. Mặc dù, chưa có định nghĩa thống nhất về TĐKT mang tính quốc tế, nhưng qua nghiên cứu tài liệu và khái niệm về tập đoàn ở một số quốc gia có thể nhận ra một số đặc điểm chung của tập đoàn. Đó là: TĐKT là một tổ hợp các doanh nghiệp có thể hoạt động trong một ngành hoặc nhiều ngành khác nhau, có quan hệ với nhau về vốn, tài chính, công nghệ, thông tin, đào tạo, nghiên cứu và các liên kết khác xuất phát từ lợi ích của các doanh nghiệp tham gia liên kết, trong đó thường có một công ty mẹ nắm quyền lãnh đạo, chi phối hoạt động của công ty con về tài chính và chiến lược phát triển. Công ty mẹ và các công ty thành viên có tư cách pháp nhân. Như vậy, TĐKT là một tổ chức chứa đựng trong nó những pháp nhân độc lập. Bản thân TĐKT không có tư cách pháp nhân mà chỉ là thuật ngữ, một khái niệm dùng để nhận diện một mô hình kinh doanh chứa đựng trong đó các pháp nhân độc lập có mối quan hệ, liên kết đa dạng. Ở nước ta, Luật Doanh nghiệp (2005) có hiệu lực từ ngày 1-7-2006 có một điều duy nhất nói rất sơ lược về TĐKT trong điều 149: “TĐKT là nhóm công ty có quy mô lớn. Chính phủ quy định, hướng dẫn tiêu chí, tổ chức quản lý và hoạt động của TĐKT”. Tuy nhiên, những năm sau đó khái niệm về TĐKT vẫn chưa có sự 7
  12. thống nhất về nội hàm, cho đến ngày 5 tháng 11 năm 2009 Chính phủ ban hành Nghị định số 101/2009/NĐ-CP về thí điểm thành lập, tổ chức, hoạt động và quản lý TĐKT nhà nước (sau đây gọi là Nghị định 101) mới đưa ra khái niệm cụ thể về TĐKT nhà nước: “Là nhóm công ty có qui mô lớn liên kết dưới hình thức công ty mẹ - công ty con và các hình thức khác, tạo thành tổ hợp các doanh nghiệp gắn bó chặt chẽ và lâu dài với nhau về lợi ích kinh tế, công nghệ, thị trường và các dịch vụ kinh doanh khác”. Đồng thời, Nghị định cũng khẳng định “công ty mẹ và các doanh nghiệp thành viên tập đoàn có tư cách pháp nhân; có vốn và tài sản riêng; có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản của mình theo qui định của pháp luật và theo thỏa thuận chung của tập đoàn.” (khoản 3, Điều 4). 1.1.2. Đặc điểm của TĐKT Mặc dù quan niệm về TĐKT giữa các quốc gia, cũng như mỗi TĐKT ở các nước khác nhau cũng có những đặc trưng khác nhau, song vẫn có thể nhận thấy một số đặc điểm chung của TĐKT nói chung như sau: - Một là, quan hệ sở hữu hỗn hợp, phức tạp và mang tính xã hội hóa cao. Mặc dù, hầu hết các TĐKT tư bản lớn ngày nay ở các nước kinh tế phát triển có nguồn gốc từ những công ty sở hữu gia đình. Sở hữu gia đình có ảnh hưởng lớn tới xu thế phát triển và đóng vai trò quan trọng đến sự thành công của các TĐKT ở các nước Pháp, Đức, Italia, Hàn Quốc và Nhật Bản. Ở Đức, 60 trong số 150 TĐKT lớn nhất thuộc sở hữu của các thành viên trong gia đình [21]. Hay, ở một số quốc gia hiện nay vẫn tồn tại mô hình tập đoàn có một chủ sở hữu, mà phổ biến là sở hữu nhà nước. Ví dụ: tập đoàn Petronas của Malaysia, PSA của Singapore do nhà nước sở hữu 100% vốn, trong đó công ty mẹ sở hữu số lượng lớn vốn cổ phần trong các công ty con, công ty cháu và chi phối về nhân sự, tài chính cũng như chiến lược phát triển kinh doanh của chúng. Hàn Quốc, Trung Quốc đều coi những công ty mà nhà nước nắm trên 50% vốn trong cơ cấu sở hữu là công ty nhà nước. Ở Việt Nam, các tập đoàn có quyết định thành lập trên cơ sở các tổng công ty 91 trong thời gian qua, cũng như các tập đoàn được Chính phủ thành lập sau khi Nghị Định 101 ra đời đều thuộc sở hữu nhà nước. 8
  13. Tuy nhiên, hình thức sở hữu phổ biến hiện nay ở hầu hết các TĐKT trên thế giới là sở hữu hỗn hợp hay còn gọi là đa sở hữu: là tập đoàn được tổ chức vốn trên hình thức cổ phần do hàng triệu người sở hữu. Sở hữu hỗn hợp cho phép các TĐKT phát huy khả năng huy động vốn, linh hoạt trong đầu tư, phân tán rủi ro, tăng năng lực cạnh tranh. Mặc dù, sở hữu hỗn hợp là hình thức chủ yếu trong các tập đoàn, nhưng thường vẫn tồn tại một chủ sở hữu lớn, đóng vai trò quyết định trong công ty mẹ và có quyền lực chi phối các công ty thành viên. Tính chất đa sở hữu của các TĐKT phản ánh sự phát triển về qui mô sản xuất, đạt đến mức cần một lượng vốn khổng lồ để thực hiện các mục tiêu đề ra. Chế độ cổ phần là giải pháp hữu hiệu để khắc phục được những hạn chế về qui mô vốn, thông qua việc huy động trên thị trường chứng khoán. Hình thức này tạo điều kiện cho nhiều người thuộc các tầng lớp khác nhau trong xã hội có thể trở thành nhà đầu tư, góp vốn trực tiếp vào các tập đoàn, kể cả những tập đoàn lớn nhất, sản xuất và kinh doanh mang tính toàn cầu. Và cùng với quá trình này, người công nhân với tư cách là những người làm thuê, giờ đây trở thành những cổ đông đồng sở hữu. Như vậy, sở hữu hỗn hợp trong TĐKT kéo theo sự thay đổi địa vị pháp lý của người lao động về sở hữu. Tuy vậy, sự tham gia của người lao động – những người trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất của mỗi TĐKT thường chiếm tỷ trọng sở hữu cổ phần không lớn trong tổng vốn kinh doanh. Song song với việc thay đổi địa vị pháp lý về sở hữu của người lao động là việc sở hữu hỗn hợp được xã hội hóa thông qua việc phát hành cổ phiếu ra thị trường. Các liên kết truyền thống dần được thay thế bằng các liên kết kiểu mạng lưới thông qua vốn đầu. Các liên kết này làm thay đổi các quan hệ sở hữu trong mỗi tập đoàn nhất định, tạo nên hình thức sở hữu hỗn hợp, rất phức tạp và mang tính xã hội hóa cao. - Hai là, liên kết vốn mang tính phổ biến, chi phối các liên kết khác. Sự liên kết trong TĐKT rất đa dạng và ở các cấp độ khác nhau. Các doanh nghiệp thành viên và doanh nghiệp liên kết có thể có quan hệ với nhau về vốn, đầu tư, tài chính, công nghệ, kỹ thuật sản xuất, thị trường, thương hiệu, thông tin, đào tạo, nghiên cứu, Song, chủ yếu và phổ biến là liên kết về vốn. Mục tiêu của các 9
  14. liên kết là nhằm tối đa hóa các hoạt động sản xuất kinh doanh, giảm chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm, bổ sung thế mạnh và khắc phục những điểm yếu, mở rộng thị trường, nâng cao năng lực cạnh tranh, mở rộng qui mô sản xuất và tối đa hóa lợi nhuận. Liên kết trong tập đoàn có thể là sự liên kết của nhiều doanh nghiệp hoạt động trong cùng ngành nghề, lĩnh vực hoặc cũng có thể trong những lĩnh vực, ngành nghề khác nhau. Tùy thuộc vào lĩnh vực liên kết cũng như mức độ tham gia mà mối quan hệ liên kết giữa các bên có thể ở cấp độ chặt chẽ, nửa chặt chẽ hay lỏng lẻo. Nhưng đối với các bên trong quan hệ hình thành từ liên kết cơ bản là liên kết vốn thì việc họ tham gia liên kết chủ yếu do nhu cầu tự thân là chính, khó có thể thực hiện được bằng những quyết định hành chính và xuất phát từ lợi ích của các doanh nghiệp tham gia liên kết. Trường hợp công ty mẹ đầu tư, góp vốn ở các công ty con hoặc giữa các công ty con với nhau thì quyền hạn và trách nhiệm được qui định bởi tỷ lệ vốn góp, có thể chỉ với mức là cổ đông thông thường. Quyền lợi của công ty mẹ được đảm bảo bằng phần lợi nhuận thu được thông qua tỷ lệ vốn góp. Tóm lại, các liên kết trong TĐKT rất đa dạng, phức tạp song phổ biến vẫn là liên kết về vốn. Động lực thúc đẩy các bên tham gia liên kết chủ yếu vẫn là sự thống nhất về lợi ích giữa các đơn vị thành viên và lợi ích chung của tập đoàn. Trong đó công ty mẹ là hạt nhân của TĐKT nắm quyền lãnh đạo, chi phối hoạt động của công ty con về tài chính và chiến lược phát triển. - Ba là, TĐKT không có tư cách pháp nhân và có cơ cấu tổ chức phức tạp. Một vấn đề luôn được đặt ra đối với TĐKT là: Mặc dù tồn tại với sự liên kết đa dạng như vậy, nhưng sự liên kết ấy có hình thành một tổ chức, có địa vị pháp lý là một pháp nhân kinh tế hay không? Nói cách khác, TĐKT có tư cách pháp nhân hay không? Thực tế nghiên cứu qui định pháp lý của nhiều quốc gia cũng như quan niệm của các nhà khoa học trong lĩnh vực này cho thấy, TĐKT không có tư cách pháp nhân mà chỉ là tổ hợp kinh doanh chứa đựng trong đó các doanh nghiệp có tư cách pháp nhân. Do vậy, các doanh nghiệp trong tập đoàn, kể cả công ty mẹ và các công ty thành viên, bình đẳng với nhau trước pháp luật, được thành lập và đăng ký 10
  15. theo qui định của pháp luật. Thống nhất với quan điểm này, Nghị định 101 qui định: “Công ty mẹ và các doanh nghiệp thành viên tập đoàn có tư cách pháp nhân”. Như vậy, TĐKT không có tư cách pháp nhân mà chỉ là hình thức liên kết các pháp nhân độc lập. Do không có tư cách pháp nhân nên tập đoàn không chịu trách nhiệm liên đới về mặt pháp lý trong quá trình hoạt động đối với các công ty thành viên. “Mỗi công ty trong tập đoàn là một pháp nhân độc lập, tức là có quyền đi kiện và bị kiện, có tài sản để thực hiện quyền đó Do vậy, giả sử bạn khởi tố một tập đoàn ra tòa thì sẽ không có ai trong nhóm công ty kia đứng ra nhận giấy triệu tập” [3]. Về cơ cấu tổ chức: Mặc dù đã hình thành hàng trăm năm nay nhưng vẫn chưa có một khuôn mẫu thống nhất về cơ cấu tổ chức của TĐKT. Song nhìn chung, cơ cấu tổ chức TĐKT gồm nhiều tầng nấc, nhiều mô hình tổ chức khác nhau, và phổ biến là có một công ty mẹ và các công ty con. Công ty mẹ thường thực hiện chức năng quản lý, điều phối và định hướng chung cho cả tập đoàn. Các công ty con được tổ chức theo sự phân công chuyên môn của công ty mẹ và phối hợp để cùng thực hiện mục tiêu chung của toàn tập đoàn. Thông thường, các TĐKT thường được tổ chức theo ba dạng cơ cấu. Một là, cơ cấu tổ chức hình tháp: trong đó đỉnh tháp là trung tâm quyền lực, điều hành mọi hoạt động của toàn tập đoàn, sự phát triển kéo dài theo nhánh (mở rộng đáy hình tháp) nhưng đảm bảo trật tự từ trên xuống. Hai là, cơ cấu tổ chức phân cấp: các quan hệ thường được phân định và giới hạn theo cấp quản lý như cấp I chỉ quản lý cấp II, cấp II chỉ quản lý cấp III, cấp I không can thiệp, quản lý cấp III. Ba là, cơ cấu tổ chức mạng lưới: các quan hệ đan xen, ban đầu là một trung tâm, phát triển theo sơ đồ mạng lưới, sau đó mỗi nhân tố trong mạng lưới có thể phát triển thành một trung tâm độc lập với đầy đủ các quan hệ như trong mạng lưới ban đầu. Cơ cấu phổ biến của TĐKT bao gồm công ty mẹ và các công ty con, trong đó công ty mẹ đóng vai trò trung tâm, thực hiện chức năng quản lý, điều hành và định hướng chung cho cả tập đoàn. - Bốn là, TĐKT thường có qui mô lớn về vốn, doanh thu, lao động và phạm vi hoạt động. 11
  16. Cho đến nay vẫn chưa có một tiêu chí thống nhất về qui mô của TĐKT, song nhìn chung, TĐKT thường có qui mô lớn về vốn, doanh thu, lao động hoạt động trên phạm vi toàn cầu. Một số TĐKT đa quốc gia khổng lồ còn có tiềm lực kinh tế lớn hơn nhiều quốc gia, trở thành một sức mạnh kinh tế có ảnh hưởng nhất định tới tình hình chính trị - xã hội của nhiều quốc gia, nhất là những nước đang phát triển. Các TĐKT lớn nhất thường tập trung ở những nước tư bản phát triển như Mỹ, các nước châu Âu, Nhật Bản Khi nói đến cơ cấu vốn của một chủ thể kinh doanh, ngoài vốn cố định, vốn lưu động, vốn nhân lực không thể không tính đến giá trị thương hiệu (tuy nhiên loại tài sản này lại không nằm trong sổ sách). Ở một số TĐKT, giá trị thương hiệu có khi chiếm trên 50% tổng giá trị thị trường. Ví dụ: giá trị thương hiệu của McDonald chiếm đến 70% giá trị thị trường của công ty [19]. Năm 2006, tổng giá trị của Coca-Cola đạt 103 tỷ USD, của PesiCo đạt 105,4 tỷ USD. Giai đoạn 2001 – 2005, doanh thu của PesiCo tăng 70%, riêng quí II - 2006, tập đoàn này tăng trưởng 13% so với cùng kỳ năm trước và đạt lợi nhuận ở mức kỷ lục với 1,36 tỷ USD [23]. Các TĐKT trên thế giới thường có những mặt hàng chủ đạo và chiếm thị phần lớn, với quy mô kinh doanh toàn cầu, chi nhánh ở hàng trăm quốc gia nên có thể đạt tới mức khổng lồ về doanh thu. Ví dụ: năm 2009 tập đoàn bán lẻ Wal-Mart đạt doanh thu 408,2 tỷ USD, lợi nhuận đạt 14,3 tỷ USD, tăng 7% so với năm 2008, Exxon Mobil mặc dù giảm 35,7% doanh thu so với năm 2008 nhưng vẫn đạt doanh thu 284,6 tỷ USD, lợi nhuận đạt 19,2 tỷ USD [18] (năm 2008 doanh thu đạt 442,8 tỷ USD, lợi nhuận đạt 45,2 tỷ USD [17]) Với nhiều chi nhánh và công ty con ở nhiều nước trên thế giới, các tập đoàn thường thu hút số lượng rất lớn lao động ở chính quốc và ở các quốc gia khác. Chính sách này giúp các TĐKT tận dụng được lượng chất xám ở khắp nơi trên thế giới. Ví dụ, Tập đoàn Siemens của Cộng hòa liên bang Đức có khoảng 430.000 nhân viên làm việc tại 194 quốc gia với 3.500 cơ sở khác nhau, trong đó có 65 công ty khu vực, 1500 công ty, 15 văn phòng đại diện ở 15 nước, 533 đại lý và nhiều nhà phân phối có quan hệ với công ty khu vực. Số lượng nhân viên phân bố ở Đức là 12
  17. 164.000 người, chiếm 38% nguồn nhân lực, Châu Âu (trừ Đức) là 110.000 người, hay 26%; ở Châu Mỹ có 95.000 người, Châu Á: 52.000 người và ở các nơi khác là 9000 người. Trong năm 2004, Siemens đã bỏ ra 400 triệu Euro để đầu tư phát triển nguồn nhân lực. Tập đoàn Alcatel của Pháp, hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực công nghiệp thông tin, internet, có 56.000 cán bộ nhân viên làm việc tại 132 nước trên thế giới [21]. Tập đoàn Air France (Pháp) bao gồm 16 công ty con với 45.000 lao động; Tập đoàn Danone (Pháp) chuyên sản xuất sữa tươi, bánh bích quy, thực phẩm, nước khoáng, bia, có 81.000 nhân viên và tập đoàn Fiat (Italia) có 242.300 nhân viên [14]. Tập đoàn Petronas, Malaysia có trên 30.000 nhân viên ở 35 nước trên thế giới Như vậy, TĐKT có phạm vi hoạt động rất rộng, không chỉ giới hạn trong lãnh thổ quốc gia mà có thể phân bố ở nhiều quốc gia trên thế giới, thậm chí trên phạm vi toàn cầu. Đặc điểm này cho phép các TĐKT khai thác được lợi thế về lao động, nguồn nguyên liệu, thị trường, giảm chi phí vận tải, nhằm tối đa hóa lợi nhuận. - Năm là, TĐKT hoạt động đa ngành nghề, đa lĩnh vực nhưng thường có một ngành, nghề chủ đạo. Kinh doanh đa ngành, đa lĩnh vực là đặc điểm dễ nhận thấy trong các TĐKT nhằm giảm thiểu rủi ro trên thương trường. Qua đó, hoạt động của các TĐKT được bảo đảm an toàn và có hiệu quả, cũng như tiết kiệm được chi phí, tận dụng được cơ sở vật chất và khả năng lao động của tập đoàn. Tuy hoạt động kinh doanh đa ngành, đa lĩnh vực nhưng TĐKT thường đi sâu vào ngành nghề truyền thống, có thế mạnh về cạnh tranh và lợi thế so sánh để đảm bảo mục tiêu lợi nhuận. Ví dụ: Lĩnh vực chủ đạo của Mitsubishi là cơ khí chế tạo nhưng đến nay đã mở rộng sang cả các lĩnh vực: khai khoáng, luyện kim, cơ khí chế tạo, hóa chất, ngân hàng, bảo hiểm, ngoại thương, vận tải Tập đoàn Petronas (Malaysia) trước hoạt động chủ yếu trong ngành dầu khí nhưng hiện nay đã hoạt động trong các lĩnh vực: thăm dò, khai thác dầu khí, lọc dầu, hóa dầu, kinh doanh thương mại các sản phẩm dầu khí, hàng hải, kinh doanh bất động sản, siêu thị và giải trí Tập đoàn Siemens hoạt động chủ yếu trong ngành kỹ thuật điện và điện tử nhưng hiện nay đã mở rộng tới 14 lĩnh vực, 13
  18. Việc mở rộng lĩnh vực đầu tư của các tập đoàn vẫn đang là xu hướng phổ biến, song các ngành được mở rộng phần lớn vẫn có liên quan hoặc hỗ trợ cho việc phát triển ngành nghề chính của tập đoàn. Để phục vụ cho sự phát triển chung của mỗi tập đoàn, hiện nay các tập đoàn thường có thêm các tổ chức tín dụng, ngân hàng, bảo hiểm, nghiên cứu, đào tạo, nhằm hỗ trợ cho những nhu cầu cấp bách, nảy sinh trong quá trình hoạt động kinh doanh của các công ty thành viên về vốn, cũng như hỗ trợ họ về công nghệ, nhân lực, mà những công ty riêng lẻ không có được. 1.1.3. Vai trò của TĐKT Với quyền lực kinh tế và quyền lực phi kinh tế của mình, các TĐKT đang đóng vai trò quan trọng, thậm chí tới mức có thể chi phối sự phát triển của kinh tế thế giới nói chung cũng như kinh tế ở mỗi quốc gia nói riêng. Vai trò của TĐKT có thể được ghi nhận trên bình diện sau đây: 1.1.3.1. Trên bình diện quốc gia và doanh nghiệp - TĐKT tạo nên sức mạnh kinh tế của quốc gia. Theo đánh giá của nhiều nhà khoa học và chuyên gia về kinh tế hiện nay thì sức mạnh của các nền kinh tế phần lớn được thể hiện thông qua sức mạnh và khả năng khống chế của các TĐKT. Sự phát triển của một đất nước, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa cũng như việc nâng cao tố chất chung của nền kinh tế chủ yếu phải dựa vào các TĐKT [21]. “Ở mức độ nào đó thì sự phát triển của tập đoàn doanh nghiệp thể hiện sức mạnh kinh tế quốc gia”[32]. TĐKT có vai trò quan trọng đối với những quốc gia đang phát triển, là công cụ vật chất đặc biệt để nhà nước điều tiết vĩ mô, bảo hộ nền kinh tế trong nước trước sức ép cạnh tranh của các tập đoàn, công ty nước ngoài. Trong những điều kiện cụ thể với sự hỗ trợ tích cực của nhà nước và định hướng chiến lược đúng đắn, các TĐKT ở các nước đang phát triển còn có thể vươn ra và không ngừng mở rộng, củng cố thị trường trên thế giới. Vai trò của các TĐKT không chỉ thể hiện ở tỷ trọng đóng góp trong GDP hay số thuế nộp vào ngân sách nhà nước mà còn góp phần to lớn trong việc nâng cao tiềm lực và uy tín của quốc gia có các TĐKT. Ví dụ: Khi nhắc đến Microsoft người ta nhớ đến nước Mỹ; nói đến Nhật Bản là nói đến ngành công nghiệp điện lạnh, ôtô; 14