Luận văn Đào tạo cán bộ, công chức là người dân tộc thiểu số từ thực tiễn tỉnh Đắk Lắk

pdf 81 trang vuhoa 24/08/2022 10000
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Đào tạo cán bộ, công chức là người dân tộc thiểu số từ thực tiễn tỉnh Đắk Lắk", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_dao_tao_can_bo_cong_chuc_la_nguoi_dan_toc_thieu_so.pdf

Nội dung text: Luận văn Đào tạo cán bộ, công chức là người dân tộc thiểu số từ thực tiễn tỉnh Đắk Lắk

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI LÊ TRƯƠNG QUÂN ĐÀO TẠO CÁN BỘ, CÔNG CHỨC LÀ NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐẮK LẮK LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH ĐẮK LẮK, NĂM 2020 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
  2. HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI LÊ TRƯƠNG QUÂN ĐÀO TẠO CÁN BỘ, CÔNG CHỨC LÀ NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐẮK LẮK LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính Mã số: 8.38.01.02 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. Nguyễn Mạnh Hùng ĐẮK LẮK, NĂM 2020
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu được nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Tác giả luận văn Lê Trương Quân
  4. LỜI CẢM ƠN Cho phép tôi xin được gửi lời cảm ơn sâu sắc và chân thành tới lãnh đạo Nhà trường và quý thầy, cô giáo của Học viện Khoa học Xã hội đã tận tình giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và quá trình thực hiện Luận văn. Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới thầy giáo - TS.Nguyễn Mạnh Hùng người hướng dẫn khoa học đã luôn luôn tận tình giúp đỡ tôi trong quá trình hoàn thiện Luận văn này. Tôi cũng xin gửi lời chân thành cảm ơn lãnh đạo Ban Tổ chức Tỉnh ủy, Sở Nội vụ tỉnh, Trường Chính trị tỉnh Đắk Lắk tạo điều kiện, cung cấp cho tôi các văn bản, số liệu liên quan đến các nội dung của Luận văn. Do thời gian nghiên cứu có hạn, luận văn của tôi không thể tránh khỏi thiếu sót, rất mong nhận được sự quan tâm, đóng góp ý kiến của quý thầy, cô giáo. Tôi xin trân trọng cảm ơn!. Tác giả luận văn Lê Trương Quân
  5. MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN LỜI CẢM ƠN MỤC LỤC DANH MỤC CÁC BẢNG DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT MỞ ĐẦU 1 CHƯƠNG 1 7 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN -PHÁP LÝ VỀ ĐÀO TẠO CÁN BỘ, 7 CÔNG CHỨC LÀ NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ 7 1.1. Khái niệm và vai trò của cán bộ, công chức là người dân tộc thiểu số 7 1.2. Khái niệm và sự cần thiết của đào tạo cán bộ, công chức là người dân tộc thiểu số 15 1.3. Nguyên tắc, đối tượng, điều kiện, nội dung, hình thức đào tạo cán bộ, công chức là người dân tộc thiểu số 23 1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến đào tạo cán bộ, công chức là người dân tộc thiểu số 26 Tiểu kết Chương 1 30 CHƯƠNG 2 31 THỰC TRẠNG ĐÀO TẠO CÁN BỘ, CÔNG CHỨC 31 LÀ NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ TẠI TỈNH ĐẮK LẮK 31 2.1. Những đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội của tỉnh Đắk Lắk có liên quan đến việc đào tạo cán bộ, công chức là người dân tộc thiểu số 31 2.2. Thực trạng cán bộ, công chức tỉnh Đắk Lắk là người dân tộc thiểu số 34 2.3. Thực trạng đào tạo cán bộ, công chức là người dân tộc thiếu số trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk 40 Tiểu kết Chương 2 48
  6. Chương 3 49 QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ 49 ĐÀO TẠO CÁN BỘ, CÔNG CHỨC LÀ NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐẮK LẮK 49 3.1. Quan điểm của Đảng, Nhà nước về nâng cao hiệu quả đào tạo cán bộ, công chức là người dân tộc thiểu số 49 3.2. Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đào tạo cán bộ, công chức là người dân tộc thiểu số từ thực tiễn tỉnh Đắk Lắk 54 3.3. Một số kiến nghị 57 Tiểu kết chương 3 61 KẾT LUẬN 62 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 67
  7. DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 2.1: Số lượng cán bộ, công chức người dân tộc thiểu số tỉnh Đắk Lắk 35 Bảng 2.2: Chất lượng cán bộ, công chức là người dân tộc thiểu số tỉnh Đắk Lắk 35 Bảng 2. 3: Cán bộ là người dân tộc thiểu số tham gia cấp ủy, BTV, Bí thư, Phó Bí thư, Chủ tịch, Phó Chủ tịch HĐND, Chủ tịch, Phó Chủ tịch UBND cấp xã, phường, thị trấn (nhiệm kỳ 2015-2020) 33 Bảng 2. 4: Cán bộ là người dân tộc thiểu số tham gia cấp ủy, BTV, Bí thư, Phó Bí thư, Chủ tịch, Phó Chủ tịch HĐND, Chủ tịch,Phó Chủ tịch UBND cấp huyện (nhiệm kỳ 2015-2020) 36 Bảng 2. 5: Công chức lãnh đạo, quản lý cấp tỉnh, cấp huyện là người DTTS (nhiệm kỳ 2015-2020) 37
  8. DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT HĐND : Hội đồng nhân dân UBND : Ủy ban nhân dân BTV : Ban thường vụ BCH : Ban chấp hành DTTS : Dân tộc thiểu số CMNV : Chuyên môn nghiệp vụ LLCT : Lý luận chính trị THPT : Trung học phổ thông THCS : Trung học cơ sở TH : Tiểu học NXB : Nhà xuất bản TĐQL : Trình độ quản lý QLNN : Quản lý nhà nước QLKT : Quản lý kinh tế TĐ : Tương đương SL : Số lượng
  9. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Quan điểm về cán bộ, đào tạo cán bộ đã được các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác-Lênin đề cập. Kế thừa quan điểm đó, trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đặc biệt quan tâm đến công tác cán bộ, nhất là cán bộ dân tộc thiểu số. Ngày 12-3- 2003, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX ban hành Nghị quyết về công tác dân tộc đã xác định: “Xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số tại chỗ có phẩm chất và năng lực đáp ứng yêu cầu của địa phương. Đồng thời có kế hoạch đào tạo, sử dụng đội ngũ cán bộ cơ sở và cấp huyện là người dân tộc thiểu số; đổi mới chương trình, nội dung, hình thức đào tạo ”[1]. Vì vậy, công tác đào tạo đội ngũ cán bộ, công chức có đủ phẩm chất, năng lực là nhiệm vụ thường xuyên, là yêu cầu khách quan, có ý nghĩa quan trọng cả trước mắt cũng như lâu dài trong điều kiện toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Tỉnh Đắk Lắk nằm ở trung tâm vùng Tây Nguyên, tam giác phát triển Campuchia - Lào - Việt Nam; dân cư của Tỉnh ngoài các dân tộc thiểu số tại chỗ còn có dân di cư từ các tỉnh phía Bắc và miền Trung đến làm ăn, sinh sống. Tình hình kinh tế - xã hội của Tỉnh còn gặp nhiều khó khăn, trình độ dân trí có nơi còn thấp, chưa đồng đều nên đội ngũ cán bộ, công chức của hệ thống chính trị của Tỉnh vẫn còn nhiều hạn chế. Một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức có trình độ học vấn, chuyên môn nghiệp vụ chưa đạt chuẩn theo quy định của Tỉnh, của Trung ương. Đây là nguyên nhân cơ bản khiến chất lượng, hiệu quả trong công tác của hệ thống chính trị chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu công cuộc đổi mới và phát triển của đất nước, của địa phương. Để xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Đắk Lắk nói riêng và cả nước nói chung, đáp ứng yêu cầu xây dựng nền hành chính hiện đại, cần phải tăng cường công tác 1
  10. đào tạo cán bộ, công chức. Trong đó, đào tạo cán bộ, công chức là người DTTS đóng vai trò quan trọng nhằm nâng cao trình độ, năng lực thực thi công vụ của cán bộ, công chức đáp ứng ngày càng cao yêu cầu của công tác lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế. Xuất phát từ lẽ đó, việc chọn đề tài “Đào tạo cán bộ, công chức là người dân tộc thiểu số từ thực tiễn tỉnh Đắk Lắk” để làm Luận văn Thạc sĩ Luật học, là việc làm có ý nghĩa lý luận và thực tiễn. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài Công tác đào tạo cán bộ, công chức là một vấn đề quan trọng, luôn được Đảng, Nhà nước quan tâm. Trên thực tế cũng như trên phương diện khoa học đã có nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến công tác này và mỗi đề tài có mục đích và phạm vi nghiên cứu khác nhau và có những đóng góp nhất định như: - Nguyễn Hải Đông (năm 2015), “Năng lực cán bộ, công chức người đồng bào dân tộc thiểu số ở tỉnh Đắk Lắk hiện nay” Luận văn Thạc sĩ, Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Hà Nội. - Đỗ Quang Trà (năm 2015), “Đào tạo cán bộ, công chức cấp xã người dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk ” Luận văn Thạc sĩ , Đại học Đà Nẵng. - Trương Thị Như Yến (năm 2015), “Quản lý đào tạo Cao cấp lý luận chính trị cho cán bộ dân tộc thiểu số tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh trong bối cảnh hiện nay”, Luận án Tiến sĩ, Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam, Hà Nội. - Lương Hữu Nam (2017), “Phát triển đội ngũ trí thức ở Tây Nguyên thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa-hiện đại hóa”, Luận án Tiến sĩ, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. - Nguyễn Thị Tĩnh (2018), “Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk lãnh đạo xây dựng đội 2
  11. ngũ cán bộ dân tộc thiểu số”, Luận án Tiến sĩ, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Các công trình nghiên cứu trên, trực tiếp hoặc gián tiếp phân tích về cán bộ, công chức là người DTTS, trên cơ sở đánh giá thực trạng đội ngũ cán bộ, công chức là người DTTS và đề xuất công tác đào tạo, xây dựng, sử dụng đội ngũ cán bộ, công chức ở các địa phương có DTTS nói chung và tỉnh Đắk Lắk nói riêng. Các tác giả đã tổng kết lại một số vấn đề gắn liền với việc thực hiện các chính sách liên quan đến xây dựng, đào tạo đội ngũ cán bộ, công chức DTTS ở tỉnh Đắk Lắk, Tây Nguyên và cả nước. Những kết quả đã đạt được cũng như những khó khăn, vướng mắc đặt ra đối với đội ngũ cán bộ, công chức DTTS ở địa phương nói chung và cả nước nói riêng. Để góp phần xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức DTTS, tác giả đưa ra các kiến nghị, đề xuất, nhất là những kiến nghị gắn liền với công tác đào tạo cán bộ, công chức là người DTTS. Điều này phù hợp với tinh thần mà Luận văn đề cập đến. Tuy vậy, đây là những đề xuất chung cho tất cả các cán bộ, công chức nói chung chứ không riêng gì cho cán bộ, công chức người DTTS. Những nội dung liên quan đến cán bộ, công chức, nhất là công tác xây dựng, đào tạo đội ngũ cán bộ, công chức ở địa phương nói trên đã được một số nhà nghiên cứu dưới những góc độ khác nhau. Kết quả của các công trình nghiên cứu trên là cơ sở khoa học để đi sâu, làm rõ và đưa ra những luận cứ khoa học nhằm củng cố, tăng cường và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức là người DTTS trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế. Việc nghiên cứu về đào tạo cán bộ, công chức là người DTTS của hệ thống chính trị tỉnh Đắk Lắk dưới góc độ Luật học vẫn chưa có tác giả nào thực hiện. Trên cơ sở đánh giá thực trạng công tác đào tạo cán bộ, công chức là người DTTS, luận văn đề xuất các giải pháp cụ thể nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác đào tạo cán bộ, công 3
  12. chức là người DTTS trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk và có thể vận dụng một cách có chọn lọc đối với những địa phương, đơn vị có cán bộ, công chức là người DTTS ở Việt Nam. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Luận văn làm rõ những vấn đề về lý luận liên quan đến công tác đào tạo cán bộ, công chức là người DTTS và đánh giá thực tế công tác này tại tỉnh Đắk Lắk. Từ những hạn chế, bất cập xuất phát từ thực tiễn đào tạo cán bộ, công chức là người DTTS của tỉnh Đắk Lắk, đưa ra những phương hướng và giải pháp thực hiện để nâng cao hiệu quả đào tạo cán bộ, công chức của Tỉnh. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Luận giải được các cơ sở pháp lý, cơ sở lý luận về đào tạo cán bộ, công chức là người DTTS. - Đánh giá được thực trạng đào tạo cán bộ, công chức là người DTTS tại tỉnh Đắk Lắk. - Đưa ra những quan điểm và giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả đào tạo cán bộ, công chức là người DTTS từ thực tiễn tỉnh Đắk Lắk. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu - Quan điểm lý luận về đào tạo cán bộ, công chức là người DTTS. - Pháp luật thực định ở Việt Nam về đào tạo cán bộ, công chức là người DTTS. - Thực tiễn đào tạo cán bộ, công chức là người DTTS trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Không gian nghiên cứu: Trên phạm vi địa bàn tỉnh Đắk Lắk. - Thời gian nghiên cứu: Giai đoạn 2015 - 2019. 4
  13. - Nội dung nghiên cứu: Về công tác đào tạo cán bộ, công chức là người DTTS từ thực tiễn tỉnh Đắk Lắk. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác- Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về cán bộ, công chức và đào tạo cán bộ, công chức. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Luận văn này sử dụng các phương pháp nghiên cứu: Lịch sử, logic, phân tích, so sánh, tổng hợp và phương pháp thống kê để phân tích, đánh giá các nội dung có liên quan, phương pháp thu thập nguồn số liệu: Số liệu từ Tỉnh ủy, UBND Tỉnh, Ban Tổ chức Tỉnh ủy, Trường Chính trị tỉnh Đắk Lắk. 6. Ý nghĩa của đề tài 6.1.Ý nghĩa về mặt lý luận - Phân tích đánh giá thực trạng về đào tạo cán bộ, công chức là người DTTS từ thực tiễn tỉnh Đắk Lắk. - Góp phần hệ thống các văn bản pháp luật về đào tạo cán bộ, công chức là người DTTS; bổ sung thêm cơ sở lý luận về đào tạo cán bộ, công chức là người DTTS từ thực tiễn của tỉnh Đắk Lắk. 6.2. Ý nghĩa về mặt thực tiễn - Nhận diện được những hạn chế, bất cập trong công tác đào tạo cán bộ, công chức là người DTTS của tỉnh Đắk Lắk. - Đề xuất các giải pháp để nâng cao hiệu quả đào tạo cán bộ, công chức là người DTTS của tỉnh Đắk Lắk nói riêng và của cả nước nói chung. 7. Kết cấu của luận văn Nội dung chính của Luận văn gồm 03 Chương: Chương 1. Những vấn đề lý luận và pháp lý về đào tạo cán bộ, công chức là người dân tộc thiểu số. 5
  14. Chương 2. Thực trạng đào tạo cán bộ, công chức là người dân tộc thiểu số tại tỉnh Đắk Lắk. Chương 3. Quan điểm và giải pháp nâng cao hiệu quả đào tạo cán bộ, công chức là người dân tộc thiểu số từ thực tiễn tỉnh Đắk Lắk. 6
  15. CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN -PHÁP LÝ VỀ ĐÀO TẠO CÁN BỘ, CÔNG CHỨC LÀ NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ 1.1. Khái niệm và vai trò của cán bộ, công chức là người dân tộc thiểu số. 1.1.1.Khái niệm cán bộ, công chức là người dân tộc thiểu số Để đưa ra khái niệm và vai trò của cán bộ, công chức là người DTTS, cần làm rõ một số khái niệm cơ bản về cán bộ, công chức; cán bộ, công chức là người DTTS. Theo Đại Từ điển Tiếng Việt: “Cán bộ là người làm việc trong cơ quan nhà nước; người giữ chức vụ phân biệt với người bình thường, không giữ chức vụ, trong cơ quan, tổ chức nhà nước; cán bộ tổ chức, cán bộ đại đội” [19, tr.249]. Ở Việt Nam từ cán bộ được sử dụng một cách quen thuộc, phổ biến. Hiểu theo nghĩa thông thường thì “cán bộ” được hiểu là người làm việc trong các cơ quan của Đảng, của Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội từ Trung ương đến cơ sở. Khoản 1 Điều 4 Luật Cán bộ, công chức năm 2008 được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2019 (sau đây viết tắt là Luật Cán bộ, công chức), định nghĩa về cán bộ: “Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước”[24]. Từ định nghĩa trên cho thấy, cán bộ có các dấu hiệu như sau: Là công dân Việt Nam; được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ; làm việc trong các cơ quan của hệ thống chính trị từ Trung ương đến cấp huyện; trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước. 7
  16. Tại khoản 3 Điều 4 Luật Cán bộ, công chức định nghĩa về cán bộ cấp xã: “Cán bộ xã, phường, thị trấn là công dân Việt Nam, được bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy, người đứng đầu tổ chức chính trị - xã hội”. Theo quy định tại khoản 2 Điều 61 Luật Cán bộ, công chức thì cán bộ cấp xã gồm các chức vụ: “Bí thư, Phó Bí thư Đảng uỷ; Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân; Chủ tịch, Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân; Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc; Bí thư Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh; Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ; Chủ tịch Hội Nông dân; Chủ tịch Hội Cựu chiến binh” [24]. Như vậy, cán bộ cấp xã có dấu hiệu như sau: Là công dân Việt Nam, được bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm kỳ, không có dấu hiệu trong biên chế nhà nước và hưởng lương từ ngân sách nhà nước như cán bộ quy định tại khoản 1, Điều 4 Luật Cán bộ, công chức. Về công chức, đây là một thuật ngữ được sử dụng từ rất sớm trong các văn bản pháp luật từ những năm 1950 của thế kỷ XX cho đến nay. Quy chế Công chức Việt Nam được quy định tại Sắc lệnh số 76/SL ngày 20-5-1950 của Chủ tịch Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã nêu khái niệm về công chức: “Những công dân Việt Nam được chính quyền nhân dân tuyển để giữ một chức vụ thường xuyên trong các cơ quan Chính phủ, ở trong hay ở ngoài nước, đều là công chức theo Quy chế này, trừ những trường hợp riêng biệt do Chính phủ định”[20]. Ngày 26-02-1998, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh Cán bộ, công chức. Đây là văn bản pháp lý quy định về cán bộ, công chức của Nhà nước Việt Nam. Qúa trình triển khai thực hiện, Pháp lệnh đã bộc lộ những hạn chế, bất cập và được sửa đổi, bổ sung vào năm 2000 và năm 2003. Pháp lệnh cán bộ, công chức năm 2003 đã phân định được các đối tượng làm việc trong các đơn vị sự nghiệp của Nhà nước là viên chức, đồng thời quy định về công chức cấp xã. Pháp lệnh chỉ nêu thuật ngữ chung về cán bộ, công 8
  17. chức mà chưa đưa ra được khái niệm cán bộ, khái niệm công chức cụ thể. Để khắc phục những hạn chế trên khoản 2, Điều 4 Luật Cán bộ, công chức quy định: “Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh tương ứng với vị trí việc làm trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở Trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan phục vụ theo chế độ chuyên nghiệp, công nhân công an, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước”[ 25]. Theo định nghĩa trên, công chức có các dấu hiệu sau: Là công dân Việt Nam; được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức danh, chức vụ tương ứng với vị trí việc làm; công việc có tính chuyên nghiệp và thường xuyên; làm việc trong các cơ quan của hệ thống chính trị từ Trung ương đến cấp huyện, trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan phục vụ theo chế độ chuyên nghiệp, công nhân công an, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước. Ngoài ra, được phân loại theo trình độ chuyên môn, trình độ được đào tạo. Tuy định nghĩa không thể hiện rõ nhưng việc bổ nhiệm vào ngạch, vị trí việc làm cũng phần nào đã thể hiện nội dung này. Tại khoản 3, Điều 4 Luật Cán bộ, công chức định nghĩa về công chức cấp xã: “Công chức là công dân Việt Nam được tuyển dụng giữ một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Ủy ban nhân dân cấp xã, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước”[24]. Theo quy định tại khoản 3 Điều 61 Luật Cán bộ, công chức thì công chức cấp xã có các chức danh: Trưởng Công an; Chỉ huy trưởng Quân sự; Văn phòng - thống kê; Địa chính - xây dựng - đô thị và môi trường hoặc địa 9
  18. chính - nông nghiệp - xây dựng và môi trường; Tài chính - kế toán; Tư pháp - hộ tịch; Văn hóa - xã hội. Công chức cấp xã do cấp huyện quản lý [24]. Căn cứ vào quy định của pháp luật hiện nay, để xác định một người là công chức cần xem xét các yếu tố: Có quyết định tuyển dụng, bổ nhiệm của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, trong biên chế, hưởng lương từ ngân sách nhà nước; có nơi làm việc là cơ quan của Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân và Công an nhân dân. Hiện nay, DTTS là một khái niệm khoa học được sử dụng phổ biến trên phạm vị toàn cầu. Đây là thuật ngữ chuyên ngành dân tộc học và được các nhà nghiên cứu thường sử dụng để chỉ những dân tộc có ít dân số. Trên thực tế, khái niệm DTTS chỉ có ý nghĩa biểu thị tương quan về dân số trong một quốc gia đa dân tộc. Theo nguyên tắc về bình đẳng giữa các dân tộc và theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin, thì khái niệm DTTS không mang ý nghĩa phân biệt về địa vị, trình độ phát triển của các dân tộc mà nó được chi phối bởi những điều kiện lịch sử, kinh tế - chính trị - xã hội của mỗi dân tộc. Về khái niệm “Dân tộc” có thể hiểu theo hai bình diện. Theo nghĩa thông thường khái niệm dân tộc để chỉ một cộng đồng tộc người có chung ngôn ngữ, lịch sử - nguồn gốc, đời sống văn hóa và ý thức tự giác dân tộc. Theo nghĩa rộng dân tộc chỉ cộng đồng người cùng sinh sống trong một quốc gia, một nước. Dân tộc Việt Nam là một khái niệm được hiểu theo nghĩa rộng: Là dân tộc, quốc gia, là một cộng đồng chính trị - xã hội, bao gồm 54 thành phần dân tộc, từ ít người đến nhiều người, từ thiểu số đến đa số, cùng sinh sống trong phạm vi một lãnh thổ, một quốc gia Việt Nam. Theo Đại từ điển Tiếng Việt, DTTS được định nghĩa là: “dân tộc có số dân ít, cư trú trong cộng đồng quốc gia nhiều dân tộc (có một dân tộc đa số) 10
  19. sống ở vùng hẻo lánh, ngoại vi, vùng ít phát triển về kinh tế - xã hội”[19, tr. 520]. Theo Điều 4 Nghị định số 05/2011/NĐ-CP, ngày 14-01-2011 của Chính phủ về công tác dân tộc, quy định: “Dân tộc thiểu số là những dân tộc có số dân ít hơn so với dân tộc đa số trên phạm vi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” [11]. Như vậy, khái niệm DTTS dùng để chỉ những dân tộc có số dân ít, chiếm tỷ lệ thấp trong tương quan về lượng dân số trong một quốc gia đa dân tộc. Khái niệm DTTS cũng không có ý nghĩa biểu thị tương quan so sánh về dân số giữa các quốc gia dân tộc trên phạm vi khu vực và thế giới. Một dân tộc có thể được xem là đa số ở quốc gia này, nhưng có thể được coi là thiểu số ở quốc gia khác. Như người Kinh được xem là dân tộc đa số ở Việt Nam, nhưng lại được coi là dân tộc thiểu số ở Campuchia (người Kinh chỉ là 1/33 dân tộc thiểu số của Campuchia); ngược lại người Khmer được coi là dân tộc đa số ở Campuchia, nhưng là DTTS ở Việt Nam (người Khmer chỉ là 1/54 dân tộc thiểu số của Việt Nam). Quan niệm về DTTS và dân tộc đa số, cũng như nội hàm của khái niệm này hiện nay còn nhiều vấn đề chưa thống nhất và nó cũng được vận dụng xem xét trong từng trường hợp, điều kiện cụ thể. Mặt khác, nó còn phụ thuộc vào quan niệm và mối quan hệ so sánh về dân số của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc. Những nội dung được phân tích trên, về cơ bản là tương đối thống nhất đối với giới nghiên cứu về dân tộc học trên thế giới. Hiện nay, khái niệm cán bộ, công chức DTTS được sử dụng tương đối phổ biến ở Việt Nam. Từ khái niệm cán bộ, công chức, DTTS cho thấy: Cán bộ, công chức, DTTS là tập hợp của các khái niệm cán bộ, công chức và DTTS. Cán bộ, công chức DTTS là chỉ những người cán bộ, công chức đang công tác trong hệ thống chính trị, gồm: Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ, Liên đoàn Lao động, Hội 11
  20. Nông dân, Hội Cựu chiến binh và các tổ chức chính trị - xã hội khác, có xuất thân là DTTS. Đặc điểm để phân biệt cán bộ, công chức DTTS trong đội ngũ cán bộ, công chức của hệ thống chính trị là thành phần dân tộc của người cán bộ đó thuộc dân tộc đa số hay DTTS. Đặc điểm này không có ý nghĩa phân biệt về năng lực, trình độ học vấn hay địa vị xã hội của người cán bộ, công chức. Khi trở thành cán bộ, công chức trong hệ thống chính trị của Việt Nam thì có xuất thân từ thành phần dân tộc đa số hay DTTS số đều phải đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn, điều kiện quy định của Đảng, Nhà nước về cần thiết đối với mỗi chức danh và vị trí công tác và phải hoàn thành tốt công việc được giao. Đội ngũ cán bộ, công chức người DTTS là tập hợp những cá nhân thuộc dân tộc ít người được bầu cử, bổ nhiệm, phê chuẩn, tuyển dụng vào các chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong các cơ quan của hệ thống chính trị, hưởng lương từ ngân sách Nhà nước và được điều chỉnh bởi các quy định của pháp luật về cán bộ, công chức. Từ những phân tích như trên, có thể đi đến một quan niệm chung về cán bộ, công chức DTTS, như sau: “Cán bộ, công chức dân tộc thiểu số” là những cán bộ, công chức theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức, đang công tác, làm việc trong một tổ chức xác định của hệ thống chính trị, có thành phần xuất thân từ DTTS [37]. 1.1.2. Vai trò của cán bộ, công chức là người dân tộc thiểu số Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định: “cán bộ là những người đem chính sách của Đảng, của Chính Phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời, đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính Phủ hiểu rõ để đặt chính sách cho đúng”[21, tr.54]. Điều này càng có ý nghĩa hơn khi gắn với vai trò của cán bộ, công chức là người DTTS đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển các vùng DTTS. 12
  21. Hiện nay, ở hầu hết các tỉnh miền núi đa phần đều có sự góp mặt của cán bộ, công chức người DTTS là những cá nhân đại diện cho dân tộc mình tham gia công tác ở những vị trí khác nhau trong các cơ quan chính quyền các cấp. Đối với cán bộ, công chức DTTS khu vực miền Trung - Tây Nguyên, ngoài những đặc điểm mang tính tích cực, có tác động to lớn đến đồng bào các dân tộc, vẫn còn những hạn chế về cơ cấu, năng lực công tác nhưng vị trí, vai trò của họ lại ảnh hưởng rất lớn đến quá trình phát triển kinh tế, xã hội, ổn định an ninh quốc phòng vùng dân tộc miền núi. Đặc biệt, đối với đội ngũ cán bộ, công chức lãnh đạo, quản lý là người DTTS công tác ở các cơ quan cấp tỉnh, cấp huyện thuộc đối tượng đào tạo LLCT, chuyên môn nghiệp vụ tại các Học viện Chính trị, Học viện Hành chính lại có vị trí, vai trò hết sức quan trọng. Cán bộ, công chức DTTS là lực lượng nòng cốt, giữ vai trò chủ đạo trong quá trình xây dựng tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Đối với vùng miền núi có đông đồng bào dân tộc sinh sống thì vai trò của họ không thể thiếu trong bất cứ lĩnh vực công tác nào. Họ là những trụ cột, là những người tham gia điều hành tổ chức bộ máy ở cơ sở và góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị do Đảng và nhân dân giao phó. Bộ máy chính quyền địa phương đang dần được cải cách và hoàn thiện, đội ngũ cán bộ, công chức đoàn kết, nhất trí xây dựng phong trào cách mạng quần chúng ngày càng sâu rộng. Là lực lượng lãnh đạo, quản lý tại chỗ, cán bộ, công chức DTTS sống và làm việc, có quan hệ gần gũi với nhân dân, điều này càng khẳng định hơn vị trí, vai trò của họ. Để phát huy vị thế đối với công tác lãnh đạo, quản lý tại địa phương vùng đồng bào dân tộc, cần đặc biệt quan tâm đối với đội ngũ cán bộ, công chức DTTS để họ thực sự là lực lượng đi đầu trong phát triển kinh tế, xã hội, ổn định an ninh quốc phòng ở địa phương trong giai đoạn hiện nay. Cán bộ, công chức DTTS đóng vai trò quan trọng trong việc tổ chức, thực hiện thắng lợi chủ trương, đường lối Đảng, chính sách, pháp luật của 13
  22. Nhà nước ở địa phương vùng dân tộc miền núi. Vai trò này thể hiện rõ qua thực tiễn đạt được trên các mặt của đời sống xã hội ở địa phương vùng dân tộc miền núi trong nhiều năm qua. Với trách nhiệm và vai trò của mình, họ đã góp phần xây dựng kế hoạch, phương hướng nhiệm vụ, đôn đốc, kiểm tra, giám sát quá trình thực hiện và làm cho chủ trương, đường lối chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước trở thành hiện thực. Tuy nhiên, để thực hiện tốt vai trò của mình, cán bộ, công chức DTTS phải thực sự là những người có năng lực, tâm huyết với nhiệm vụ chính trị được giao; hiểu và lĩnh hội sâu sắc quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; có khả năng cụ thể hóa vào điều kiện hoàn cảnh cụ thể của từng công việc, từng lĩnh vực, từng vùng miền khác nhau. Những kinh nghiệm quý báu từ thực tiễn của cán bộ, công chức DTTS sẽ giúp Đảng và Nhà nước bổ sung, hoàn chỉnh chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước ngày càng hoàn thiện. Cán bộ, công chức DTTS quyết định lớn đến phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảoan ninh chính trị và xây dựng tình đoàn kết các dân tộc. Với vai trò là đội ngũ trụ cột ở địa phương, lãnh đạo chỉ đạo việc thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, cán bộ, công chức DTTS góp phần cải thiện tình hình kinh tế, xã hội vùng miền núi, nâng cao đời sống của nhân dân các dân tộc; giữ vững quốc phòng, an ninh nhất là an ninh nông thôn và biên giới. Bên cạnh những thành quả đạt được, hầu hết các vùng miền núi còn gặp nhiều khó khăn, thách thức do tác động bởi nhiều yếu tố khác nhau; đời sống vật chất và tinh thần của người dân vẫn còn thấp, trình độ dân trí của đồng bào dân tộc chưa cao, một số phong tục tập quán lạc hậu vẫn tồn tại, hiểu biết về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước còn hạn chế. Điều đáng quan tâm, có những vùng đông đồng bào dân tộc sinh sống, các thế lực thù địch ra sức lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền nhằm kích động, chia rẽ khối đoàn kết các dân tộc và xuyên tạc 14
  23. chống phá lại chế độ ta. Để thực hiện thành công mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội, giữ vững an ninh, chính trị làm thất bại âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, cán bộ, công chức DTTS phải là lực lượng nòng cốt, vững vàng về lập trường tư tưởng, có quan điểm cách mạng, nhận thức chính trị và phẩm chất đạo đức tốt để lãnh đạo,chỉ đạo xây dựng tình đoàn kết các dân tộc ở địa phương. Cán bộ, công chức DTTS là những người có khả năng tuyên truyền, vận động, thuyết phục đồng bào dân tộc thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Đây là thế mạnh của đội ngũ cán bộ, công chức DTTS hiện nay, đa số cán bộ, công chức DTTS tham gia công tác trong các tổ chức của hệ thống chính trị cơ sở là những người có uy tín, tiếng nói của họ có ảnh hưởng to lớn đến tình cảm và nhận thức của người dân. Do thấu hiểu phong tục tập quán, ngôn ngữ đồng bào địa phương nên cán bộ, công chức DTTS có thể đi sâu, đi sát nắm bắt đời sống, tâm tư, nguyện vọng của người dân và có phương pháp vậnđộng, thuyết phục đồng bào thực hiện quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, giữ vững trật tự an ninh xã hội, ngăn chặn những hành vi vi phạm pháp luật, giúp đồng bào tin tưởng vào chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và tham gia, cống hiến sức mình cho sự nghiệp xây dựng và phát triển địa phương [43]. 1.2. Khái niệm và sự cần thiết của đào tạo cán bộ, công chức là người dân tộc thiểu số 1.2.1.Khái niệm đào tạo cán bộ, công chức là người dân tộc thiểu số Đào tạo, bồi dưỡng là hai thuật ngữ được sử dụng khá phổ biến trong các lĩnh vực cuộc sống của xã hội hiện đại, nhất là trong lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước. Theo Đại Từ điển Tiếng Việt: “Đào tạo là dạy dỗ, rèn luyện để trở nên người có hiểu biết, có nghề nghiệp; đào tạo thành người có tri thức; đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ”[19, tr.593]. 15