Luận văn Địa vị pháp lý của hội đồng xét xử cấp sơ thẩm trong tố tụng hình sự

pdf 99 trang vuhoa 25/08/2022 9140
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Địa vị pháp lý của hội đồng xét xử cấp sơ thẩm trong tố tụng hình sự", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_dia_vi_phap_ly_cua_hoi_dong_xet_xu_cap_so_tham_tron.pdf

Nội dung text: Luận văn Địa vị pháp lý của hội đồng xét xử cấp sơ thẩm trong tố tụng hình sự

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT VŨ QUANG HUY ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ CẤP SƠ THẨM TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ luËn v¨n th¹c sÜ luËt häc Hµ néi - 2009
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT VŨ QUANG HUY ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ CẤP SƠ THẨM TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ Chuyên ngành : Luật hình sự Mã số : 60 38 40 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Văn Tuân Hµ néi - 2009
  3. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các chữ viết tắt MỞ ĐẦU 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HỘI ĐỒNG XÉT XỬ 7 CẤP SƠ THẨM 1.1. Khái niệm địa vị pháp lý của Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm 7 1.1.1. Xét xử sơ thẩm 7 1.1.2. Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm 8 1.1.3. Địa vị pháp lý của Hội đồng xét xử 15 1.2. Một số nguyên tắc liên quan đến hoạt động của Hội đồng xét 18 xử sơ thẩm 1.2.1. Nguyên tắc khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và 19 chỉ tuân theo pháp luật (Điều 16 Bộ luật Tố tụng hình sự) 1.2.2. Nguyên tắc đảm bảo quyền bình đẳng trước Tòa án (Điều 19 21 Bộ luật Tố tụng hình sự) 1.2.3. Nguyên tắc không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết 22 tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật (Điều 9 Bộ luật Tố tụng hình sự) 1.2.4. Nguyên tắc xác định sự thật của vụ án (Điều 10 Bộ luật Tố 24 tụng hình sự) 1.2.5. Nguyên tắc đảm bảo sự vô tư của những người tiến hành tố 25 tụng hoặc người tham gia tố tụng (Điều 14 Bộ luật Tố tụng 1
  4. hình sự) 1.3. Khái quát pháp luật về Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm từ năm 27 1945 đến nay 1.3.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến trước năm 1980 27 1.3.2. Giai đoạn từ năm 1980 đến nay 29 1.4. Một số mối quan hệ của Hội đồng xét xử trong hoạt động 30 xét xử 1.4.1. Quan hệ của Hội đồng xét xử với Chánh án, Phó Chánh án, 31 Ủy ban thẩm phán 1.4.2. Quan hệ của Hội đồng xét xử với Thẩm phán chủ tọa phiên tòa 32 1.4.3. Quan hệ của Hội đồng xét xử với Kiểm sát viên 33 1.4.4. Quan hệ của Hội đồng xét xử với Thư ký Tòa án 35 Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ 37 QUYỀN HẠN, TRÁCH NHIỆM CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ CẤP SƠ THẨM VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG 2.1. Một số quy định có liên quan đến hoạt động của Hội đồng 37 xét xử tại phiên tòa 2.1.1. Thẩm quyền xét xử 37 2.1.1.1. Thẩm quyền theo cấp xét xử 37 2.1.1.2. Thẩm quyền theo lãnh thổ 38 2.1.1.3. Thẩm quyền theo đối tượng 39 2.1.2. Giới hạn xét xử sơ thẩm 41 2.1.3. Việc ra bản án và các quyết định của Hội đồng xét xử 44 2.2. Quy định của pháp luật về quyền hạn, trách nhiệm của Hội 47 đồng xét xử trong phần thủ tục bắt đầu phiên tòa và thực tiễn áp dụng 2
  5. 2.2.1. Quy định của pháp luật về quyền hạn, trách nhiệm Hội đồng 47 xét xử trong phần thủ tục bắt đầu phiên tòa 2.2.2. Thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật về thủ tục bắt đầu 50 phiên tòa 2.3. Quy định của pháp luật về quyền hạn, trách nhiệm của Hội 51 đồng xét xử trong phần thủ tục xét hỏi tại phiên tòa và thực tiễn áp dụng 2.3.1. Quy định của pháp luật về quyền hạn, trách nhiệm của Hội 51 đồng xét xử trong phần thủ tục xét hỏi tại phiên tòa 2.3.2. Thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật về thủ tục xét hỏi 57 tại phiên tòa 2.4. Quy định của pháp luật về quyền hạn, trách nhiệm của Hội 59 đồng xét xử trong phần tranh luận tại phiên tòa và thực tiễn áp dụng 2.4.1. Quy định của pháp luật về quyền hạn, trách nhiệm của Hội 59 đồng xét xử trong phần tranh luận tại phiên tòa 2.4.2. Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về phần tranh 63 luận tại phiên tòa 2.5. Quy định của pháp luật về quyền hạn, trách nhiệm của 64 Hội đồng xét xử trong phần nghị án, tuyên án và thực tiễn áp dụng 2.5.1. Quy định của pháp luật về quyền hạn, trách nhiệm của Hội 64 đồng xét xử trong phần nghị án và thực tiễn áp dụng 2.5.2. Quy định của pháp luật về quyền hạn, trách nhiệm của Hội 68 đồng xét xử trong phần tuyên án Chương 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP 70 LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ CẤP SƠ THẨM TRƢỚC YÊU 3
  6. CẦU CẢI CÁCH TƢ PHÁP 3.1. Yêu cầu phải hoàn thiện quy định của pháp luật về địa vị pháp 70 lý của Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm 3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về địa vị pháp 72 lý của Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm và nâng cao hiệu quả hoạt động của Hội đồng xét xử 3.2.1. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về địa vị pháp 72 lý của Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm trong tố tụng hình sự 3.2.1.1. Bổ sung một số quy định về quyền hạn, trách nhiệm của Hội 72 đồng xét xử 3.2.1.2. Sửa đổi một số quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự về 74 quyền hạn, trách nhiệm của Hội đồng xét xủ 3.2.2. Một số kiến nghị khác nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động 83 của Hội đồng xét xử 3.2.2.1. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật, tăng cường giải thích và 83 hướng dẫn áp dụng pháp luật, phát triển án lệ 3.2.2.2. Nghiêm chỉnh thực hiện nguyên tắc khi xét xử Thẩm phán 84 và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật 3.2.2.3. Tăng cường năng lực cho đội ngũ Thẩm phán và Hội thẩm 86 KẾT LUẬN 89 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 90 4
  7. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BLHS : Bộ luật Hình sự BLTTHS : Bộ luật Tố tụng hình sự HĐXX : Hội đồng xét xử TAND : Tòa án nhân dân TANDTC : Tòa án nhân dân tối cao TAQS : Tòa án quân sự XHCN : Xã hội chủ nghĩa 5
  8. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Xét xử là một hoạt động đặc biệt của của Nhà nước, chỉ có Tòa án là cơ quan tư pháp trong bộ máy nhà nước được giao thực hiện chức năng này. Điều 127 Hiến pháp Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam quy định: "Tòa án nhân dân tối cao, các Tòa án nhân dân địa phương, các Tòa án quân sự và các Tòa án khác do luật định là những cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam" [12]. Trong tố tụng hình sự, xét xử là giai đoạn cuối cùng để giải quyết một vụ án hình sự, là giai đoạn quan trọng nhất của quá trình tố tụng, bằng hoạt động xét xử của mình Tòa án đưa ra bản án, quyết định thể hiện phán quyết của Nhà nước đối với một vụ án hình sự. Chỉ có Tòa án mới có quyền kết tội và quyết định hình phạt đối với một con người. Không ai có thể bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Việc xét xử của Tòa án được thực hiện bởi Hội đồng xét xử (HĐXX), HĐXX là người thay mặt Nhà nước đưa ra bản án, quyết định đối với vụ án hình sự. Bản án, quyết định của HĐXX phải đảm bảo khách quan, đúng pháp luật, không làm oan người vô tội, không được bỏ lọt tội phạm. Nếu thiếu thận trọng, thiếu khách quan HĐXX có thể ra bản án, quyết định không đúng pháp luật, điều đó có thể ảnh hưởng lớn đến uy tín của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, thậm chí nó còn có thể tước bỏ quyền sống của con người. Vì vậy vị trí, vai trò của HĐXX trong xã hội là rất quan trọng. Để đáp ứng yêu cầu đổi mới của đất nước, Đảng và Nhà nước rất quan tâm và đã ban hành nhiều chính sách, pháp luật, đề ra phương hướng, mục tiêu và quy định cụ thể về hoạt động xét xử của Tòa án. 6
  9. Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/1/2002 của Bộ Chính trị - Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam về một số nhiệm vụ trọng tâm trong công tác tư pháp trong thời gian tới đã xác định: Khi xét xử, các Tòa án phải đảm bảo cho mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, thực sự dân chủ khách quan; Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; việc phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện các chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, của người bào chữa, của bị cáo, nguyên đơn, bị đơn [4]. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 cũng chỉ rõ: "Tòa án có vị trí trung tâm và xét xử là hoạt động trọng tâm". Nghị quyết cũng đặt ra yêu cầu: "Đổi mới việc tổ chức phiên tòa xét xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng theo hướng bảo đảm tính công khai dân chủ, nghiêm minh, nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp" [6]. Trên phương hướng chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, đúc rút những kinh nghiệm, thành công khắc phục những hạn chế của hệ thống pháp luật về tố tụng hình sự trước đó đặc biệt là Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 1988. Trên cơ sở tiếp thu và áp dụng những tiếp bộ của khoa học pháp lý trong nước và quốc tế, BLTTHS năm 2003 được ban hành. BLTTHS ban hành năm 2003 có nhiều quy định mới theo hướng mở rộng dân chủ, tôn trọng quyền bào chữa của bị can, bị cáo, công khai, minh bạch đề cao tính tranh tụng trong hoạt động tố tụng. Đối với hoạt động của HĐXX, Bộ luật cũng có những thay đổi như về việc thay thế thành viên của HĐXX trong trường hợp đặc biệt, về giới hạn xét xử, quy định rõ ràng hơn về quyền hạn, trách nhiệm của Thẩm phán, Hội thẩm. 7
  10. Tuy vậy BLTTHS năm 2003 cũng bộ lộ một số thiếu sót và hạn chế, một số nội dung quy định chưa rõ ràng, không phù hợp với vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của HĐXX. Điều đó đòi hỏi phải nghiên cứu về vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của HĐXX, đặc biệt là của HĐXX cấp sơ thẩm để làm rõ địa vị pháp lý của chủ thể này trong hoạt động tố tụng hình sự, góp phần hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả xét xử của Tòa án, đảm bảo không làm oan người vô tội, không bỏ lọt tội phạm. Vì lý do trên tác giả chọn đề tài "Địa vị pháp lý của Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm trong tố tụng hình sự" để nghiên cứu trong luận văn thạc sĩ luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu Từ trước tới nay đã có một số luận văn, luận án nghiên cứu về địa vị pháp lý của những chủ thể khác trong tố tụng hình sự như Thẩm phán, Hội thẩm, Kiểm sát viên, điều tra viên, luật sư nhưng chưa có luận văn, luận án nào nghiên cứu về địa vị pháp lý của HĐXX cấp sơ thẩm trong tố tụng hình sự. Cũng đã có một số tài liệu, bài viết về quyền hạn hoặc trách nhiệm của HĐXX tuy nhiên các tài liệu này thường chỉ tập trung vào một số quyền hạn hoặc trách nhiệm nhất định như quyền yêu cầu điều tra bổ sung, quyền khởi tố vụ án của HĐXX hoặc nghiên cứu về một số thủ tục tại phiên tòa như xét hỏi, tranh luận Chưa có luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ nào nghiên cứu một cách có hệ thống và đầy đủ về quyền hạn và trách nhiệm của HĐXX cấp sơ thẩm trong tố tụng hình sự và cũng chưa làm rõ được vị trí của HĐXX cấp sơ thẩm trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự. Vì vậy, việc nghiên cứu về địa vị pháp lý của HĐXX cấp sơ thẩm trong tố tụng hình sự là rất cần thiết nhằm làm rõ vị trí, quyền hạn và trách nhiệm của HĐXX trong việc xét xử các vụ án hình sự tại cấp sơ thẩm để phục vụ cho nghiên cứu, học tập và thực tiễn áp dụng pháp luật. 8
  11. 3. Mục đích nghiên cứu, nhiệm vụ nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu * Mục đích Luận văn này nghiên cứu một cách có hệ thống những quy định của pháp luật về địa vị pháp lý của HĐXX ở cấp sơ thẩm, cụ thể là nghiên cứu về vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của HĐXX trong tố tụng hình sự. Luận văn cũng nghiên cứu việc áp dụng các quy định này trong thực tiễn, chỉ ra những điểm còn bất cập, những mặt còn hạn chế, để từ đó đưa ra những giải pháp, kiến nghị góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật về địa vị pháp lý của Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm trong tố tụng hình sự, nâng cao hiệu quả xét xử của Tòa án. * Nhiệm vụ Để thực hiện được mục đích trên, luận văn có các nhiệm vụ sau đây: - Nghiên cứu những vấn đề chung về địa vị pháp lý của HĐXX cấp sơ thẩm làm cơ sở cho việc nghiên cứu các quy định của BLTTHS về vấn đề này. - Nghiên cứu, phân tích, làm rõ các quy định của BLTTHS và các văn bản pháp luật có liên quan về quyền hạn, trách nhiệm của HĐXX cấp sơ thẩm trong hoạt động tố tụng hình sự. - Chỉ ra các điểm bất cập, hạn chế trong các quy định của pháp luật, đưa ra những kiến nghị, đề xuất nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về địa vị pháp lý của HĐXX cấp sơ thẩm và những giải pháp nâng cao hiệu quả xét xử của Tòa án. * Phạm vi nghiên cứu 9
  12. Luận văn này chỉ nghiên cứu về địa vị pháp lý của HĐXX cấp sơ thẩm trong tố tụng hình sự. Tập trung làm rõ vị trí, quyền hạn và trách nhiệm của HĐXX trong quá trình xét xử vụ án hình sự. 4. Cơ sở lý luận, đối tƣợng nghiên cứu, phƣơng pháp nghiên cứu * Cơ sở lý luận Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-LêNin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng nhà nước pháp quyền, cải cách tư pháp, xây dựng xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. * Đối tượng nghiên cứu Nội dung đề tài được làm sáng tỏ dựa trên cơ sở nghiên cứu các quy định của BLTTHS và các văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật quy định về vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của HĐXX cấp sơ thẩm. * Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: Phương pháp phân tích, tổng hợp, đối chiếu, so sánh, phương pháp thống kê. Kết luận và đề xuất của luận văn đều dựa trên cơ sở phân tích lý luận, cơ sở khoa học, phân tích thực tiễn và phân tích xu hướng phát triển của hoạt động tố tụng hình sự trong những năm tới. 5. Đóng góp mới của luận văn Luận văn làm rõ khái niệm về địa vị pháp lý của HĐXX cấp sơ thẩm. Luận văn sẽ phân tích về vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của HĐXX cấp sơ thẩm theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự, thực tiễn áp dụng áp dụng những quy định đấy và chỉ ra những hạn chế thiếu sót của pháp luật hiện tại từ đó đưa ra những kiến nghị, đề xuất giải pháp hoàn thiện. 10
  13. Do đó luận văn có cả ý nghĩa về lý luận và thực tiễn, đóng góp vào hệ thống lý luận luật tố tụng hình sự, là tài liệu tham khảo bổ ích cho những người nghiên cứu, học tập và làm công tác thực tiễn. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn gồm có 3 chương: Chương 1: Những vấn đề chung về Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm trong tố tụng hình sự. Chương 2: Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về địa vị pháp lý của Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm và thực tiễn áp dụng. Chương 3: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự về địa vị pháp lý của Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm trong tố tụng hình sự trước yêu cầu cải cách tư pháp. 11
  14. Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HỘI ĐỒNG XÉT XỬ CẤP SƠ THẨM 1.1. KHÁI NIỆM ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ CẤP SƠ THẨM. 1.1.1. Xét xử sơ thẩm Xét xử là một hoạt động đặc thù mà chỉ có Tòa án là cơ quan duy nhất có quyền thực hiện. Tòa án thay mặt Nhà nước xem xét bản chất pháp lý của một vụ án từ đó đưa ra phán quyết. Theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự nước ta, Tòa án xét xử theo hai cấp, đó là cấp xét xử sơ thẩm và cấp xét xử phúc thẩm. Cấp xét xử sơ thẩm là cấp xét xử đầu tiên, mọi vụ án đã đưa ra xét xử đều phải trải qua hoạt động xét xử sơ thẩm. Theo Từ điển Luật học "xét xử sơ thẩm là một từ Hán Việt, có nghĩa lần đầu tiên đưa vụ án ra xét xử tại một Tòa án có thẩm quyền" [31, tr. 870]. Theo quan điểm của tác giả Đinh Văn Quế "xét xử sơ thẩm là việc xét xử lần thứ nhất (cấp thứ nhất) do Tòa án được giao thẩm quyền thực hiện theo quy định của pháp luật" [9, tr. 7]. Ta có thể nhận thấy xét xử sơ thẩm có các dấu hiệu sau: Đây là cấp xét xử đầu tiên trong tố tụng hình sự, bất cứ vụ án nào đã đưa ra xét xử đều phải qua hoạt động xét xử sơ thẩm. Xét xử sơ thẩm là hoạt động nằm trong giai đoạt xét xử của quá trình tố tụng. Việc xét xử sơ thẩm chỉ được thực hiện trên cơ sở có quyết định truy tố (bằng cáo trạng hay quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn) của Viện kiểm sát. Việc xét xử sơ thẩm được tiến hành tại một phiên tòa do một HĐXX thực hiện theo những trình tự thủ tục pháp luật quy định. Một vụ án bị Tòa án cấp trên hủy để xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm cũng được coi là xét xử lần đầu tiên, theo cấp xét xử đầu tiên. Xét xử sơ thẩm được coi là giai đoạn trung tâm của hoạt động tư pháp khi vụ án được đưa ra xét xử lần đầu tiên, HĐXX sơ thẩm phải giải quyết 12
  15. toàn bộ vụ án, mọi chứng cứ tài liệu được thu thập tại giai đoạn điều tra đều phải được đưa ra xem xét, thẩm tra, đánh giá công khai tại phiên tòa, những người tham gia tố tụng được trình bày ý kiến và tranh luận bình đẳng tại phiên tòa. Điều này khác với tính chất của xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm chủ yếu chỉ xem xét những nội dung có kháng cáo, kháng nghị và xem xét tính hợp pháp, có căn cứ của bản án, quyết định của Tòa án cấp dưới. Theo quy định của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (TAND) và BLTTHS năm 2003, Tòa án có thẩm quyền xét xử sơ thẩm là TAND cấp huyện, TAND cấp tỉnh, Tòa án quân sự (TAQS) khu vực và TAQS cấp quân khu. Tòa án nhân dân tối cao hiện nay không còn thẩm quyền xét xử sơ thẩm đồng thời là chung thẩm như theo quy định của BLTTHS năm 1988. Số lượng các vụ án hình sự xét xử sơ thẩm của toàn ngành Tòa án hàng năm là rất lớn. Năm 2007 toàn ngành Tòa án xét xử sơ thẩm 55.299 vụ án, với 92.260 bị cáo, năm 2008 xét xử sơ thẩm 63.040 vụ án, với 109.338 bị cáo. Số liệu đó phần nào cũng phản ánh xét xử sơ thẩm là một hoạt động thường xuyên, rất quan trọng của ngành Tòa án. Hoạt động này có tác động đến rất nhiều mặt của cuộc sống như chính trị, kinh tế, xã hội, có liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. 1.1.2 Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm Xét xử là một hoạt động được pháp luật quy định phải được thực hiện bởi một tập thể. Tập thể đó được thành lập theo quy định của pháp luật, hoạt động theo những nguyên tắc do pháp luật quy định. Tập thể đó có những quyền hạn, trách nhiệm theo quy định của pháp luật, tập thể đó được pháp luật gọi là HĐXX. Điều 6 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002 quy định "Tòa án nhân dân xét xử tập thể và quyết định theo đa số. Thành phần Hội đồng xét xử ở mỗi cấp xét xử do pháp luật tố tụng quy định" [14]. Tòa án xét xử tập thể còn là một nguyên tắc đã được ghi nhận tại Điều 131 Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam và Điều 18 BLTTHS. Quy định này xuất phát từ việc coi trọng hoạt động xét xử, Nhà nước thấy rằng xét xử là một hoạt động 13
  16. đặc thù, rất khó khăn, phức tạp, cần có sự thận trọng. Do đó Nhà nước trao quyền xét xử cho một tập thể với mong muốn tập thể xét xử sẽ bảo đảm khách quan, công bằng và chính xác hơn. Tại phiên tòa HĐXX giữ vị trí trung tâm, mọi hoạt động tại phiên tòa đều nhằm mục đích giúp cho HĐXX xác định được sự thật của vụ án từ đó ra bản án, quyết định đúng pháp luật. Trong quá trình xét xử, HĐXX hoạt động theo nguyên tắc độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, nguyên tắc quyết định theo đa số và các quy định khác của pháp luật. Khi xét xử, HĐXX có quyền nhân danh Nhà nước kết tội hoặc tuyên bố một người là vô tội, HĐXX cũng có quyền thay mặt Nhà nước giải quyết những vấn đề có liên quan đến vụ án như áp dụng hình phạt, bồi thường dân sự hay khôi phục danh dự, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân Theo quy định của BLTTHS thành phần HĐXX xét xử ở cấp sơ thẩm gồm có Thẩm phán và các Hội thẩm. Thẩm phán là người được Nhà nước bổ nhiệm vào ngạch Thẩm phán, chuyên làm công tác xét xử tại Tòa án. Thẩm phán được Nhà nước trao cho nhiều quyền hạn và trách nhiệm để thực hiện nhiệm vụ của mình. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của mình Thẩm phán có thể có nhiều quyết định hoặc hành động có liên quan đến quyền và lợi ích của Nhà nước, của các tổ chức và công dân. Do vậy Nhà nước quy định tiêu chuẩn của một Thẩm phán rất chặt chẽ. Khoản 1 Điều 37 Luật Tổ chức TAND quy định: Công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc và Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩ Việt Nam, có phẩm chất đạo đức tốt, liêm khiết, trung thực, có tinh thần kiên quyết bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, có trình độ cử nhân luật và đã được đào tạo về nghiệp vụ xét xử, có thời gian làm công tác thực tiễn theo quy định của pháp luật, có năng lực làm công tác xét xử, có sức khỏe bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán [14]. 14
  17. Quyền hạn, trách nhiệm của Thẩm phán trong tố tụng hình sự được quy định tại Điều 39 BLTTHS như sau: 1. Thẩm phán được phân công giải quyết, xét xử các vụ án hình sự có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây: a) Nghiên cứu hồ sơ vụ án trước khi mở phiên tòa; b) Tham gia xét xử các vụ án hình sự; c) Tiến hành các hoạt động tố tụng và biểu quyết những vấn đề thuộc thẩm quyền của HĐXX; d) Tiến hành các hoạt động tố tụng khác theo sự phân công của Chánh án Tòa án. 2. Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa, ngoài những nhiệm vụ quyền hạn được quy định tại khoản 1 điều này còn có những nhiệm vụ, quyền hạn sau đây: a) Áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn theo quy định của Bộ luật này; b), Quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung; c)Quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án; d)Quyết định triệu tập những người tham gia tố tụng đến phiên tòa; Tiến hành các hoạt động tố tụng khác theo sự phân công của Chánh án Tòa án [15]. Thẩm phán là một nghề vinh quang nhưng cũng rất khó khăn, vất vả, chịu nhiều sức ép, thậm chí có cả hiểm nguy khi thực hiện nhiệm vụ. Tuy nhiên, hiện nay tại Việt Nam nghề Thẩm phán chưa được quan tâm đúng mức, vị thế trong xã hội được coi trọng, chế độ đãi ngộ còn chưa tương xứng. Hội thẩm là người được pháp luật quy định là thành viên của HĐXX. Vai trò của Hội thẩm trong hoạt động xét xử rất quan trọng, họ đại diện cho nhân dân tham gia xét xử, tham gia giám sát hoạt động xét xử của Tòa án. Trong thành phần HĐXX cấp sơ thẩm bắt buộc phải có sự tham gia của Hội thẩm, đây là một đặc điểm riêng về thành phần của HĐXX cấp sơ thẩm. Tại TAND có các Hội thẩm nhân dân, tại TAQS có các Hội thẩm quân nhân. Hội thẩm nhân dân do Hội đồng nhân dân bầu ra, Hội thẩm quân nhân do được cử 15
  18. ra. Pháp luật quy định tiêu chuẩn về Hội thẩm rất rõ ràng, khoản 2 Điều 37 Luật Tổ chức TAND quy định: Công dân Việt Nam trung thành với tổ quốc và Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có phẩm chất, đạo đức tốt, liêm khiết và trung thực, có kiến thức pháp lý, có tinh thần kiên quyết bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, có sức khỏe bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao, thì có thể được bầu hoặc cử làm Hội thẩm [14]. Hội thẩm tham gia xét xử các vụ án hình sự có các quyền hạn và trách nhiệm được quy định tại Điều 40 BLTTHS như sau: 1. Hội thẩm được phân công xét xử các vụ án hình sự có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây: a) Nghiên cứu hồ sơ vụ án trước khi mở phiên tòa; b)Tham gia xét xử các vụ án hình sự theo thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm; c)Tiến hành các hoạt động tố tụng và biểu quyết những vấn đề thuộc thẩm quyền của Hội đồng xét xử. 2. Hội thẩm phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về những hành vi và những quyết định của mình [15]. Trách nhiệm, quyền hạn của Thẩm phán và Hội thẩm trong hoạt động tố tụng được quy định trong pháp luật tố tụng, nhưng Thẩm phán và Hội thẩm còn có trách nhiệm, quyền hạn theo các quy định khác của pháp luật. Khoản 4 Điều 37 Luật tổ chức TAND quy định: Thẩm phán, Hội thẩm chịu trách nhiệm trước pháp luật về thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình và phải giữ bí mật công tác theo quy định của pháp luật; nếu có hành vi vi phạm pháp luật tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý theo quy định của pháp luật. Thẩm phán, Hội thẩm khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình mà gây thiệt hại thì Tòa án nơi Thẩm phán, Hội thẩm đó 16
  19. thực hiện nhiệm vụ xét xử phải có trách nhiệm bồi thường và Thẩm phán, Hội thẩm đã gây thiệt hại có trách nhiệm bồi hoàn cho Tòa án theo quy định [14]. Thành phần HĐXX khi xét xử bắt buộc phải có Thẩm phán. Họ là các chuyên gia pháp lý được trang bị kiến thức pháp luật đầy đủ, có kinh nghiệm áp dụng pháp luật, nắm vững các quy định có liên quan để đảm bảo việc xét xử có căn cứ pháp lý vững chắc. Tuy nhiên, xét xử là một hoạt động mang tính xã hội nên cần phải có đại diện của nhân dân tham gia, những người đại diện đó là các Hội thẩm. Hội thẩm tham gia xét xử thể hiện tính dân chủ, họ thể hiện sự tham gia của nhân dân vào quản lý và điều hành đất nước, thể hiện tinh thần lấy dân làm gốc. Sự tham gia của Hội thẩm cũng là sự giám sát của nhân dân với hoạt động xét xử của Tòa án, họ bổ sung cho các Thẩm phán những kinh nghiệm xã hội, họ nói lên tiếng nói của con người bình thường khi nhìn nhận một sự kiện pháp lý, một hành vi bị đề nghị xử lý theo luật hình sự. Sự kết hợp giữa Thẩm phán và Hội thẩm trong HĐXX là rất cần thiết. Điều 185 BLTTHS quy định: Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm một Thẩm phán và hai Hội thẩm. Trong trường hợp vụ án có tính chất nghiêm trọng, phức tạp, thì Hội đồng xét xử có thể gồm hai Thẩm phán và ba Hội thẩm. Đối với vụ án mà bị cáo bị đưa ra xét xử về tội theo khung hình phạt có mức cao nhất là tử hình thì Hội đồng xét xử gồm hai Thẩm phán và ba Hội thẩm. Thẩm phán chủ tọa phiên tòa điều khiển việc xét xử tại phiên tòa và giữ gìn kỷ luật phiên tòa [15]. Nghiên cứu BLTTHS năm 2003 nhận thấy thành phần HĐXX sơ thẩm có thể có hai loại: - Loại thứ nhất là HĐXX có 3 thành viên, trong đó có 1 Thẩm phán và 2 Hội thẩm. HĐXX này xét xử các vụ án không có tính chất nghiêm trọng, 17
  20. không phức tạp và không có bị cáo bị đưa ra xét xử về tội theo khung hình phạt có mức cao nhất là tử hình. - Loại thứ hai là HĐXX có 5 thành viên, để xét xử các vụ án có tính chất nghiêm trọng, phức tạp, các vụ án có bị cáo bị truy tố, xét xử về tội có khung hình phạt mức cao nhất là tử hình. HĐXX có 5 thành viên trong đó phải có 2 Thẩm phán và 3 Hội thẩm. Đối với bất kỳ HĐXX nào Chủ tọa phiên tòa phải là Thẩm phán, pháp luật không quy định Hội thẩm được làm chủ tọa phiên tòa. Chủ tọa phiên tòa là người điều khiển việc xét xử tại phiên tòa và duy trì kỷ luật tại phiên tòa. Ngoài các thành viên chính thức của HĐXX, HĐXX còn có thể có các thành viên dự khuyết. Thẩm phán, Hội thẩm dự khuyết phải có mặt tại phiên tòa từ đầu mới được tham gia xét xử. Nếu HĐXX có 5 thành viên mà phải thay thế Thẩm phán đang làm Chủ tọa phiên tòa thì Thẩm phán còn lại trong Hội đồng sẽ làm chủ tọa phiên tòa, Thẩm phán dự khuyết được bổ sung làm thành viên của HĐXX. Với HĐXX có 3 thành viên mà phải thay thế Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa thì đương nhiên Thẩm phán dự khuyết sẽ làm chủ tọa phiên tòa. Nếu phải thay thế thành viên của HĐXX mà không có thành viên dự khuyết tương xứng thì phải hoãn phiên tòa và phiên tòa mới sẽ phải bắt đầu lại từ đầu. Hiện nay có nhiều ý kiến khác nhau về thành phần HĐXX cấp sơ thẩm, nhưng chủ yếu có hai quan điểm chính. Quan điểm thứ nhất cho rằng: Thành phần HĐXX theo quy định như hiện nay là phù hợp, sự tham gia của Hội thẩm đại diện cho nhân dân tham gia xét xử với tỷ lệ như hiện nay là hợp lý. Quan điểm thứ hai cho rằng: Thành phần HĐXX hiện nay không phù hợp vì vai trò và của Hội thẩm tại các phiên tòa là rất mờ nhạt, trình độ pháp luật của các Hội thẩm nhìn chung còn hạn chế, trách nhiệm của Hội thẩm 18
  21. chưa rõ ràng, nhiều Hội thẩm tham gia xét xử mang tính hình thức thậm chí không hiểu rõ ràng về vụ án đặc biệt là khi xét xử các tội phạm liên quan đến kinh tế, tin học, chứng khoán Thành phần của HĐXX cũng là một nội dung cần nghiên cứu xem xét để đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, nâng cao chất lượng xét xử. Trong thủ tục đặc biệt đối với người chưa thành niên khoản 1 Điều 307 BLTTHS còn quy định: "Thành phần Hội đồng xét xử phải có một Hội thẩm là giáo viên hoặc là cán bộ Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh" [15]. Quy định này nhằm bảo đảm phải có thành viên trong HĐXX là người am hiểu tâm, sinh lý của người chưa thành niên để có hiểu biết về hành vi, suy nghĩ của người chưa thành niên. Giáo viên và cán bộ Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh là người thường xuyên tiếp xúc với người chưa thành niên nên hiểu tâm, sinh lý của người chưa thành niên hơn những người khác. Họ có sẽ giúp HĐXX hiểu hơn về suy nghĩ và hành vi của bị cáo đến bị truy tố, xét xử và họ cùng có thể có cách hỏi tại phiên tòa phù hợp hơn với tâm, sinh lý của người chưa thành niên giúp bị cáo trình bày, bào chữa rõ ràng hơn, đầy đủ hơn. BLTTHS hiện nay không quy định về thủ tục thành lập, hình thức thành lập HĐXX. Tại điểm b khoản 1 Điều 38 BLTTHS về trách nhiệm, quyền hạn của Chánh án Tòa án trong việc phân công Thẩm phán, Hội thẩm tham gia giải quyết, xét xử vụ án hình sự. Thực tế hoạt động của Tòa án cho thấy rất hiếm Chánh án Tòa án có quyết định bằng văn bản phân công Thẩm phán, Hội thẩm tiến hành tố tụng đối với mỗi vụ án cụ thể và cũng không có quyết định bằng văn bản thành lập HĐXX. Thông thường, sau khi Tòa án thụ lý vụ án, Chánh án Tòa án giao hồ sơ vụ án cho Thẩm phán bằng cách cho Thẩm phán ký nhận trong sổ phân công Thẩm phán làm chủ tọa phiên tòa. Thẩm phán đó có trách nhiệm nghiên cứu hồ sơ vụ án trong thời hạn luật định. Nếu thấy có đủ điều kiện để đưa vụ án ra xét xử thì báo cáo với Chánh 19
  22. án để Chánh án phân công Hội thẩm tham gia xét xử. Đối với Hội thẩm cũng rất ít Chánh án có quyết định phân công Hội thẩm tiến hành tố tụng bằng văn bản, thông thường chỉ phân công miệng hoặc có giấy mời Hội thẩm tham gia xét xử. Sau khi Chánh án Tòa án phân công Hội thẩm, Thẩm phán ra quyết định đưa vụ án ra xét xử. quyết định đưa vụ án ra xét xử phải ghi rõ họ tên những người tiến hành tố tụng, đây là văn bản pháp lý đầu tiên chính thức xác lập vị trí, quyền hạn, trách nhiệm Thẩm phán, Hội thẩm trong HĐXX. Hiện nay, BLTTHS không quy định hình thức phân công Thẩm phán, Hội thẩm tiến hành tố tụng đối với mỗi vụ án, do đó Chánh án Tòa án không ban hành quyết định bằng văn bản thành lập HĐXX hoặc quyết định phân công Thẩm phán, Hội thẩm tiến hành tố tụng bằng văn bản chưa tạo ra cơ sở pháp lý chặt chẽ để xác định vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của Thẩm phán, Hội thẩm trong quá trình giải quyết vụ án. Đây là một hạn chế của BLTTHS cần phải xem xét, nghiên cứu. 1.1.3 Địa vị pháp lý của Hội đồng xét xử Địa vị pháp lý là một thuật ngữ có thể được hiểu theo nhiều cách khác nhau. Có cách hiểu địa vị pháp lý đơn giản là các quyền và nghĩa vụ của một chủ thể theo quy định của pháp luật. Có cách hiểu địa vị pháp lý là quyền hạn và trách nhiệm của chủ thể nào đó trong các mối quan hệ được pháp luật điều chỉnh. Theo Từ điển tiếng Việt: "Địa vị là vị trí, vai trò của cá nhân trong quan hệ xã hội do chức vụ, cấp bậc, quyền lực mà có" [23, tr. 501]. Còn theo Từ điển luật học: Địa vị pháp lý là vị trí của chủ thể pháp luật trong mối quan hệ với những chủ thể pháp luật khác trên cơ sở các quy định của pháp luật. Địa vị pháp lý của chủ thể pháp luật thể hiện thành một tổng thể các quyền và nghĩa vụ pháp lý của chủ thể, qua đó xác lập cũng như giới hạn khả năng của chủ thể trong các hoạt động của mình [31, tr. 244]. 20