Luận văn Dấu hiệu "chống người thi hành công vụ" trong luật hình sự Việt Nam

pdf 130 trang vuhoa 24/08/2022 9760
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Dấu hiệu "chống người thi hành công vụ" trong luật hình sự Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_dau_hieu_chong_nguoi_thi_hanh_cong_vu_trong_luat_hi.pdf

Nội dung text: Luận văn Dấu hiệu "chống người thi hành công vụ" trong luật hình sự Việt Nam

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN ANH THU DẤU HIỆU "CHỐNG NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ" TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2012 1
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN ANH THU DẤU HIỆU "CHỐNG NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ" TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM Chuyên ngành : Luật hình sự Mã số : 60 38 40 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Ngọc Chí HÀ NỘI - 2012 2
  3. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt Danh mục các bảng MỞ ĐẦU 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ DẤU HIỆU "CHỐNG 6 NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ" TRONG LUẬT HÌNH SỰ 1.1. Dấu hiệu "chống người thi hành công vụ" 6 1.1.1. Khái niệm "Người thi hành công vụ" 6 1.1.2. Khái niệm "chống người thi hành công vụ" 11 1.2. Phân biệt dấu hiệu "chống người thi hành công vụ" trong luật 16 hình sự và luật hành chính 1.2.1. Về mức độ vi phạm 17 1.2.2. Nguồn quy định của dấu hiệu "chống người thi hành công vụ" 19 trong Luật Hình sự và Luật Hành chính 1.2.3. Về thủ tục xử phạt hành vi chống người thi hành công vụ 24 1.2.4. Về chế tài áp dụng 25 1.3. Vị trí của dấu hiệu "chống người thi hành công vụ" trong luật 26 hình sự 1.3.1. Dấu hiệu "chống người thi hành công vụ là dấu hiệu định tội 26 trong Luật Hình sự" 1.3.2. Dấu hiệu "chống người thi hành công vụ" là dấu hiệu định 33 khung trong Luật Hình sự 4
  4. 1.4. Mối quan hệ giữa dấu hiệu "chống người thi hành công vụ" 42 và hình phạt 1.5. Dấu hiệu "chống người thi hành công vụ" trong bộ luật hình 48 sự một số nước trên thế giới 1.5.1. Bộ luật Hình sự Nhật Bản 48 1.5.2. Bộ luật Hình sự Cộng hòa Liên bang Đức 52 1.5.3. Bộ luật hình sự Canada 56 Chương 2: DẤU HIỆU "CHỐNG NGƢỜI THI HÀNH CÔNG VỤ" 61 TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 2.1. Dấu hiệu "chống người thi hành công vụ" trong luật hình sự 61 Việt Nam trước khi có Bộ luật hình sự năm 1999 2.1.1. Dấu hiệu "chống người thi hành công vụ" trong Luật hình sự 61 Việt Nam trước năm 1985 2.1.2. Dấu hiệu "chống người thi hành công vụ" trong Luật hình sự 63 Việt Nam từ pháp điển hóa lần thứ nhất (Bộ luật Hình sự Việt Nam năm 1985) đến trước pháp điển hóa lần thứ hai (Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999) 2.2. Dấu hiệu "chống người thi hành công vụ" trong bộ luật hình 69 sự việt nam hiện hành (bộ luật hình sự 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009) 2.2.1. Một số điểm mới của Bộ luật hình sự hiện hành về dấu hiệu 71 "chống người thi hành công vụ" so với Bộ luật hình sự năm 1985 2.2.2. Các tội phạm cụ thể có dấu hiệu "chống người thi hành công 75 vụ" trong Bộ luật hình sự hiện hành Chương 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG DẤU HIỆU "CHỐNG NGƢỜI 90 THI HÀNH CÔNG VỤ" VÀ PHƢƠNG HƢỚNG HOÀN THIỆN LUẬT HÌNH SỰ VỀ DẤU HIỆU NÀY 5
  5. 3.1. Thực tiễn áp dụng dấu hiệu "chống người thi hành công vụ" 90 3.2. Thực trạng, nguyên nhân của tội phạm có dấu hiệu "chống 96 người thi hành công vụ" và phương hướng hoàn thiện luật hình sự về dấu hiệu này 3.2.1. Thực trạng của tội phạm có dấu hiệu chống người thi hành 96 công vụ 3.2.2. Nguyên nhân của các tội phạm có dấu hiệu chống người thi 103 hành công vụ 3.2.3. Phương hướng hoàn thiện Luật Hình sự về các tội phạm có 108 dấu hiệu chống người thi hành công vụ KẾT LUẬN 118 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 120 6
  6. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLHS : Bộ luật hình sự CTTP : Cấu thành tội phạm NLTNHS : Năng lực trách nhiệm hình sự TAND : Toà án nhân dân TNHS Trách nhiệm hình sự XHCN : Xã hội chủ nghĩa 7
  7. DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu Tên bảng Trang bảng 1.1 So sỏnh cỏc hỡnh phạt cho loại tội phạm cú dấu hiệu 45 "chống người thi hành cụng vụ" giữa BLHS 1985 và BLHS hiện hành 3.1 Số liệu thống kờ cỏc vụ ỏn chống người thi hành cụng vụ 103 từ năm 2005 - 2010 8
  8. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài Từ sau Đại hội Đảng lần thứ VI, thực hiện Nghị quyết của Đại hội, đất nước ta bước sang nền kinh tế thị trường, không nhừng tiến bước trên con đường đổi mới, tích cực, đời sống nhân dân từng bước được nâng cao, văn hóa xã hội có nhiều tiến bộ, tình hình kinh tế - chính trị - xã hội tương đối ổn định, an ninh quốc phòng được tăng cường, quan hệ đối ngoại không ngừng được mở rộng, hợp tác quốc tế được tiến hành chủ động và đạt kết quả tốt. Tuy nhiên, theo quy luật chung của hiện tượng xã hội, bất cứ vấn đề gì cũng có tính hai mặt. Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, chúng ta cũng phải gánh chịu những ảnh hưởng không nhỏ do mặt trái của nền kinh tế thị trường đem lại, cộng với sự thiếu kinh nghiệm trong quản lý kinh tế xã hội đã làm cho đời sống xã hội có những biến động phức tạp: sự xuống cấp về đạo đức và lối sống, tình trạng thiếu việc làm và thất nghiệp gia tăng, sự phân hóa giàu nghèo sâu sắc và đặc biệt trong mười năm trở lại đây, có một hiện tượng tiêu cực của xã hội đã xuất hiện và không ngừng gia tăng về số vụ việc và đa dạng hơn trong cách thức thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, đó là hành vi chống người thi hành công vụ. Pháp luật tồn tại với chức năng quan trọng nhất là điều chỉnh các quan hệ xã hội (QHXH), thông qua việc điều chỉnh hành vi của các chủ thể tham gia các QHXH đó. Việc thực hiện chức năng này nhằm đảm bảo cho chức năng và nhiệm vụ của nhà nước được tiến hành phù hợp với bản chất của nhà nước, thông qua một bộ máy nhà nước gồm những người thi hành công vụ sẽ thay mặt nhà nước thực hiện chức trách được giao. Tuy nhiên, trong xã hội tất yếu tồn tại một bộ phận các cá nhân nhằm bảo vệ quyền lợi riêng của mình mà đi lệch chuẩn với quy định của pháp luật, và các lực lượng thi hành pháp 9
  9. luật gặp rất nhiều khó khăn trong công tác phòng chống do phương thức, thủ đoạn hoạt động và che dấu tội phạm của các đối tượng ngày càng tinh vi, xảo quyệt, tính chống đối ngày càng manh động, liều lĩnh. Tình trạng chống người thi hành công vụ có chiều hướng gia tăng và diễn biến rất phức tạp cả về số vụ và tính chất phạm tội. Trong 10 năm trở lại đây (từ năm 2001 đến năm 2010), tội phạm thực hiện đối với người thi hành công vụ nói chung có chiều hướng gia tăng về số vụ, tính chất nghiêm trọng, và phương thức, thủ đoạn phạm tội mới. Trung bình mỗi năm xảy ra 500 vụ, đặc biệt từ năm 2009 đến nay tình trạng chống người thi hành công vụ gia tăng, trung bình mỗi năm xảy ra 700 vụ. Hành vi này đã xâm hại đến hoạt động bình thường và đúng đắn của các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội, đồng thời còn trực tiếp xâm hại hoặc đe dọa xâm hại đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của cá nhân người thi hành công vụ cũng như những người thân thích của họ. Điều này tác động xấu đến dư luận, thể hiện thái độ coi thường pháp luật của một bộ phận người dân và làm cho tình hình an ninh trật tự ngày một phức tạp. Bộ luật Hình sự (BLHS) Việt Nam hiện hành đã thể hiện thái độ của mình thông qua việc quy định hành vi chống người thi hành công vụ là tội phạm, tuy nhiên tùy vào tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi, phụ thuộc vào các khách thể bị xâm hại cũng như động cơ, mục đích của người phạm tội, nhà làm luật đã xây dựng các điều luật, các khoản khác nhau đối với những hành vi có dấu hiệu "chống người thi hành công vụ". Từ những phân tích nêu trên, việc nghiên cứu để làm rõ các vấn đề lý luận cũng như thực tiễn của không chỉ riêng tội phạm Chống người thi hành công vụ nói riêng mà của dấu hiệu "chống người thi hành công vụ" nói chung được quy định trong Luật hình sự Việt Nam là thực sự cần thiết. Vì vậy, chúng tôi xin được nghiên cứu đề tài "Dấu hiệu "chống người thi hành công vụ" trong Luật Hình sự Việt Nam". 10
  10. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Việc nghiên cứu hành vi chống người thi hành công vụ dưới góc độ Tội chống người thi hành công vụ ở nước ta trong thời gian qua đã có một số công trình nghiên cứu của các tác giả như: Tác giả Lê Thế Tiêm với đề tài khóa luận tốt nghiệp đại học "Đấu tranh phòng chống tội phạm chống người thi hành công vụ" năm 1994; tác giả Trần Thu Hường với đề tài khóa luận tốt nghiệp đại học "Tội chống người thi hành công vụ theo bộ luật Hình sự năm 1999 và đấu tranh phòng chống tội phạm này trên địa bàn thành phố Hà Nội" năm 2001; tác giả Vũ Văn Kiệm với đề tài luận văn thạc sĩ "Tội chống người thi hành công vụ trong Luật Hình sự Việt Nam và đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này" năm 2006 Ngoài ra, tội chống người thi hành công vụ cũng được đề cập trong các văn bản quan trọng của nhà nước như BLHS năm 1985, BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009); trong các giáo trình Luật Hình sự của Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Luật Hà Nội, và các chuyên đề, ấn phẩm, bình luận khoa học BLHS. Tuy nhiên, hầu hết các công trình nói trên chỉ được các tác giả đi sâu nghiên cứu Tội chống người thi hành công vụ với vị trí là một tội danh được quy định tại Điều 257 BLHS mà không có sự bao quát chung về dấu hiệu chống người thi hành công vụ. Bởi thực tế, hành vi chống người thi hành công vụ không chỉ cấu thành duy nhất Tội chống người thi hành công vụ kể trên. Về vấn đề này, cũng đã có một số tác giả phân tích ở những khía cạnh nhất định trong các tạp chí chuyên đề về pháp luật. Vì vậy, việc chúng tôi lựa chọn đề tài luận văn "Dấu hiệu "chống người thi hành công vụ" trong Luật Hình sự Việt Nam" sẽ góp phần làm sáng tỏ các góc độ lý luận cũng như thực tiễn quan trọng của dấu hiệu chống người thi hành công vụ nói chung và các tội phạm có dấu hiệu này nói riêng, nhằm góp phần vào công cuộc đấu tranh phòng, chống một loại tội phạm nguy hiểm và gây nhức nhối trong dư luận thời gian vừa qua. 11
  11. 3. Mục đích và phạm vi nghiên cứu của đề tài Mục đích nghiên cứu: Nghiên cứu một hiện tượng mang tính thời sự xã hội như chống người thi hành công vụ dưới góc độ tội phạm là một vấn đề hết sức cần thiết. Đây không chỉ là việc xem xét các tổng hợp các quy định của pháp luật hình sự hiện hành mà còn là nhận định thái độ của nhà nước ta đối với hành vi chống người thi hành công vụ thông qua một chặng đường dài từ trước khi pháp điển hóa BLHS cho đến lần sửa đổi, bổ sung năm 2009, qua đó cũng thấy được sự phát triển của xã hội về vấn đề này. Đề tài không đi sâu nghiên cứu các đặc điểm pháp lý hình sự, các dấu hiệu cấu thành của cá nhân tội chống người thi hành công vụ mà chủ yếu xem xét "chống người thi hành công vụ" với vai trò là một dấu hiệu trong Luật Hình sự, cấu thành các tội phạm khác nhau nhưng đều thể hiện thái độ coi thường kỷ cương phép nước, lệch chuẩn của một bộ phận cá nhân đi ngược lại với cách xử sự hợp pháp của xã hội. Phạm vi nghiên cứu: Đề tài tập trung làm rõ mặt lý luận dấu hiệu "chống người thi hành công vụ", như khái niệm, vị trí của dấu hiệu trong các quy định của Luật Hình sự với tư cách là dấu hiệu định tội và dấu hiệu định khung; đối chiếu so sánh với các quy định về dấu hiệu "chống người thi hành công vụ" trong Bộ luật Hình sự một số nước trên thế giới; đồng thời đề tài cũng phân tích sự khác biệt giữa việc cấu thành tội Chống người thi hành công vụ (tại Điều 257 BLHS) với các tội phạm khác có dấu hiệu này. Từ đó, đề tài chỉ ra các nguyên nhân, thực trạng và đề xuất giải pháp đối với việc hoàn thiện pháp luật để góp phần đấu tranh phòng, chống và giảm thiểu các tội phạm có dấu hiệu chống người thi hành công vụ. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Về phương pháp luận: Luận văn sử dụng lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam làm phương pháp luận trong quá trình nghiên cứu đề tài. 12
  12. Về phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phương pháp lịch sử, phương pháp so sánh, phương pháp thống kê, phương pháp phân tích, tổng hợp Từ đó tìm ra mối liên hệ giữa các quy định của pháp luật với thực tiễn đã phù hợp hay chưa, xem xét nội dung quy định của pháp luật khi áp dụng trong thực tiễn đời sống xã hội. 5. Kết cấu của đề tài Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận về dấu hiệu "chống người thi hành công vụ" trong Luật Hình sự. Chương 2: Dấu hiệu "chống người thi hành công vụ" trong Luật Hình sự Việt Nam. Chương 3: Thực tiễn áp dụng dấu hiệu "chống người thi hành công vụ" và phương hướng hoàn thiện Luật Hình sự về dấu hiệu này. 13
  13. Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ DẤU HIỆU "CHỐNG NGƢỜI THI HÀNH CÔNG VỤ" TRONG LUẬT HÌNH SỰ 1.1. DẤU HIỆU "CHỐNG NGƢỜI THI HÀNH CÔNG VỤ" 1.1.1. Khái niệm "Ngƣời thi hành công vụ" "Người thi hành công vụ" là thuật ngữ thường được sử dụng khi nhắc đến "công vụ". Công vụ là một khái niệm rộng về phạm vi và quan trọng về ý nghĩa cũng như phương thức hoạt động trong các hoạt động nhà nước. Thuật ngữ "công vụ" trong tiếng Việt thể hiện những hoạt động của Nhà nước cũng như các tổ chức phục vụ nhân dân. Công vụ cũng có thể được định nghĩa là hoạt động phục vụ lợi ích công do Nhà nước đài thọ hoặc tạo điều kiện, hoặc công việc được thực hiện vì Chính phủ hay nhân danh Chính phủ. Từ điển Tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học do tác giả Hoàng Phê chủ biên đã định nghĩa một cách ngắn gọn nhưng chính xác: "Công vụ là việc công" [26]. Hoạt động công vụ thường mang tính phục vụ lợi ích công, tính chuyên nghiệp, tính không trực tiếp tạo ra của cải vật chất cho xã hội, và tính được đảm bảo bằng ngân sách của Nhà nước. Từ khái niệm "công vụ" như trên, có thể hiểu "người thi hành công vụ" là người thi hành việc công. Khái niệm "người thi hành công vụ" từ trước đến nay đã tồn tại rất nhiều ý kiến và quan điểm khác nhau. Trước đây, khi BLHS năm 1999 chưa ban hành, đa số tồn tại hai khuynh hướng giải thích về yếu tố "người có chức vụ quyền hạn" hay chính là một cách lý giải khác của "người thi hành công vụ". Hướng quan điểm thứ nhất cho rằng tất cả những người làm việc trong các cơ quan nhà nước, trong các tổ chức xã hội đều là những người có chức 14
  14. vụ quyền hạn, không phụ thuộc vào chức vụ họ giữ, tính chất công việc, quyền hạn và thẩm quyền được giao. Hướng quan điểm thứ hai hẹp hơn, cho rằng "chỉ những người là công chức nhà nước và được giao thực hiện những công vụ nhất định mới là người có chức vụ quyền hạn" [6, tr. 2]. Nhằm khắc phục tình trạng này, Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC) ra thông tư hướng dẫn việc áp dụng Pháp lệnh trừng trị tội hối lộ của Uỷ ban thường vụ Quốc hội ban hành ngày 20/05/1981 đã giải thích người thi hành công vụ là người có chức vụ quyền hạn bao gồm những người được cơ quan Nhà nước hoặc tổ chức xã hội chính thức giao đảm nhiệm một công tác thường xuyên hoặc nhất thời - không kể quy chế (bổ nhiệm, dân cử, hợp đồng, huy động nghĩa vụ, có hưởng lương hay không hưởng lương ) hoặc cấp bậc như nào (phụ trách hay nhân viên nghiệp vụ) có quyền năng nhất định đối với người khác trong khi thực hiện công tác. Khi BLHS năm 1985 được ban hành, tại Điều 219, các nhà làm luật đã quy định về người có chức vụ quyền hạn, người thi hành công vụ như sau: "Người có chức vụ là người do bổ nhiệm, do dân cử, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác, có hưởng lương hoặc không hưởng lương, được giao thực hiện một công vụ nhất định và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện công vụ". Đây là khái niệm tương đối hoàn chỉnh, lần đầu tiên được quy định chính thức trong pháp luật hình sự nước ta, đã chỉ ra những dấu hiệu đặc trưng cơ bản của người có chức vụ quyền hạn, người thi hành công vụ, bởi vậy khái niệm này có ý nghĩa lớn về mặt lý luận cũng như thực tiễn. Đến Nghị quyết số 04/HĐTP ngày 29.11.1986 của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLHS năm 1985, đã hướng dẫn: Người thi hành công vụ là người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan nhà nước hoặc tổ chức xã hội thực hiện chức năng, nhiệm 15
  15. vụ của mình và cũng có thể là những công dân được huy động làm nhiệm vụ (như: tuần tra, canh gác ) theo kế hoạch của cơ quan có thẩm quyền, phục vụ lợi ích chung của nhà nước, của xã hội [32]. Tại khoản 1 Điều 3 Luật Trách nhiệm bồi thường nhà nước lại quy định người thi hành công vụ là người được bầu cử, phê chuẩn, tuyển dụng hoặc bổ nhiệm vào một vị trí trong cơ quan nhà nước để thực hiện nhiệm vụ quản lý hành chính, tố tụng, thi hành án hoặc người khác được cơ quan nhà nước có thẩm quyền giao thực hiện nhiệm vụ có liên quan đến hoạt động quản lý hành chính, tố tụng, thi hành án. Như vậy, các quy định nêu trên cùng với các quy định khác về cán bộ, công chức và công vụ thì để xác định người thi hành công vụ phải xét ở hai khía cạnh. Thứ nhất về chủ thể, người thi hành công vụ phải là cán bộ, công chức, viên chức của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội hoặc cũng có thể là một công dân bất kỳ được cơ quan nhà nước có thẩm quyền huy động, yêu cầu thực hiện nhiệm vụ. Thứ hai về phạm vi nhiệm vụ thực hiện, chỉ có thể được coi là thi hành công vụ khi công việc mà họ làm phải là thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước, các tổ chức nhằm phục vụ lợi ích chung của nhà nước, của xã hội. Tóm lại, thi hành công vụ tức là làm nhiệm vụ công (vì lợi ích chung của nhà nước, của xã hội). Khi BLHS 1999 được ban hành, với việc định nghĩa về người có chức vụ quyền hạn tại Điều 277 BLHS 1999, nhà làm luật đã giữ nguyên về mặt nội dung, quy định: "Người có chức vụ là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác có hưởng lương hoặc không hưởng lương, được giao thực hiện một công vụ nhất định và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện nhiệm vụ" [28]. Chúng tôi cho rằng, các quan điểm về khái niệm "người thi hành công vụ" ở trên đã phân tích dựa trên những khía cạnh khác nhau, đều có những hạt 16
  16. nhân hợp lý nhất định, và có thể khẳng định, "người thi hành công vụ" là các đối tượng trong bộ máy công quyền, trong các cơ quan, doanh nghiệp nhà nước, trong các tổ chức chính trị - xã hội. Theo quy định của pháp luật, có thể phân chia người thi hành công vụ theo những nhóm người chính sau đây: Thứ nhất, người thi hành công vụ là những người đại diện quyền lực nhà nước, thường những người này ở trong bộ máy công quyền, ở những cơ quan thuộc nhánh quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp từ trung ương đến địa phương, hưởng lương từ ngân sách của nhà nước. Những người trong bộ máy công quyền nhằm thay mặt nhà nước tổ chức điều hành và điều khiển và duy trì toàn bộ hoạt động của xã hội. Thứ hai, người thi hành công vụ là những người có chức vụ quyền hạn có liên quan đến việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, tổ chức điều hành, quản lý hành chính trong các cơ quan hoặc tổ chức chính trị xã hội, trong bộ máy của Đảng, Mặt trận Tổ quốc Thứ ba, đó là nhóm những người giữ chức vụ quyền hạn có liên quan đến việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ tổ chức sản xuất kinh doanh trong các cơ quan và tổ chức kinh tế, doanh nghiệp nhà nước. Thứ tư, người thi hành công vụ còn là nhóm những người dân được giao nhiệm vụ tuần tra, canh gác giữ gìn an toàn trật tự xã hội (thanh niên cờ đỏ, thanh niên xung kích, dân quân tự vệ, dân phòng được huy động làm nhiệm vụ giữ gìn an ninh ). Những người này không phải cán bộ trong cơ quan nhà nước nhưng khi được giao nhiệm vụ họ cũng có quyền ra các mệnh lệnh quyết định mang tính chất bắt buộc đối với người khác. Nhóm những người này có chức vụ quyền hạn trong việc thực thi những nhiệm vụ nhất định, vì vậy có thể coi đây là những người thi hành công vụ. Hành vi thi hành công vụ của người thi hành công vụ được coi là hành vi của nhà nước. Từ góc độ cơ cấu tổ chức, cán bộ công chức là một bộ phận 17
  17. cấu thành của bộ máy nhà nước; là nhân tố quyết định mọi hoạt động của nhà nước. Hoạt động công vụ của công chức đảm bảo sự vận hành của bộ máy nhà nước theo nguyên tắc thống nhất quyền lực, cấp dưới phục tùng mệnh lệnh cấp trên. Khi cán bộ công chức thi hành nhiệm vụ là họ đang đại diện cho Nhà nước để thực hiện các chức trách nhiệm vụ do nhà nước giao phó. Khi đó quan hệ giữa những người đang thi hành công vụ với cá nhân, tổ chức không còn là quan hệ mang tính cá nhân nữa, được coi là hành vi của nhà nước, các quyết định của người thi hành công vụ là quyết định của Nhà nước. Người thi hành công vụ thực hiện một nhiệm vụ được giao phó, có thể là chiến sĩ công an nhân dân đang làm nhiệm vụ bảo vệ an ninh, là thấy thuốc điều trị tại bệnh viện, thầy giáo, cán bộ thuế, cán bộ quản lý thị trường, cán bộ kiểm lâm, hải quan Hành vi công vụ của người thi hành công vụ nhằm thiết lập, duy trì, bảo vệ trật tự xã hội hoặc vì lợi ích của cơ quan, tổ chức nơi họ công tác. Vì vậy trong quá trình thực thi công vụ có thể việc làm của họ xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác, ví dụ người thực hiện công vụ tiến hành mệnh lệnh bắt, khám xét các đối tượng phạm tội theo thủ tục tố tụng hình sự, người thi hành công vụ truy bắt những tên lưu manh, côn đồ, đối tượng đang bị truy nã. Không ít các trường hợp những đối tượng đó đã có hành vi chống đối, không những gây ảnh hưởng đến việc hoàn thành công vụ mà còn xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe của người thi hành công vụ. Dựa trên những quan điểm đã phân tích, chúng tôi xin đưa ra khái niệm "người thi hành công vụ" như sau: Người thi hành công vụ là những người được giao trách nhiệm để tiến hành một công vụ nhất định nhằm bảo đảm thực hiện chức năng của nhà nước, duy trì trật tự, sự ổn định của xã hội. Những người này do bầu cử, được bổ nhiệm, do hợp đồng hoặc một hình thức khác có hưởng lương hoặc không hưởng lương và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện nhiệm vụ được giao. 18
  18. 1.1.2. Khái niệm "chống ngƣời thi hành công vụ" Khi xã hội phát triển đến một mức độ nào đó, các QHXH ngày một phức tạp, thì tất yếu sẽ có những hành vi chống người thi hành công vụ của những người muốn lựa chọn cách thức thỏa mãn nhu cầu trái với lợi ích của toàn xã hội. Qua nghiên cứu, hành vi chống người thi hành công vụ tuy đa dạng nhưng đều có những đặc điểm như sau: Thứ nhất, hành vi chống người thi hành công vụ là hành vi nguy hiểm cho xã hội, hành vi lệch chuẩn so với những yêu cầu chung của xã hội. Hành vi này đã vi phạm những điều pháp luật cấm dưới hai hình thức: hành động (thực hiện hành vi pháp luật cấm); hoặc không hành động (không thực hiện hành vi pháp luật yêu cầu). Hành vi chống người thi hành công vụ là hành vi nguy hiểm cho xã hội vì đã thỏa mãn được yếu tố trái với các quy định của pháp luật, và hành vi này đã xâm hại đến các lợi ích được nhà nước, được pháp luật bảo vệ. Hành vi chống người thi hành công vụ được phân chia thành các mức độ khác nhau, và dựa theo tiêu chi phân loại vi phạm pháp luật thì có thể phân chia hành vi này thành hai loại: (1) Vi phạm hành chính: là đối với những hành vi chống người thi hành công vụ có mức nguy hiểm thấp hơn, mà không được Bộ luật Hình sự quy định là tội phạm, nhưng đã vi phạm quy định của Luật hành chính và phải chịu loại chế tài này. (2) Vi phạm hình sự: là đối với những hành vi chống người thi hành công vụ có mức nguy hiểm cao, gây hại đáng kể cho xã hội và theo các quy định của BLHS thì người thực hiện phải chịu trách nhiệm hình sự (TNHS). Ngoài ra, hành vi chống người thi hành công vụ còn được coi là một dạng vi phạm đạo đức, bởi những người có hành vi chống đối lại người đang thực thi một công vụ đã đi ngược lại với sự xử sự hợp lý, không theo đạo đức chuẩn mực hành vi của con người. 19
  19. Thứ hai, hành vi chống người thi hành công vụ xâm hại tới nhiều QHXH được nhà nước, pháp luật bảo vệ. Khác với các hành vi vi phạm thông thường chỉ tác động đến một vài QHXH nhất định, hành vi chống người thi hành công vụ có khả năng tác động đến nhiều QHXH khác nhau. QHXH đầu tiên và cơ bản nhất bị hành vi này xâm hại trực tiếp, đó là hoạt động bình thường và đúng đắn của các cơ quan tổ chức trong quản lý hành chính. Người thi hành công vụ là người thi hành việc công, nên chống người thi hành công vụ là chống lại việc thực hiện nhiệm vụ đó, cản trở việc công được hoàn thành đúng mệnh lệnh nhà nước, làm giảm hiệu lực quản lý hành chính nói riêng của các cơ quan nhà nước, các tổ chức được thực hiện thông qua hoạt động của các nhân viên thuộc cơ quan tổ chức đó. QHXH thứ hai bị xâm hại là sự vững mạnh của chính quyền nhân dân, an ninh đối nội, an ninh đối ngoại (với các hành vi chống người thi hành công vụ vì mục đích chống chính quyền nhân dân). QHXH thứ ba đó là tính mạng của người thi hành công vụ bị xâm hại bởi hành vi sử dụng vũ lực của người phạm tội. Không ít trường hợp người phạm tội đã giết chết người thi hành công vụ để bao che hoặc tiếp tục thực hiện hành vi trái pháp luật của mình. Tiếp đến, hành vi này còn xâm hại đến sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của người thi hành công vụ. Người thực hiện hành vi chống người thi hành công vụ có thể gây thương tích cho người thi hành công vụ hoặc vu khống nhằm hạ thấp, bôi nhọ uy tín của người thi hành công vụ, ảnh hưởng nghiêm trọng đến danh dự, nhân phẩm và công việc của họ. Ngoài ra, còn một số QHXH khác cũng bị hành vi chống người thi hành công vụ xâm hại như các lợi ích, tính mạng, sức khỏe của người thân của những người thi hành công vụ. Thứ ba, hành vi chống người thi hành công vụ được thực hiện với lỗi cố ý và với những động cơ, mục đích khác nhau. 20
  20. Trước tiên, lỗi là thái độ tâm lý, là sự phản ứng tiêu cực của người thực hiện hành vi vi phạm pháp luật đối với chính hành vi nguy hiểm mà họ thực hiện và đối với hậu quả nguy hiểm cho xã hội của hành vi đó gây ra (hoặc đe dọa gây ra). Có thể nhận thấy, tất cả hành vi chống người thi hành công vụ thực hiện dưới hình thức lỗi cố ý, không có trường hợp nào được thực hiện với lỗi vô ý, vì người phạm tội đã hoàn toàn nhận thức được hành vi phạm tội của mình là trái pháp luật và hậu quả do hành vi đó gây ra, nhưng vẫn muốn thực hiện hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra, hoặc không mong muốn nhưng có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra. Các hành vi chống người thi hành công vụ được các đối tượng thực hiện, tựu chung lại có chung những động cơ và mục đích sau đây: (1) Để cản trở người thi hành công vụ thực hiện công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân: Người thực hiện hành vi chống người thi hành công vụ đã dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc thực hiện một số hành vi khác nhằm không cho người thi hành công vụ thực hiện công vụ của họ, thủ đoạn của người phạm tội có thể là hành động hoặc không hành động. Người phạm tội vì mục đích bảo vệ những lợi ích bất hợp pháp của mình, tránh khỏi sự can thiệp của người thi hành công vụ. Ngoài việc cản trở người thi hành công vụ tiếp tục thực hiện nhiệm vụ, người phạm tội có thể cản trở người thi hành công vụ vì lý do công vụ của họ bởi việc người thi hành công vụ sắp thực hiện sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi của người phạm tội, nên người phạm tội đã thực hiện tội phạm để ngăn chặn việc đó xảy ra. Ví dụ: Ngày 24/12/2011, tại phường Phú Thuận, thành phố Huế đã xảy ra một vụ tai nạn giao thông giữa Phan Thanh Minh và một phụ nữ. Thượng sĩ Hoàng Kim Tài, công an phường Phú Thuận xác định Minh có lỗi nên lấy chìa khóa xe của Minh, và yêu cầu người này về trụ sở công an phường để lấy lời khai. Minh không chấp hành và gọi điện cho Trần Văn Ti và một thanh 21
  21. niên khác đến, đòi lại chìa khóa xe không được, Minh đã xông vào thượng sĩ Tài giật ve áo, cấp hàm và biển tên. Đồng thời, hòng tháo chạy, Ti dùng mũ bảo hiểm nhảy lên đánh vào mặt thưỡng sĩ Tài, gây thương tích ở mặt. (2) Để trả thù người thi hành công vụ: Mục đích của người phạm tội trong trường hợp này nhằm hướng tới việc người thi hành công vụ đã thực thi công vụ, gây ra sự thù hằn cá nhân giữa người thi hành công vụ và người thực hiện hành vi phạm tội. Đối tượng của việc thực thi công vụ đã bị thiệt hại nhất định, vì vậy người phạm tội đã thực hiện hành vi trái pháp luật đối với người thi hành công vụ, nhằm trả thù cá nhân. Ví dụ: Phạm Việt D có em trai là Phạm Việt M bị Tòa án nhân dân (TAND) quận Y xét xử về tội Trộm cắp tài sản với khung hình phạt 18 tháng tù giam. Sau phiên tòa, D đã đến nhà thẩm phán xét xử vụ việc đó, và trả thù bằng cách đặt mìn trước cửa nhà thẩm phán. Hành vi của D nhằm trả thù việc thẩm phán đã tuyên bố em trai anh ta có tội. (3) Để đe dọa người khác: "Đe dọa" theo Từ điển Tiếng Việt được định nghĩa là việc cho biết trước sẽ làm một điều không hay nếu dám trái ý, nhằm làm cho lo sợ, hoặc tạo ra nỗi lo sợ về một tai họa có thể xảy ra. Người thực hiện hành vi chống người thi hành công vụ có thể hướng sự đe dọa của mình đến đối tượng là người thi hành công vụ, hoặc đến một đối tượng khác, mà thông qua hành vi phạm tội đó, người phạm tội có ý đồ cảnh cáo, dằn mặt người thi hành công vụ hoặc với người khác, tạo cho họ nỗi lo sợ sự bất lợi có thể xảy ra cho mình, nếu như không thực hiện theo yêu cầu của người phạm tội. Ví dụ: A. có hành vi tổ chức đánh bạc quy mô lớn, anh B. là cảnh sát hình sự đang điều tra về hành vi phạm tội này của A, một vài lần anh B cùng 22
  22. anh C là người cùng đội với anh B đến thăm dò nơi A tổ chức đánh bạc. A không sợ mà còn đe dọa anh B nên dừng việc điều tra của mình, nếu không sẽ nhận hậu quả bất lợi. A nhân lúc anh C đang đi trên đường đã cho người gây ra vụ va chạm với anh C khiến anh C bị thương nhập viện, nhằm cảnh cáo và đe dọa anh B, để anh B dừng việc làm của mình lại. (4) Để ép buộc người thi hành công vụ thực hiện hành vi trái pháp luật, có thể là đe dọa sẽ tung những thông tin bất lợi cho bản thân người thi hành công vụ hoặc cho công việc của họ, nhằm bắt họ thực hiện một hành vi trái pháp luật trong chức trách, nhiệm vụ của họ theo ý đồ của người phạm tội. Thứ tư, các hình thức của hành vi chống người thi hành công vụ rất đa dạng, tất cả những động cơ, mục đích trên đều được thể hiện thông qua những hành vi sau: Chống đối là hành vi thể hiện tính chống lại, không chấp hành các mệnh lệnh yêu cầu và quyết định hợp pháp của người thực hiện hành vi đối với người thi hành công vụ. Việc chống đối ở đây ví dụ như trường hợp người có thẩm quyền khám xét chỗ ở của một đối tượng nhưng đối tượng đó có những hành vi chống đối như không mở cửa, dùng gậy gộc ngăn chặn người thi hành công vụ lại. Vì hành vi chống đối này mà hầu hết các trường hợp thực hiện công vụ của người thi hành công vụ không diễn ra một cách suôn sẻ. Cản trở là hành vi của chủ thể với mục đích nhằm không để người thi hành công vụ tiếp tục thực hiện công vụ của mình, hoặc ngăn chặn ngay từ đầu không để việc thực hiện công vụ xảy ra. Hành vi cản trở có thể là gây thương tích cho nạn nhân hoặc giết nạn nhân để họ không thể tiếp tục công vụ của mình, nhờ đó mà lợi ích của người thực hiện hành vi vẫn không bị ảnh hưởng. Uy hiếp là hành vi của chủ thể tác động tới người thi hành công vụ, có thể là uy hiếp về mặt tinh thần hoặc uy hiếp về thân thể, chủ thể đã thực hiện những hành vi khiến người thi hành công vụ bị hạn chế về tinh thần hoặc thân thể, vì vậy đã ảnh hưởng đến việc thực hiện công vụ của người thi hành công vụ. 23