Luận văn Đấu thầu mua sắm hàng hóa theo phương thức một giai đoạn một túi hồ sơ theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn ngành khí tượng thủy văn
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Đấu thầu mua sắm hàng hóa theo phương thức một giai đoạn một túi hồ sơ theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn ngành khí tượng thủy văn", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_dau_thau_mua_sam_hang_hoa_theo_phuong_thuc_mot_giai.pdf
Nội dung text: Luận văn Đấu thầu mua sắm hàng hóa theo phương thức một giai đoạn một túi hồ sơ theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn ngành khí tượng thủy văn
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ___ NGUYỄN THỊ HIỆP ĐẤU THẦU MUA SẮM HÀNG HÓA THEO PHƢƠNG THỨC MỘT GIAI ĐOẠN MỘT TÚI HỒ SƠ THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN NGÀNH KHÍ TƢỢNG THỦY VĂN LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - năm 2017
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ___ NGUYỄN THỊ HIỆP ĐẤU THẦU MUA SẮM HÀNG HÓA THEO PHƢƠNG THỨC MỘT GIAI ĐOẠN MỘT TÚI HỒ SƠ THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN NGÀNH KHÍ TƢỢNG THỦY VĂN Chuyên ngành: Luật Kinh tế Mã số: 60.38.01.07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS.TRẦN ĐÌNH HẢO HÀ NỘI - năm 2017
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu nêu trong luận văn là hoàn toàn trung thực và có nguồn trích dẫn rõ ràng. Kết quả nghiên cứu của luận văn không có sự trùng lặp với bất kỳ công trình nào đã công bố. Hà Nội, tháng 12 năm 2016 Tác giả Nguyễn Thị Hiệp
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẤU THẦU VÀ PHÁP LUẬT VỀ ĐẤU THẦU MUA SẮM HÀNG HÓA THEO PHƢƠNG THỨC MỘT GIAI ĐOẠN, MỘT TÚI HỒ SƠ 6 1.1. Khái niệm đấu thầu mua sắm hàng hóa theo phương thức một giai đoạn, một túi hồ sơ 6 1.2. Pháp luật về đấu thầu mua sắm hàng hóa theo phương thức một giai đoạn, một túi hồ sơ 11 CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT MUA SẮM HÀNG HÓA THEO PHƢƠNG THỨC MỘT GIAI ĐOẠN, MỘT TÚI HỒ SƠ THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN NGÀNH KHÍ TƢỢNG THỦY VĂN 21 2.1. Thực trạng pháp luật về đấu thầu trong mua sắm hàng hóa theo phương thức một giai đoạn, một túi hồ sơ ở Việt Nam hiện nay 21 2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về đấu thầu trong trong mua sắm hàng hóa theo phương thức một giai đoạn, một túi hồ sơ theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn ngành khí tượng thủy văn 45 CHƢƠNG 3. PHƢƠNG HƢỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ ĐẤU THẦU MUA SẮM HÀNG HÓA THEO PHƢƠNG THỨC MỘT GIAI ĐOẠN, MỘT TÚI HỒ SƠ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 69 3.1. Phương hướng hoàn thiện 69 3.2. Giải pháp hoàn thiện 71 KẾT LUẬN 76 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
- DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ADB Ngân hàng phát triển Châu Á DA Dự Án EPC Engineering - Procurenment - Construction (thiết kế - cung cấp thiết bị công nghệ và thi công xây dựng) GTVT Giao thông vận tải HSDT Hồ sơ dự thầu HSMT Hồ sơ mời thầu HSĐX Hồ sơ đề xuất QLDA Quản lý dự án USD Đô la Mỹ VND Đồng Việt Nam WB Ngân hàng thế giới
- DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu Tên bảng Trang bảng Giá trị gói thầu thực hiện theo phương thức đấu thầu rộng 2.1. 54 rãi 2.2. Giá trị gói thầu thực hiện theo phương thức chỉ định thầu 59 Giá trị gói thầu thực hiện theo phương thức chào hàng cạnh 2.3. 64 tranh
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Đấu thầu là một hoạt động của nền kinh tế thị trường, nó tuân theo các quy luật khách quan của thị trường như quy luật cung- cầu, quy luật giá cả- giá trị.Thông qua hoạt động đấu thầu, Bên mời thầu có nhiều cơ hội để lựa chọn những nhà thầu phù hợp với mình, mang lại hiệu quả cao nhất với giá cả cạnh tranh nhất.Đồng thời nhà thầu có nhiều cơ hội để cạnh tranh nhằm đạt được các hợp đồng để có thể cung cấp các hàng hóa sản xuất ra, cung cấp các kiến thức mà mình có hoặc các dịch vụ mà mình có khả năng đáp ứng nhằm tối đa hóa lợi nhuận. Thông qua đấu thầu, các hoạt động kinh tế đều được kích thích phát triển như các ngành sản xuất trực tiếp, các ngành công nghiệp phụ trợ, chế biến, xây dựng, tư vấn vv Với việc nhiều nhà thầu đứng vai trò tổng thầu để kết hợp được các nhà chế tạo, nhà sản xuất, các chuyên gia tư vấn nhằm thực hiện các gói thầu quy mô lớn, tổng hợp nhiều lĩnh vực đã làm cho hoạt động kinh tế được diễn ra theo hướng chuyên môn hóa sâu và đa phương hóa rộng. Hoạt động đấu thầu được áp dụng vào Việt Nam trong khoảng thời gian trên 10 năm trở lại đây, nó đã đóng góp những thành tựu to lớn cho sự phát triển kinh tế của đất nước. Bên cạnh những mặt tích cực mà hoạt động đấu thầu mang lại còn tồn tại những mặt tiêu cực như tình trạng đấu thầu thiếu minh bạch, thiếu công bằng, thông đồng giữa bên mời thầu và nhà thầu hoặc giữa các nhà thầu với nhau, vv vẫn diễn ra khá phổ biến, tình trạng này đi ngược lại với chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước về hoạt động đấu thầu.Do vậy, việc đi sâu nghiên cứu hoàn thiện chính sách về đấu thầu và quản lý nhà nước về đấu thầu là điều hết sức cần thiết cho quá trình phát triển kinh tế bền vững, đặc biệt là phương pháp đấu thầu mua sắm hàng hoá theo phương thức một giai đoạn, một túi hồ sơ. Quá trình thực hiện Luật Đấu thầu đã bộc lộ một số hạn chế, tồn tại như: phạm vi điều chỉnh chưa bao trùm hết các hoạt động mua sắm sử dụng nguồn lực của nhà nước (như các hoạt động mua sắm vì mục đích công nhưng không hình thành dự án, các hoạt động đầu tư ra nước ngoài sử dụng vốn nhà nước, đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư thực hiện các dự án hợp tác công tư PPP, dự án có sử dụng 1
- đất ); một số nội dung chưa được quy định trong Luật hoặc có quy định chưa rõ ràng gây khó khăn trong quá trình thực hiện, một số quy định mang tính quy trình còn phức tạp, các quy định mang tính chế tài xử lý các hành vi vi phạm còn chưa đủ mạnh, chưa đủ sức răn đe, vv Luật đấu thầu 2005: + Đấu thầu rộng rãi, đấu thầu hạn chế đối với gói thầu cung cấp dịch vụ phi tư vấn; gói thầu mua sắm hàng hóa, xây lắp, hỗn hợp có quy mô nhỏ. + Chào hàng cạnh tranh đối với gói thầu cung cấp dịch vụ phi tư vấn, mua sắm hàng hóa, xây lắp. + Chỉ định thầu với gói thầu cung cấp dịch vụ tư vấn, dịch vụ phi tư vấn, mua sắm hàng hóa, xây lắp, hỗn hợp. + Mua sắm trực tiếp đối với gói thầu mua sắm hàng hóa. + Chỉ định thầu đối với lựa chọn nhà đầu tư. Để thực hiện tốt hoạt động đấu thầu mang lại sự minh bạch cũng như hiệu quảthì cơ sở pháp lý phải chặt chẽ, chế tài phải đủ mạnh, các quy định phải phù hợp với tình hình thực tế. Xuất phát từ yêu cầu đó và thực tế về hoạt động đấu thầu mua sắm hàng hóa ở Việt Nam, việc nghiên cứu, phân tích cơ chế quản lý đấu thầu mua sắm hàng hóa theo phương thức một giai đoạn, một túi hồ sơ ở Việt Nam có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn. Vì lý do trên, do vậy tác giả đã lựa chọn đề tài “Đấu thầu mua sắm hàng hóa theo phương thức một giai đoạn một túi hồ sơ theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn ngành khí tượng thủy văn” thực hiện trong luận văn thạc sỹ luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Kể từ khi Luật đấu thầu số 43/2013/QH13 có hiệu lực, đã có một số công trình, đề tài nghiên cứu khoa học, luận văn thạc sỹ nghiên cứu về hoạt động đấu thầu trong mua sắm hàng hoá nói chung hoặc của từng đơn vị, công ty, xí nghiệp riêng biệt ở Việt Nam, như: “Quản lý nhà nước về hoạt động đấu thầu mua sắm hàng hoá trong khu vực công ở Việt Nam” (tác giả Phạm Trung Kiên – Đại học Quốc gia) hay như “Quy chế đấu thầu quốc tế về mua sắm hàng hoá” (tác giả Nguyễn Duy Phương – Đại học Quốc gia) hay “Mua sắm tập trung trong đấu thầu 2
- theo pháp luật Việt Nam” (tác giả Lê Duy Cương- Đại học Quốc gia). Nhưng chưa có công trình nghiên cứu tập chung nào về phương thức một giai đoạn, một túi hồ sơ đối với hoạt động đấu thầu mua sắm hàng hóa ở Việt Nam. Vì vậy, luận văn tốt nghiệp sẽ tập trung nghiên cứu về “Đấu thầu mua sắm hàng hóa theo phương thức một giai đoạn một túi hồ sơ theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn ngành khí tượng thủy văn” để đưa ra một số giải pháp hoàn thiện pháp luật đối với hoạt động đấu thầu mua sắm hàng hóa ở Việt Nam cũng như trong ngành khí tượng thủy văn. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của Luận văn là nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về đấu thầu mua sắm hàng hóa theo phương thức một giai đoạn, một túi hồ sơ; phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về đấu thầu mua sắm hàng hóa theo phương thức một giai đoạn, một túi hồ sơ ở ngành khí tượng thủy văn hiện nay; để từ đó đề xuất các phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về đấu thầu mua sắm hàng hóa theo phương thức một giai đoạn, một túi hồ sơ ở Việt Nam trong thời gian tới 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để thực hiện mục đích nghiên cứu trên, Luận văn có các nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể như sau: Nghiên cứu nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về đấu thầu mua sắm hàng hóa theo phương thức một giai đoạn, một túi hồ sơ; - Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về đấu thầu mua sắm hàng hóa theo phương thức một giai đoạn, một túi hồ sơ ở Việt Nam hiện nay - Phân tích, đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật về đấu thầu mua sắm hàng hóa theo phương thức một giai đoạn, một túi hồ sơ ở ngành khí tượng thủy văn; - Kinh nghiệm quốc tế trong đấu thầu mua sắm hàng hóa ở một số quốc gia trên thế giới theo phương thức một giai đoạn, một túi hồ sơ - Đề xuất các phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về đấu thầu mua sắm hàng hóa theo phương thức một giai đoạn, một túi hồ sơ ở Việt Nam trong thời gian tới. 3
- 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn có đối tượng nghiên cứu là : (i) Các quan điểm, học thuyết pháp lý, lý thuyết về đấu thầu mua sắm hàng hóa theo phương thức một giai đoạn, một túi hồ sơ; (ii) Pháp luật của một số quốc gia, Quy chế đấu thầu mua sắm hàng hóa của các tổ chức quốc tế; (iii) Pháp luật hiện hành của Việt Nam về đấu thầu mua sắm hàng hóa theo phương thức một giai đoạn, một túi hồ sơ. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận về đấu thầu mua sắm hàng hóa theo phương thức một giai đoạn, một túi hồ sơ; phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về đấu thầu mua sắm hàng hóa theo phương thức một giai đoạn, một túi hồ sơ ở Việt Nam hiện nay và qua đó đề xuất các phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về đấu thầu mua sắm hàng hóa theo phương thức một giai đoạn, một túi hồ sơ ở Việt Nam trong thời gian tới. Về thời gian, đấu thầu mua sắm hàng hóa theo phương thức một giai đoạn, một túi hồ sơ ở Việt Nam từ thời điểm Luật đấu thầu 2013 chính thức có hiệu lực. 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Để nghiên cứu có hiệu quả những vấn đề do đề tài đặt ra, luận án sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lê Nin và các quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam về xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, tự do hoá thương mại và hội nhập kinh tế quốc tế. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Trên cơ sở phương pháp luận kể trên, luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể, đó là phương pháp tiếp cận hệ thống đa ngành, liên ngành (kinh tế, luật học); phương pháp phân tích, tổng hợp; phương pháp luật học so sánh; phương pháp thống kê. Để thực hiện có hiệu quả mục đích nghiên cứu, luận văn kết hợp chặt chẽ giữa các phương pháp trong suốt quá trình nghiên cứu của toàn bộ nội dung luận án.Tuỳ thuộc vào đối tượng nghiên cứu của từng chương, mục trong luận án, tác giả vận dụng, chú trọng các phương pháp khác nhau cho phù hợp. Các 4
- phương pháp đó được vận dụng cụ thể trong luận án như sau: Trong Chương 1, từ cách tiếp cận hệ thống đa ngành, liên ngành kinh tế luật, tác giả sử dụng phương pháp phân tích để khái quát những vấn đề lý luận về đấu thầu mua sắm hàng hóa theo phương thức một giai đoạn, một túi hồ sơ; Trong Chương 2, tác giả sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp; phương pháp luật học so sánh; phương pháp thống kê để đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về đấu thầu mua sắm hàng hóa theo phương thức một giai đoạn, một túi hồ sơ ở ngành khí tượng thủy văn và ở Việt Nam hiện nay; Trong Chương 3: bằng phương pháp tổng hợp, phân tích tổng hợp phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về đấu thầu mua sắm hàng hóa theo phương thức một giai đoạn, một túi hồ sơ ở Việt Nam trong thời gian tới. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài 6. Ý nghĩa lý luận Luận văn tiếp tục làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về đấu thầu mua sắm hàng hóa theo phương thức một giai đoạn, một túi hồ sơ. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về đấu thầu mua sắm hàng hóa theo phương thức một giai đoạn, một túi hồ sơ ở Việt Nam hiện nay, Luận văn đề xuất các phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về đấu thầu mua sắm hàng hóa theo phương thức một giai đoạn, một túi hồ sơ ở Việt Nam trong thời gian tới. 6. Cơ cấu luận văn Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về đấu thầu và pháp luật về đấu thầu mua sắm hàng hoá theo phương thức một giai đoạn, một túi hồ sơ. Chương 2: Thực trạng pháp luật về đấu thầu mua sắm hàng hoá theo phương thức một giai đoạn, một túi hồ sơ ở Việt Nam hiện nay và ở ngành khí tượng thủy văn. Chương 3: Phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về đấu thầu mua sắm hang hoá theo phương thức một giai đoạn, một túi hồ sơ ở Việt Nam hiện nay. 5
- CHƢƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẤU THẦU VÀ PHÁP LUẬT VỀ ĐẤU THẦU MUA SẮM HÀNG HÓA THEO PHƢƠNG THỨC MỘT GIAI ĐOẠN, MỘT TÚI HỒ SƠ 1.1. Khái niệm đấu thầu mua sắm hàng hóa theo phƣơng thức một giai đoạn, một túi hồ sơ 1.1.1. Khái niệm đấu thầu mua sắm hàng hóa Theo Quy định mẫu về đấu thầu mua sắm hàng hóa của Liên Hợp quốc (UNCITRIAL) [15], thì "Procurement" được hiểu là sự giành được hàng hóa, công trình hay dịch vụ nào đó (Điều 2, khoản a). Theo đó, hàng hóa được hiểu: “tất cả các vật thể mô tả được bao gồm cả nguyên vật liệu thô, sản phẩm, các thiết bị, các vật thể định hình hoặc dưới dạng lỏng, điện và dịch vụ phụ đi kèm hàng hóa nhưng có giá trị thấp hơn hàng hóa (bao gồm: các loại hàng hóa khác theo quy định của từng nước)” (Điều 2, khoản c). Theo Từ điển tiếng Việt (do Viện Ngôn ngữ biên soạn năm 1998) thì "đấu thầu" là việc "đọ công khai, ai nhận làm, nhận bán với điều kiện tốt nhất thì được giao cho làm hoặc được bán hàng". Còn theo quy định của WB thì các từ "bid" và "tender" (trong tiếng Anh) đều có nghĩa như nhau là "đấu thầu" [10, tr.1]. Theo hiểu biết chung, đấu thầu mua sắm hàng hóa là quá trình lựa chọn nhà thầu để ký kết và thực hiện hợp đồng mua sắm hàng hóa trên cơ sở bảo đảm cạnh tranh, công bằng, minh bạch và hiệu quả kinh tế. Đây cũng là cách tiếp cận của Luật đấu thầu số 43/2013/QH12 ngày 26 tháng 11 năm 2013 của Việt Nam (Điều 4, khoản 12). Theo đó, có thể khẳng định rằng, đấu thầu mua sắm hàng hóa với những quy định chặt chẽ của nó là thực sự cần thiết và đã phát huy được nhiều lợi ích đối với nhà thầu, chủ đầu tư, nhà tài trợ và Chính phủ của nước được hưởng lợi. Điều này cũng một lần nữa được khẳng định trong lời nói đầu của Quy định mẫu về đấu thầu mua sắm hàng hóa của Liên Hợp quốc (UNCITRIAL) về mục đích vai trò của luật đấu thầu mua sắm hàng hóa [UNCTRIAL, Quy định mẫu về đấu thầu mua sắm 6
- hàng hoá]: - Tăng cường tối đa tính kinh tế và hiệu quả của đấu thầu - Khuyến khích các đối tác, nhà thầu, nhà cung cấp không phụ thuộc vào quốc tịch tham gia quy trình mua sắm, từ đó phát triển thương mại quốc tế. - Tăng cường tính cạnh tranh giữa các nhà thầu - Đối xử công bằng với tất cả các nhà thầu - Tăng cường liêm chính, công bằng và đạt được lòng tin của công chúng Đảm bảo sự rõ ràng, minh bạch của các khâu liên quan trong quá trình mua sắm Cùng với sự phát triển và yêu cầu minh bạch của nền kinh tế thị trường, đấu thầu ngày càng trở thành biện pháp, phương thức và công cụ hữu hiệu được áp dụng rộng rãi trên toàn thế giới. Đấu thầu không chỉ được Nhà nước áp dụng, mà được rất nhiều tổ chức phi chính phủ, tổ chức liên chính phủ, tổ chức nhân đạo, chính trị - xã hội và rất nhiều cá nhân quan tâm tìm hiểu và áp dụng. Mới đầu các hoạt động đấu thầu chỉ được quy định một cách đơn giản là: công khai và cạnh tranh. Nhưng thực tế áp dụng đòi hỏi các quy định đó phải đầy đủ, không chỉ dừng lại ở quy chế, quy định tạm thời mà cần thiết phải có một hệ thống pháp lý đầy đủ.Điều này thực sự cần thiết và phù hợp với các quy luật trong một xã hội phát triển có nền kinh tế hàng hóa thị trường. Như vậy, có thể khẳng định rằng, đấu thầu có vai trò đảm bảo bốn nội dung: hiệu quả - cạnh tranh - công bằng - minh bạch. Hiệu quả có thể về mặt tài chính hoặc về thời gian hay một tiêu chí nào khác tuỳ thuộc vào mục tiêu của DA. Muốn đảm bảo hiệu quả cho DA phải tạo điều kiện cho nhà thầu cạnh tranh công khai ở phạm vi rộng nhất có thể nhằm tạo ra sự công bằng, đảm bảo lợi ích cho các bên. Với các DA có tổng đầu tư lớn, có gía trị về mặt kinh tế hoặc xã hội thì công tác đấu thầu là một khâu quan trọng không thể thiếu và đấu thầu phải tuân thủ theo quy định của nhà nước hoặc tổ chức tài chính cho vay vốn. Đấu thầu mang lại lợi ích to lớn đối với chủ đầu tư, nhà thầu và nền kinh tế quốc dân nói chung; góp phần nâng cao hiệu quả của công tác quản lý nhà nước về đầu tư và xây dựng, hạn chế và loại trừ được tình trạng thất thoát, lãng phí vốn đầu 7
- tư; góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực xây dựng cơ bản nói riêng và toàn nền kinh tế nói chung; tạo ra môi trường cạnh tranh bình đẳng và lành mạnh giữa các đơn vị xây dựng. Đây là động lực to lớn thúc đẩy sự phát triển của ngành công nghiệp xây dựng nước ta và tạo điều kiện ứng dụng khoa học kỹ thuật, đổi mới công nghệ xây dựng, từng bước hội nhập với khu vực và thế giới. Theo hiểu biết chung, hiện nay có bảy phương thức lựa chọn nhà thầu trong mua sắm hàng hóa, có thể khái quát như sau: - Đấu thầu rộng rãi: Đấu thầu rộng rãi là hình thức lựa chọn nhà thầu, nhà đầu tư trong đó không hạn chế số lượng nhà thầu, nhà đầu tư tham dự. - Đấu thầu hạn chế: Đấu thầu hạn chế được áp dụng trong trường hợp gói thầu có yêu cầu cao về kỹ thuật hoặc kỹ thuật có tính đặc thù mà chỉ có một số nhà thầu đáp ứng yêu cầu của gói thầu. - Chỉ định thầu: Đây là hình thức chọn trực tiếp nhà thầu đáp ứng yêu cầu của gói thầu để thương thảo hợp đồng vì các lý do an ninh, quốc phòng, trật tự công cộng theo quy định của pháp luật. - Chào hàng cạnh tranh: Chào hàng cạnh tranh được áp dụng đối với gói thầu mua sắm hàng hóa có giá trị trong hạn mức theo quy định của pháp luật và đối với hàng hóa thông dụng, sẵn có trên thị trường với đặc tính kỹ thuật được tiêu chuẩn hóa và tương đương nhau về chất lượng. - Mua sắm trực tiếp: Mua sắm trực tiếp được áp dụng đối với gói thầu mua sắm hàng hóa tương tự thuộc cùng một dự án, dự toán mua sắm hoặc thuộc dự án, dự toán mua sắm khác. - Tự thực hiện: Tự thực hiện được áp dụng đối với gói thầu thuộc dự án, dự toán mua sắm trong trường hợp tổ chức trực tiếp quản lý, sử dụng gói thầu có năng lực kỹ thuật, tài chính và kinh nghiệm đáp ứng yêu cầu của gói thầu. - Mua sắm đặc biệt: được áp dụng đối với gói thầu mua sắm hàng hóa thuộc các dự án xuất hiện các điều kiện đặc thù, riêng biệt được quy định chặt chẽ trong pháp luật quốc gia mà không thể áp dụng các hình thức lựa chọn nhà thầu, nhà đầu tư thuộc các trường hợp nêu trên. Căn cứ vào phương thức thực hiện nộp Hồ sơ dự thầu của nhà thầu, Quy 8
- định mẫu về đấu thầu mua sắm hàng hóa của Liên Hợp quốc (UNCITRIAL) có quy định ba loại, có thể khái quát như sau: - Phương thức một giai đoạn, một túi hồ sơ: là phương thức lựa chọn nhà thầu theo đó nhà thầu, nhà đầu tư nộp hồ sơ dự thầu, hồ sơ đề xuất gồm đề xuất về kỹ thuật và đề xuất về tài chính theo yêu cầu của hồ sơ mời thầu, hồ sơ yêu cầu. Việc mở thầu được tiến hành một lần đối với toàn bộ hồ sơ dự thầu, hồ sơ đề xuất. - Phương thức một giai đoạn, hai túi hồ sơ: là phương thức lựa chọn nhà thầu theo đó nhà thầu, nhà đầu tư nộp hồ sơ dự thầu, hồ sơ đề xuất gồm đề xuất về kỹ thuật và đề xuất về tài chính theo yêu cầu của hồ sơ mời thầu, hồ sơ yêu cầu.Việc mở thầu được tiến hành hai lần.Hồ sơ đề xuất về kỹ thuật sẽ được mở ngay sau thời điểm đóng thầu.Nhà thầu, nhà đầu tư đáp ứng yêu cầu về kỹ thuật sẽ được mở hồ sơ đề xuất về tài chính để đánh giá. - Phương thức hai giai đoạn, hai túi hồ sơ: là phương thức lựa chọn nhà thầu theo đó nhà thầu, nhà đầu tư nộp hồ sơ dự thầu, gồm đề xuất về kỹ thuật và đề xuất về tài chính theo yêu cầu của hồ sơ mời thầu. Trong giai đoạn một, nhà thầu nộp đề xuất về kỹ thuật, phương án tài chính theo yêu cầu của hồ sơ mời thầu nhưng chưa có giá dự thầu. Trên cơ sở trao đổi với từng nhà thầu tham gia giai đoạn này sẽ xác định hồ sơ mời thầu giai đoạn hai.Trong giai đoạn hai, nhà thầu đã tham gia giai đoạn một được mời nộp hồ sơ dự thầu. Hồ sơ dự thầu bao gồm đề xuất về kỹ thuật và đề xuất về tài chính theo yêu cầu của hồ sơ mời thầu giai đoạn hai, trong đó có giá dự thầu và bảo đảm dự thầu. 1.1.2. Đặc điểm của đấu thầu mua sắm hàng hóa theo phương thức một giai đoạn, một túi hồ sơ Qua khảo sát pháp luật của một số quốc gia có nền kinh tế thị trương phát triển như: Hoa Kỳ [19], Liên minh Châu Âu [20] và các quy định trong Quy định mẫu về đấu thầu mua sắm hàng hóa của WB, ADB, đấu thầu mua sắm hàng hóa theo phương thức một giai đoạn, một túi hồ sơ có những đặc điểm pháp lý cơ bản sau: Thứ nhất, về phạm vi, phương thức một giai đoạn một túi hồ sơ được áp dụng trong các trường hợp các gói thầu mua sắm hàng hóa có quy mô nhỏ, có giá trị 9
- trong hạn mức, áp dụng đối với gói thầu mua sắm hàng hóa tương tự thuộc cùng một dự án, dự toán mua sắm và không đòi hỏi chuyên biệt điều kiện kỹ thuât. Theo đó, phương thức này áp dụng cho các hình thức lựa chọn nhà thầu: - Đấu thầu rộng rãi, đấu thầu hạn chế đối với gói thầu mua sắm hàng hóa, có quy mô nhỏ; - Chào hàng cạnh tranh đối với gói thầu mua sắm hàng hóa; - Chỉ định thầu đối với gói thầu mua sắm hàng hóa - Mua sắm trực tiếp đối với gói thầu mua sắm hàng hóa Thứ hai, do được áp dụng rộng rãi đối với hầu hết các hình thức lựa chọn nhà thầu như đã nói trên nên hồ sơ dự thầu, hồ sơ đề xuất gồm đề xuất về kỹ thuật và đề xuất về tài chính theo yêu cầu của hồ sơ mời thầu, hồ sơ yêu cầu; Thứ ba, việc mở thầu theo phương thức một giai đoạn một túi hồ sơ sẽ được tiến hành một lần đối với toàn bộ hồ sơ dự thầu, hồ sơ đề xuất. Theo đó, quy trình đánh giá đề xuất về kỹ thuật và đề xuất về tài chính của hồ sơ dự thầu, hồ sơ đề xuất sẽ được thực hiện trong thang điểm đánh giá tổng thể. Thứ tư, do việc mở thầu được tiến hành trong một giai đoạn nên chỉ có một Biên bản mở thầu duy nhất và đồng thời là cơ sở pháp lý duy nhất để chuyển sang giai đoạn xét thầu theo các quy định của pháp luật quốc gia hoăc theo quy định của các tổ chức quốc tế (đối với đấu thầu quốc tế); Thứ năm, tuy mở thầu theo phương thức một giai đoạn một túi hồ sơ sẽ được tiến hành một lần đối với toàn bộ hồ sơ dự thầu, hồ sơ đề xuất, song khi đánh giá hồ sơ dự thầu, hồ sơ đề xuất thì bước đánh giá về kỹ thuật vẫn mang tính quyết định. Chỉ những hồ sơ dự thầu, hồ sơ đề xuất đã vượt qua đánh giá về kỹ thuật mới được xem xét để đánh giá về tài chính, thương mại. Cụ thể: - Bước đánh giá về kỹ thuật: Sau khi kiểm tra tính hợp lệ và đầy đủ của hồ sơ dự thầu thì việc đánh giá về kỹ thuật được thực hiện đầu tiên. Phương tiện đánh giá sự đáp ứng về kỹ thuật là tiêu chí "Đạt", "Không đạt" và nó được công khai trong hồ sơ mời thầu. Nhờ sử dụng tiêu chí này, nên cách đánh giá hồ sơ dự thầu đã giảm bớt sự chủ quan của chuyên gia đánh giá.Tuy nhiên, lại đòi hỏi sự hiểu biết thấu đáo của đơn vị mua sắm trong việc xây dựng hồ sơ mời thầu sao cho đầy đủ chi tiết. 10
- Nhờ các yêu cầu định lượng này, sản phẩm qua đấu thầu sẽ đảm bảo phù hợp với mong muốn của đơn vị mua sắm và cũng là một biện pháp làm cho nhà thầu dễ dàng xác định chi phí. - Bước đánh giá về tài chính, thương mại để xếp hạng nhà thầu: Những hồ sơ dự thầu đã vượt qua đánh giá về kỹ thuật mới được xem xét trong bước này. Chỉ tiêu cơ bản, sản phẩm cuối cùng của bước đánh giá này là giá đánh giá.Vì vậy, thực chất của bước này là xác định được giá đánh giá của các hồ sơ dự thầu đã vượt qua bước đánh giá về kỹ thuật. Nhằm mục đích này, đầu tiên phải tiến hành sửa các lỗi trong các hồ sơ dự thầu (bao gồm cả lỗi số học), sau đó là tiến hành sửa các sai lệch so với yêu cầu của hồ sơ mời thầu, đưa về cùng một đồng tiền và cuối cùng đưa tất cả các sự sai khác của hồ sơ dự thầu về các mặt kỹ thuật, tài chính, thương mại và các yếu tố khác về cùng một mặt bằng tức là xác định giá đánh giá. Sự sai khác giữa các hồ sơ dự thầu là điều thường xảy ra, việc so sánh không chỉ dừng lại ở sự khác về kỹ thuật (chất lượng, hiệu suất, công suất, tiêu hao năng lượng, chi phí phụ tùng, chi phí vận hành, bảo dưỡng ), mà còn phải tính tới sự sai khác về thương mại, tài chính (điều kiện thanh toán, hình thức thanh toán ) và trong những trường hợp đặc biệt phải tính tới các điều kiện khác (nếu có). Hồ sơ dự thầu có giá đánh giá thấp nhất sẽ được mời vào thương thảo hợp đồng. Việc đánh giá chi phí thấp nhất thực sự là xem xét không chỉ giá dự thầu ban đầu, mà có tính tới các yếu tố liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp trong suốt thời gian sử dụng hàng hóa. 1.2. Pháp luật về đấu thầu mua sắm hàng hóa theo phƣơng thức một giai đoạn, một túi hồ sơ * Khái niệm Phương thức một giai đoạn một túi hồ sơ được áp dụng trong các trường hợp sau đây: a) Đấu thầu rộng rãi, đấu thầu hạn chế đối với gói thầu cung cấp dịch vụ phi tư vấn; gói thầu mua sắm hàng hóa, xây lắp, hỗn hợp có quy mô nhỏ; b) Chào hàng cạnh tranh đối với gói thầu cung cấp dịch vụ phi tư vấn, mua sắm hàng hóa, xây lắp; c) Chỉ định thầu đối với gói thầu cung cấp dịch vụ tư vấn, dịch vụ phi tư vấn, mua sắm hàng hóa, xây lắp, hỗn hợp; d) Mua sắm trực tiếp đối với gói thầu 11
- mua sắm hàng hóa; đ) Chỉ định thầu đối với lựa chọn nhà đầu tư. 2. Nhà thầu, nhà đầu tư nộp hồ sơ dự thầu, hồ sơ đề xuất gồm đề xuất về kỹ thuật và đề xuất về tài chính theo yêu cầu của hồ sơ mời thầu, hồ sơ yêu cầu. 3. Việc mở thầu được tiến hành một lần đối với toàn bộ hồ sơ dự thầu, hồ sơ đề xuất. 1.2.1. Nguyên tắc của pháp luật về đấu thầu mua sắm hàng hóa theo phương thức một giai đoạn, một túi hồ sơ - Nguyên tắc khách quan, minh bạch: Đây là nguyên tắc chung và cơ bản nhất của đấu thầu mua sắm hàng hóa. Nguyên tắc này xuất phát từ đòi hỏi đấu thầu phải công bằng. Chỉ có sự khách quan, minh bạch mới tạo lập được sự công bằng, bình đẳng cho các nhà thầu. Nội dung của nguyên tắc này là trong đấu thầu mua sắm hàng hóa quốc gia hoặc quốc tế, việc đánh giá thầu phải tuân theo quy định của luật pháp, phải căn cứ vào tiêu chuẩn đánh giá, thang diểm đã được thống nhất áp dụng và chỉ ra trong hồ sơ mời thầu. Việc đánh gía thống nhất theo tiêu chuẩn khách quan được xác định trong Hồ sơ mời thầu từ trước sẽ loại trừ được những hiện tượng tiêu cực, khuyến khích các nhà thầu tham gia một sân chơi bình đẳng có luật lệ; - Nguyên tắc thống nhất: Pháp luật quốc gia và quy định của các tổ chức quốc tế về mua sắm hàng hóa quy định rất chặt chẽ rằng các tiêu chuẩn, thang điểm, ưu tiên, chào giá phải đảm bảo thống nhất trong suốt qúa trình đấu thầu. Đây là nguyên tắc đảm bảo cho sự công bằng trong đấu thầu. Để đảm bảo cho nguyên tắc này được thực hiện nghiêm túc, pháp luật quốc gia và quy định của các tổ chức quốc tế yêu cầu chủ đầu tư chỉ thực hiện các bước đấu thầu quốc tế sau khi cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phê duyệt một số bước như kế hoạch đấu thầu, hồ sơ mời thầu, hồ sơ dự thầu - Chia các gói thầu phù hợp với tính chất, quy mô Dự án mua sắm hàng hóa: Theo quy định của pháp luật quốc gia và quy định của các tổ chức quốc tế thì quy mô gói thầu và phạm vi hợp đồng sẽ tùy thuộc vào độ lớn, tính chất và địa điểm thực hiện dự án. Mục đích của nguyên tắc này là tạo ra sự cạnh tranh tối đa, thu hút được nhiều nhà thầu tham gia và tăng cường khả năng quản lý của chủ đầu tư và nhà tài trợ (nếu có). Việc phân chia gói thầu phải hợp lí về các hạng mục trong gói 12
- thầu cũng như độ lớn và độ phức tạp của nó. - Thông báo phù hợp, công khai: Để tăng tính cạnh tranh giữa các nhà thầu cũng như hạn chế tiêu cực, tất cả các gói thầu mua sắm hàng hóa đều phải được thông báo rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng hàng ngày của quốc gia để các nhà thầu có cơ hội như nhau về thông tin. Thời gian thông báo và số lần thông báo cũng được quy định cụ thể để đạt mục đích của nguyên tắc là thu hút nhiều nhà thầu có tiềm năng tham gia. Đồng thời, thời gian chuẩn bị thầu cũng phải là thời gian hợp lý để các nhà thầu có khả năng chuẩn bị hồ sơ thầu một cách đầy đủ và tốt nhất. - Nguyên tắc bảo đảm cạnh tranh và không phân biệt đối xử: Pháp luật quốc gia và quy định của các tổ chức quốc tế khuyến khích bên mời thầu tạo điều kiện để có nhiều nhà thầu tiềm năng tiếp cận, tìm hiểu hồ sơ mời thầu thông qua việc quảng cáo và bán hồ sơ mời thầu. Ngân hàng yêu cầu việc quảng cáo phải được thông báo rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng trong một thời gian nhất định. Mức bán hồ sơ thầu không khuyến khích báo giá quá cao. Việc làm rõ hồ sơ mời thầu cũng phải được gửi tới tất cả các nhà thầu đã mua hồ sơ thầu. Như vậy sẽ đảm bảo được tính công bằng đối với tất cả nhà thầu. - Nguyên tắc trung lập: Ngoài các thông tin, hướng dẫn đã cung cấp trong hồ sơ mời thầu, sẽ không có bất kỳ thông tin không chính thức nào của bên mời thầu chuyển cho nhà thầu. Trong trường hợp cần giải thích, làm rõ, sửa đổi hồ sơ mời thầu thì phải được lập bằng văn bản gửi cho tất cả nhà thầu và phải thông qua tư vấn trung gian. - Nguyên tắc bảo đảm về hình thức của hồ sơ đấu thầu:Đấu thầu mua sắm hàng hóa là biện pháp mua sắm hàng hóa đòi hỏi tuân thủ nghiêm ngặt về hình thức. Bất kỳ sự không tuân thủ nào của nhà thầu đối với những quy định trong phần hướng dẫn nhà thầu và bảng dữ liệu thầu thì hồ sơ thầu đó bị coi là phạm quy và bị loại. Tuân thủ nguyên tắc này, nhà thầu phải: đảm bảo hồ sơ bằng văn bản; nộp không muộn hơn thời hạn đã quy định tại một địa điểm nhất định; việc gia hạn hiệu lực hồ sơ thầu hoặc bảo lãnh phải được thực hiện băng văn bản với chữ ký của người có thẩm quyền hoặc được ủy quyền hợp pháp; số lượng hồ sơ bản gốc và bản 13
- copy phải đúng như hướng dẫn; tuyên bố chào hàng phải chấp nhận vô điều kiện các điều khoản của hợp đồng mẫu và giá chào thầu phải là cố định; việc thương thảo và mở thầu công khai đều phải được lập biên bản có chữ ký đầy đủ của các bên tham gia Nguyên tắc hình thức có giá trị rất quan trọng đối với tất cả nhà thầu và phải được xem xét và áp dụng theo phần hướng dẫn trong hồ sơ mời thầu. - Nguyên tắc bảo mật thông tin trong quá trình đấu thầu: Bảo mật là yêu cầu rất quan trọng trong quá trình đấu thầu. Nó có tính quyết định và ảnh hưởng đến việc trúng thầu. Do vậy, nguyên tắc này được nêu rõ trong pháp luật quốc gia và quy định của các tổ chức quốc tế. Việc bảo mật phải được thực hiện từ khâu lập kế hoạch mua sắm và đặc biệt là quá trình xây dựng tiêu chuẩn kỹ thuật của hàng hóa. Trong quá trình đánh giá thầu, công tác bảo mật càng được quy định chặt chẽ hơn. Bất kỳ sự liên hệ hay cố gắng nào của nhà thầu nhằm gây ảnh hưởng đến quá trình này sẽ dẫn đến nhà thầu bị loại và có thể bị áp dụng các chế tài pháp lý - Nguyên tắc bảo lãnh, bảo hành và bảo hiểm thích đáng: Việc cam kết quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng đấu thầu là điều bắt buộc, buộc các bên tham gia cần phải nỗ lực thực hiện trách nhiệm của mình, tuy nhiên trong quá trình đấu thầu có thể xảy ra những nguyên nhân khác quan hay chủ quan mà có thể có những sựu cố như bên dự thầu rút hồ sơ dự thầu, bên trung thầu không thực hiện hợp đồng làm ảnh hướng đến quyền và lợi ích của các bên tham gia. Do đó pháp luật quốc gia và quy định về mua sắm hàng hóa của các tổ chức quốc tế đều quy định cụ thể về vấn đề bảo lãnh, bảo đảm đảm, bảo hành trong đấu thầu. Việc lảo lãnh có thể bằng tiền hay bằng xác nhận của một ngân hàng có uy tín dưới hình thức ký quỹ. Bên mời thầu cón phải mua bảo hiểm cho các hàng hóa của mình.Nguyên tắc này bảo đảm cho bên dự thầu nỗ lực thực hiện trách nhiệm của mình và bên mời thầu tránh khỏi những rủi ro. 1.2.2. Cấu trúc của pháp luật đấu thầu mua sắm hàng hóa theo phương thức một giai đoạn, một túi hồ sơ Pháp luật quốc gia và quy định của các tổ chức quốc tế về mua sắm hàng hóa theo phương thức một giai đoạn, một túi hồ sơ đều quy định rất chặt chẽ, chi tiết về chủ thể, trình tự, thủ tục đấu thầu. Về phương diện cấu trúc, pháp luật về đấu thầu 14