Luận văn Đăng ký kinh doanh theo luật doanh nghiệp 2014 từ thực tiễn Thành phố Bắc Ninh
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Đăng ký kinh doanh theo luật doanh nghiệp 2014 từ thực tiễn Thành phố Bắc Ninh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_dang_ky_kinh_doanh_theo_luat_doanh_nghiep_2014_tu_t.pdf
Nội dung text: Luận văn Đăng ký kinh doanh theo luật doanh nghiệp 2014 từ thực tiễn Thành phố Bắc Ninh
- ` VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI PHẠM PHƯƠNG NAM ĐĂNG KÝ KINH DOANH THEO LUẬT DOANH NGHIỆP 2014 TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ BẮC NINH Chuyên ngành : Luật kinh tế Mã số : 60.38.01.07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. Nguyễn Văn Cương HÀ NỘI, 2017
- ` LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Học Viện Khoa học xã hội. Vậy tôi xin viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật – Học Viện Khoa học xã hội xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN PHẠM PHƯƠNG NAM
- ` MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐĂNG KÝ KINH DOANH VÀ PHÁP LUẬT VỀ ĐĂNG KÝ KINH DOANH 6 1.1. Khái quát chung về đăng ký kinh doanh 6 1.2 Pháp luật về đăng ký kinh doanh 13 Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ ĐĂNG KÝ KINH DOANH VÀ THỰC THI PHÁP LUẬT VỀ ĐĂNG KÝ KINH DOANH THEO LUẬT DOANH NGHIỆP 2014 TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ BẮC NINH 23 2.1 Thực trạng quy định về đăng ký kinh doanh theo Luật Doanh nghiệp 2014 23 2.2 Khái quát tình hình phát triển kinh tế xã hội thành phố Bắc Ninh 43 2.3 Thực tiễn thực thi các quy định về đăng ký kinh doanh theo Luật Doanh nghiệp 2014 trên địa bàn thành phố Bắc Ninh 45 Chương 3. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC THI PHÁP LUẬT VỀ ĐĂNG KÝ KINH DOANH TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ BẮC NINH 65 3.1 Bối cảnh của việc hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về đăng ký kinh doanh 65 3.2 Giải pháp hoàn thiện pháp luật về đăng ký kinh doanh 67 3.3 Giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về đăng ký kinh doanh từ thực tiễn thành phố Bắc Ninh. 71 KẾT LUẬN 75 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 76
- ` DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT DN Doanh nghiệp ĐKKD Đăng ký kinh doanh GCNĐKDN Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp NXB Nhà xuất bản TNHH Trách nhiệm hữu hạn
- ` DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU Bảng 2.1: Số lượng doanh nghiệp, vốn, lao động đăng ký thành lập mới theo loại hình trên địa bàn thành phố Bắc Ninh năm 2015 và năm 2016 . 47 Bảng 2.2: Số lượng các đơn vị trực thuộc doanh nghiệp đăng ký hoạt động trên địa bàn thành phố Bắc Ninh năm 2015 và năm 2016 48 Bảng 2.3: Số lượng doanh nghiệp đăng ký thay đổi nội dung đăng ký kinh doanh trên địa bàn thành phố Bắc Ninh năm 2015, 2016 .48 Bảng 2.4 Số lượng doanh nghiệp được tiến hành kiểm tra trên địa bàn thành phố Bắc Ninh năm 2016 56
- ` MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Tự do kinh doanh là một trong những quyền con người cơ bản được ghi nhận tại Hiến pháp năm 2013: “Mọi người có quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm”. Tuy nhiên, muốn tiến hành hoạt động sản xuất, kinh doanh, gia nhập thị trường, các chủ thể kinh doanh phải thực hiện đăng ký kinh doanh, đây là thủ tục pháp lý bắt buộc nhằm ghi nhận sự ra đời của các chủ thể kinh doanh. Ngày nay, trong xu thế hội nhập quốc tế, việc cải thiện, nâng cao sức hấp dẫn của môi trường kinh doanh ở Việt Nam để thu hút các nguồn lực trong và ngoài nước có vai trò đặc biệt quan trọng, thực tế đó đòi hỏi phải có một hệ thống pháp luật hoàn thiện, mà trước hết là hệ thống pháp luật về đăng ký kinh doanh (ĐKKD). Nhận thức được vấn đề đó, trong những năm qua Đảng và Nhà nước ta đã rất quan tâm xây dựng và hoàn hiện pháp luật về ĐKKD mà trọng tâm là đơn giản hóa trình tự thủ tục ĐKKD, hướng tới một thủ tục ĐKKD thông thoáng, nhằm nhằm thu hút mọi nguồn lực đầu tư, thúc đẩy các chủ thể kinh doanh tham gia thị trường nhanh chóng, đảm bảo quyền tự do kinh doanh của mọi chủ thể kinh doanh. Luật Doanh nghiệp (với tư cách là đạo luật chính điều chỉnh các vấn đề về doanh nghiệp trong đó có nội dung về thủ tục ĐKKD của doanh nghiệp) đã được sửa đổi, bổ sung nhiều lần theo thời gian để phù hợp với thực tế, đáp ứng yêu cầu của công cuộc hội nhập. Ngày 26 tháng 11 năm 2014, Luật Doanh nghiệp 2014 được Quốc hội thông qua với nhiều quy định mới về hoạt động đăng ký kinh doanh (có hiệu lực từ ngày 01 tháng 7 năm 2015) đã tháo gỡ nhiều vướng mắc trong thủ tục thành lập doanh nghiệp, góp phần tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, đánh dấu một bước tiến mới cho hoạt động đăng ký kinh doanh cho các doanh nghiệp trên lãnh thổ Việt Nam. Luật Doanh nghiệp 2014 được ban hành cũng góp phần quan trọng trong thu hút và huy động các nguồn lực đầu tư vào sản xuất, kinh doanh, tạo thuận lợi hơn cho việc thành lập doanh nghiệp, đối xử bình đẳng về thủ tục thành lập doanh nghiệp giữa nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài 1
- ` Thành phố Bắc Ninh là một thành phố trẻ, năng động, có vị trí là trung tâm chính trị - kinh tế - xã hội của tỉnh Bắc Ninh. Những năm gần đây, kinh tế thành phố phát triển toàn diện với nhịp độ tăng trưởng cao, góp phần quan trọng vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của tỉnh Bắc Ninh và khu vực phía bắc thủ đô Hà Nội. Với xu thế phát triển đó, nhu cầu phát triển của cộng đồng doanh nghiệp với mong muốn nhanh chóng gia nhập thị trường là điều tất yếu khách quan. Sau khi Luật Doanh nghiệp 2014 có hiệu lực, với nhiều quy định mới về đăng ký kinh doanh được cho là thông thoáng, cộng đồng doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Bắc Ninh đã có sự phát triển mạnh mẽ, số lượng doanh nghiệp được thành lập tăng nhanh, việc thực thi các các quy định về ĐKKD đạt được những kết quả nhất định. Tuy nhiên, từ quy định của pháp luật cho tới việc thực tiễn triển khai vẫn cho thấy còn những bất cập, gây khó khăn cho các doanh nghiệp trong quá trình thực hiện đăng ký kinh doanh và gây khó khăn cho chính các cơ quan đăng ký kinh doanh trong quá trình thực thi pháp luật. Mặt khác, một số đối tượng lợi dụng thủ tục thông thoáng để đăng ký thành lập doanh nghiệp, lấy tư cách doanh nghiệp để thực hiện các hoạt động vi phạm pháp luật. Thực tế đó đòi hỏi cần có những quy định hợp lý hơn, sát thực hơn nhằm khắc phục những bất cập trong hoạt động đăng ký kinh doanh, đảm bảo thực hiện các quy định về đăng ký kinh doanh, hướng tới mục đích hoàn thiện hành lang pháp lý cho doanh nghiệp khi gia nhập thị trường, đảm bảo sự phát triển bền vững của cộng đồng doanh nghiệp và đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật. Xuất phát từ các yêu cầu trên, tác giả lựa chọn đề tài: “Đăng ký kinh doanh theo Luật Doanh nghiệp 2014 từ thực tiễn thành phố Bắc Ninh” làm đề tài luận văn Thạc sỹ Luật học. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Hoạt động ĐKKD là một hoạt động phổ biến, có ý nghĩa quan trọng nhằm ghi nhận sự ra đời của doanh nghiệp. Do đó, trong những năm gần đây các quy định của pháp luật về ĐKKD đã thu hút không ít sự quan tâm của các học giả, nhà nghiên cứu khoa học. Một số công trình khoa học nghiên cứu vấn đề trên có thể kể đến: Dương Đăng Huệ, “Pháp luật về việc cấp giấy phép thành lập doanh nghiệp, 2
- ` đăng ký kinh doanh ở Việt Nam – thực trạng và một vài kiến nghị”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 4, năm 1994; Nguyễn Thị Yến, “Những quy định về thủ tục thành lập doanh nghiệp cần tiếp tục hoàn thiện”, Tạp chí Luật học số 9, năm 2010; Trần Huỳnh Thanh Nghị, “Cải cách thủ tục thành lập doanh nghiệp ở Việt Nam trong chặng đường 10 năm hội nhập kinh tế quốc tế 2000-2010”, Tạp chí nghiên cứu Lập pháp, số 10, năm 2011 Bên cạnh đó còn rất nhiều luận văn thạc sĩ, công trình nghiên cứu khoa học khác tại các cơ sở giáo dục chuyên ngành Luật cũng lựa chọn các quy định của pháp luật về đăng ký kinh doanh làm đề tài nghiên cứu, qua đó đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về đăng ký kinh doanh. Một số công trình như: Luận văn thạc sỹ “Cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực đăng ký kinh doanh trên địa bàn thành phố Hà Nội”, người thực hiện Phạm Thị Thu Hường (Khoa Luật – Đại học Quốc Gia Hà Nội, năm 2006); Luận văn thạc sỹ “Đăng ký doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp 2014 và thực tiễn thi hành tại Thành phố Hồ Chí Minh”, người thực hiện Trần Nguyễn Quỳnh Đan (Đại Học Luật Hà Nội, năm 2016) . Mặc dù vậy, chưa có công trình khoa học nào đi sâu khai thác vấn đề thực tiễn thực thi các quy định về đăng ký kinh doanh theo Luật Doanh nghiệp 2014 trên địa bàn thành phố Bắc Ninh. Với đề tài này, Luận văn sẽ tập trung nghiên cứu toàn diện thực trạng các quy định về đăng ký kinh doanh theo Luật doanh nghiệp 2014; thực tiễn thi hành các quy định này trên địa bàn thành phố Bắc Ninh để từ đó tìm ra các bất cập, nguyên nhân và đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của Luận văn là nghiên cứu các quy định về đăng ký kinh doanh theo Luật Doanh nghiệp 2014 và các văn bản hướng dẫn thi hành; phân tích, đánh giá một cách toàn diện và khách quan thực trạng các quy định về đăng ký kinh doanh và thực tiễn thực thi các quy định này trên địa bàn thành phố Bắc Ninh, từ đó đề ra giải pháp cụ thể để khắc phục những hạn chế, bất cập góp phần hoàn 3
- ` thiện pháp luật về đăng ký kinh doanh và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về đăng ký kinh doanh trên địa bàn thành phố Bắc Ninh. Để đạt được mục đích trên, luận văn có những nhiệm vụ sau đây: Thứ nhất, nghiên cứu cơ sở lý luận, mục đích, ý nghĩa của hoạt động đăng ký kinh doanh. Thứ hai, nghiên cứu, đánh giá thực trạng các quy định về đăng ký kinh doanh theo Luật Doanh nghiệp 2014. Thứ ba, nghiên cứu thực tiễn áp dụng các quy định về đăng ký kinh doanh theo Luật Doanh nghiệp 2014 trên địa bàn thành phố Bắc Ninh. Thứ tư, trên cơ sở thực tiễn thực thi các quy định về đăng ký kinh doanh tại thành phố Bắc Ninh, đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về đăng ký kinh doanh và nâng cao hiệu quả thực thi các quy định này trên địa bàn thành phố Bắc Ninh. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quy định về đăng ký kinh doanh của Luật Doanh nghiệp 2014 và thực tiễn thực thi trên địa bàn thành phố Bắc Ninh. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu của luận văn tập trung vào những quy định về đăng ký kinh doanh được ghi nhận trong Luật Doanh nghiệp 2014 và các văn bản hướng dẫn thi hành; thực tiễn thực thi các quy định về đăng ký kinh doanh theo Luật doanh nghiệp 2014 qua thống kê, báo cáo và rà soát, đánh giá trên địa bàn thành phố Bắc Ninh. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Các phương pháp cơ bản được tác giả sử dụng trong việc nghiên cứu, hoàn thiện luận văn: Phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu, logic, chứng minh trên cơ sở phương pháp luận biện chứng duy vật của Chủ nghĩa Mác - Lênin để làm sáng tỏ những vấn đề cần nghiên cứu. 4
- ` 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận của luận văn Luận văn nghiên cứu, phân tích những vấn đề lý luận về đăng ký kinh doanh theo Luật Doanh nghiệp 2014. Qua thực tiễn thi hành, luận văn đưa ra những nhận xét, đánh giá khách quan để làm sáng tỏ hơn về thực trạng pháp luật, những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực thi pháp luật về đăng ký kinh doanh trên thực tế. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn Các kết quả nghiên cứu của đề tài này có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các hoạt động học tập và nghiên cứu về các chủ đề có liên quan. Những đề xuất, kiến nghị mà luận văn nêu ra đều có cơ sở khoa học và thực tiễn, vì vậy chúng có giá trị tham khảo trong việc sửa đổi pháp luật và trong công tác thi hành pháp luật về đăng ký kinh doanh hiện nay. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về đăng ký kinh doanh và pháp luật về đăng ký kinh doanh. Chương 2: Thực trạng đăng ký kinh doanh theo Luật Doanh nghiệp 2014 trên địa bàn thành phố Bắc Ninh. Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về đăng ký kinh doanh từ thực tiễn thành phố Bắc Ninh. 5
- ` Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐĂNG KÝ KINH DOANH VÀ PHÁP LUẬT VỀ ĐĂNG KÝ KINH DOANH 1.1. Khái quát chung về đăng ký kinh doanh 1.1.1. Khái niệm đăng ký kinh doanh Ở Việt Nam, thuật ngữ đăng ký kinh doanh xuất hiện lần đầu tiên trong Luật Công ty 1990 và tiếp tục được sử dụng trong các văn bản pháp luật về tổ chức kinh doanh sau này. Tuy nhiên, cho tới nay thuật ngữ “đăng ký kinh doanh” chưa được quy định cụ thể trong Luật Doanh nghiệp và các văn bản hướng dẫn thi hành mặc dù thuật ngữ này được sử dụng khá phổ biến trong lập pháp cũng như trong thực tế. Thuật ngữ “đăng ký kinh doanh” được ghép từ hai từ ghép “đăng ký” và “kinh doanh”. Về mặt từ ngữ, “kinh doanh” theo Từ điển Luật học, Viện Khoa học pháp lý, Nhà xuất bản Tư pháp – Bộ Tư pháp phối hợp với Nhà xuất bản Từ điển bách khoa xuất bản năm 2006 được hiểu là: “Các hoạt động đầu tư, sản xuất, mua bán, cung ứng dịch vụ do các chủ thể kinh doanh tiến hành một cách độc lập, thường xuyên trên thị trường nhằm mục đích lợi nhuận”[35, tr. 451]. Pháp luật của nhiều nước trên thế giới sử dụng thuật ngữ “commerce’’ (thương mại) theo nghĩa rộng để chỉ một cách tổng hợp các hoạt động sản xuất, mua bán hàng hóa, dịch vụ. Dưới góc độ pháp lý, theo quy định tại Khoản 16 Điều 4 Luật Doanh nghiệp 2014 thì: “Kinh doanh là việc thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi”. Để thực hiện hoạt động kinh doanh, pháp luật Việt Nam quy định các chủ thể phải tiến hành đăng ký tại các cơ quan nhà nước có thẩm quyền là cơ quan đăng ký kinh doanh. 6
- ` Theo từ điển Bách khoa Việt Nam thì “đăng ký” được hiểu: “1. Chính thức ghi vào văn bản của cơ quan pháp luật những thông tin cần thiết của sự kiện làm cơ sở phát sinh hoặc chấm dứt những quan hệ pháp lí nhất định. 2. Bằng chứng công nhận sự bắt đầu tồn tại hoặc chấm dứt một sự kiện, hiện tượng theo pháp luật.” [30] Theo định nghĩa của Từ điển Tiếng Việt, Nhà xuất bản Khoa học xã hội xuất bản năm 1994 “đăng ký” được hiểu là “ghi vào sổ của cơ quan quản lý để chính thức được công nhận cho hưởng quyền lợi hay làm nghĩa vụ”. Từ điển Luật học (Viện Khoa học pháp lý, Nhà xuất bản Tư pháp – Bộ Tư pháp phối hợp với Nhà xuất bản Từ điển bách khoa xuất bản năm 2006) cũng đã định nghĩa đăng ký kinh doanh là: “Sự ghi nhận bằng văn bản của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về mặt pháp lý sự ra đời của chủ thể kinh doanh” [35 ,tr. 233]. Tuy nhiên đăng ký kinh doanh có thể được tiếp cận nghiên cứu từ nhiều góc độ khác nhau: Theo phương diện kinh tế, đăng ký kinh doanh là một hoạt động của doanh nghiệp tuy không trực tiếp tạo ra của cải vật chất hay những dịch vụ nhằm thu lợi nhuận về cho các doanh nghiệp nhưng đây là hoạt động tạo tiền đề và cơ sở cần thiết để doanh nghiệp có thể được tiến hành hoạt động. Chi phí trong quá trình ĐKKD thành lập doanh nghiệp sẽ được tính vào chi phí hợp lý của doanh nghiệp sau này và được khấu trừ trong khi tính thuế. Theo phương diện quản lý nhà nước, đăng ký kinh doanh được coi là biện pháp quản lý Nhà nước về kinh tế. Thông qua hoạt động ĐKKD, Nhà nước có được các thông tin cần thiết về một doanh nghiệp, từ đó thực hiện các hoạt động quản lý khi doanh nghiệp đi vào sản xuất, trong khâu hậu kiểm, thực hiện việc điều tiết kinh tế vĩ mô và tạo điều kiện đảm bảo sự bình đẳng giữa các doanh nghiệp ngay từ khâu gia nhập thị trường. Theo phương diện chính trị, đăng ký kinh doanh được hiểu là quyền tự do của mọi người. Tuy nhiên, quyền tự do này phải trong khuôn khổ pháp luật. Bất kỳ một cá nhân, tổ chức nào có đủ điều kiện để kinh doanh đều có thể đăng ký với Nhà 7
- ` nước để tiến hành hoạt động sản xuất, kinh doanh. Quyền tự do này bao gồm quyền tự do lựa chọn ngành, nghề kinh doanh mà pháp luật không cấm, tự do lựa chọn hình thức kinh doanh và tự do đăng ký kinh doanh. Theo phương diện pháp lý, đăng ký kinh doanh là một thủ tục pháp lý có tính chất bắt buộc đối với doanh nghiệp khi gia nhập thị trường, được thực hiện tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để xác lập tư cách pháp lý cho doanh nghiệp mà nhà đầu tư bỏ vốn thành lập. Thuật ngữ đăng ký kinh doanh được áp dụng từ Luật Công ty 1990 đến Luật Doanh nghiệp 2005. Tuy nhiên, đến Nghị định số 43/2010/NĐ-CP hướng dẫn về đăng ký doanh nghiệp do Chính phủ ban hành ngày 15/4/2010 và có hiệu lực từ ngày 01/06/2010 đã chính thức thống nhất quy trình ĐKKD với đăng ký thuế, mỗi doanh nghiệp được cấp một mã số duy nhất gọi là mã số doanh nghiệp, mã số này đồng thời là mã số thuế của doanh nghiệp, thuật ngữ “đăng ký kinh doanh” được thay thế bằng thuật ngữ “đăng ký doanh nghiệp” và thuật ngữ này được sử dụng trong Luật Doanh nghiệp 2014 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Thuật ngữ “đăng ký doanh nghiệp” được giải thích tại Nghị định số 78/2015/NĐ-CP ngày 14/9/2015 của Chính phủ về đăng ký doanh nghiệp theo đó: “Đăng ký doanh nghiệp là việc người thành lập doanh nghiệp đăng ký thông tin về doanh nghiệp dự kiến thành lập, doanh nghiệp đăng ký những thay đổi hoặc dự kiến thay đổi trong thông tin về đăng ký doanh nghiệp với cơ quan đăng ký kinh doanh và được lưu giữ tại Cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng ký doanh nghiệp. Đăng ký doanh nghiệp bao gồm đăng ký thành lập doanh nghiệp, đăng ký thay đổi những nội dung đăng ký doanh nghiệp và các nghĩa vụ đăng ký, thông báo khác theo quy định của Nghị định này”. Tuy nhiên, theo quy định này thì cơ quan nhà nước có trách nhiệm thực hiện đăng ký doanh nghiệp hiện nay lại được quy định là cơ quan đăng ký kinh doanh. Như vậy, để gia nhập thị trường và được tiến hành hoạt động kinh doanh, các chủ thể kinh doanh phải phải khai báo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền về dự kiến hoạt động của mình với các thông tin cụ thể, các thông tin này sẽ được lưu giữ tại Cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng ký doanh nghiệp. Nhà nước sẽ thừa nhận việc 8
- ` đăng ký kinh doanh bằng việc cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp. Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp là bằng chứng pháp lý chứng minh chủ thể kinh doanh tiến hành các hoạt động kinh doanh một cách hợp pháp, độc lập, bình đẳng với các chủ thể kinh doanh khác trong nền kinh tế thị trường và được Nhà nước công nhận, bảo hộ. Thông qua hoạt động ĐKKD các chủ thể được bảo hộ về quyền và nghĩa vụ, được xác lập một địa vị pháp lý hợp pháp để tiến hành hoạt động kinh doanh chính thức trên thị trường trong nước và ngoài nước. Do đó, hoạt động ĐKKD không chỉ áp dụng cho các chủ thể tiến hành hoạt động kinh doanh là những doanh nghiệp mà ở đó còn áp dụng cho cả chủ thể hoạt động kinh doanh khác như hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, hộ kinh doanh [27, tr.34]. Từ những phân tích trên, có thể định nghĩa, đăng ký kinh doanh là một thủ tục pháp lý có tính chất bắt buộc đối với các chủ thể kinh doanh, theo đó các chủ thể thực hiện việc đăng ký các thông tin theo quy định với cơ quan đăng ký kinh doanh nhằm ghi nhận sự ra đời và xác định địa vị pháp lý của chủ thể kinh doanh đó trên thị trường. 1.1.2. Đặc điểm của đăng ký kinh doanh Thứ nhất, đăng ký kinh doanh là một thủ tục gia nhập thị trường của các chủ thể kinh doanh: Đăng ký kinh doanh là thủ tục pháp lý quan trọng và bắt buộc để chủ thể kinh doanh gia nhập thị trường. Chủ thể kinh doanh sẽ phải đăng ký các thông tin về doanh nghiệp dự kiến thành lập với cơ quan đăng ký kinh doanh và phải chịu trách nhiệm về tính chính xác của những thông tin cung cấp ghi trong hồ sơ đăng ký kinh doanh. Cơ quan đăng ký kinh doanh sẽ xem xét tính hợp lệ của hồ sơ và cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp cho chủ thể kinh doanh. Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp là tiền đề, cơ sở để doanh nghiệp gia nhập thị trường, tiến hành các hoạt động kinh doanh một cách hợp pháp dưới sự bảo hộ của nhà nước. Thông qua quy trình đăng ký kinh doanh, nhà nước thừa nhận sự tồn tại của doanh nghiệp trên thương trường, qua đó vừa đảm bảo quyền tự do kinh 9
- ` doanh cho các chủ thể kinh doanh vừa phục vụ cho công tác quản lý của nhà nước đối với những tổ chức kinh tế này. Như vậy, đăng ký kinh doanh được coi là thủ tục đầu tiên để tiến hành hoạt động kinh doanh dưới hình thức doanh nghiệp. Tuy nhiên, giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp không phải là giấy phép kinh doanh. Các doanh nghiệp kinh doanh ngành, nghề kinh doanh có điều kiện chỉ được phép kinh doanh khi đáp ứng được các yêu cầu về điều kiện kinh doanh theo quy định của pháp luật chuyên ngành. Thứ hai, đăng ký kinh doanh là phương thức thực hiện quyền tự do kinh doanh: Tự do kinh doanh là một trong những quyền con người cơ bản được ghi nhận tại Điều 33 Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013: “Mọi người có quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm”. Quyền tự do kinh doanh gồm một hệ thống các quyền gắn liền với chủ thể kinh doanh, trong đó quyền tự do đăng ký kinh doanh là một nội dung quan trọng, là tiền đề để thực hiện các quyền khác thuộc nội dung quyền tự do kinh doanh. Thực hiện quyền tự do đăng ký kinh doanh, chủ thể kinh doanh tự do lựa chọn, đăng ký loại hình doanh nghiệp, hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh, tự do lựa chọn mức vốn đầu tư, tên doanh nghiệp, người đại diện theo pháp luật, tự do lựa chọn ngành nghề kinh doanh mà pháp luật không cấm và tự do lựa chọn địa điểm kinh doanh sao cho phù hợp với điều kiện và sở thích của mỗi chủ thể kinh doanh. Như vậy, đăng ký kinh doanh là một công cụ để thực hiện quyền tự do kinh doanh của công dân. Quyền tự do này được thực hiện thông qua cơ chế “đăng ký” tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Việc đăng ký này hoàn toàn không phải sự hạn chế quyền tự do kinh doanh mà đây là một thủ tục cần thiết giúp cho doanh nghiệp được đảm bảo về các quyền và nghĩa vụ, được thừa nhận tư cách pháp lý khi gia nhập thị trường, đồng thời đây cũng là biện pháp quan trọng giúp Nhà nước tổ chức và quản lý doanh nghiệp một cách chặt chẽ và khoa học. Để đảm bảo quyền tự do đăng ký kinh doanh cho các chủ thể, Nhà nước có nghĩa vụ phải tạo ra những điều kiện đảm bảo để các chủ thể thực hiện quyền tự do đăng ký kinh doanh khi có nhu cầu, chứ không phải ban phát chúng thông qua cơ 10
- ` chế “xin - cho”, đồng thời Nhà nước cũng có những biện pháp để loại bỏ những hành vi ngăn cản trái phép quyền tự do đăng ký kinh doanh. Thứ ba, đăng ký kinh doanh là một thủ tục mang tính chất hành chính: Đăng ký kinh doanh là một thủ tục hành chính để Nhà nước ghi nhận sự ra đời của doanh nghiệp. Chủ thể kinh doanh sẽ phải khai báo các thông tin về doanh nghiệp dự kiến thành lập với cơ quan đăng ký kinh doanh, cơ quan đăng ký kinh doanh căn cứ vào các quy định của pháp luật sẽ xem xét tính hợp lệ của hồ sơ đăng ký và cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp cho chủ thể kinh doanh. Như vậy, quan hệ đăng ký kinh doanh là một quan hệ pháp luật hành chính, giữa một bên là tổ chức, cá nhân có nhu cầu đăng ký kinh doanh và một bên là cơ quan quản lý hành chính nhà nước và toàn bộ quy trình đăng ký kinh doanh sẽ phải tuân thủ theo các quy định của pháp luật. 1.1.3 Vai trò, ý nghĩa của đăng ký kinh doanh Đăng ký kinh doanh là thủ tục pháp lý khai sinh ra doanh nghiệp, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng nhằm ghi nhận sự ra đời và xác định địa vị pháp lý của chủ thể kinh doanh trên thị trường. Hoạt động ĐKKD không chỉ có ý nghĩa đối với nhà nước mà còn có ý nghĩa đối với chính các chủ thể tiến hành hoạt động kinh doanh và đối với xã hội. Thứ nhất, vai trò, ý nghĩa của đăng ký kinh doanh đối với Nhà nước: Đăng ký kinh doanh là một công cụ quan trọng và không thể thiếu để Nhà nước quản lý nền kinh tế. Thông qua hoạt động ĐKKD, những thông tin về doanh nghiệp sẽ được lưu giữ tại Cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng ký doanh nghiệp, từ đó nhà nước nắm bắt, quản lý được số lượng, quy mô, địa bàn, hình thức ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp, thống nhất quản lý doanh nghiệp trên phạm vi toàn quốc, thực hiện chức năng quản lý cơ cấu kinh tế - xã hội và kiểm soát được hoạt động kinh tế theo định hướng đề ra. Những số liệu chính xác về tình hình doanh nghiệp cũng là cơ sở quan trọng để Nhà nước hoạch định, xây dựng chính sách phát triển kinh tế, xã hội phù hợp với quy luật phát triển của thị trường và đáp ứng nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. 11
- ` Trong nền kinh tế thị trường, do chạy theo lợi nhuận nhiều chủ thể kinh doanh đi ngược lại chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, thông qua hoạt động ĐKKD, cơ quan Nhà nước có thể quản lý các chủ thể kinh doanh hoạt động theo đúng đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, hạn chế được những hành vi cạnh tranh không lành mạnh đồng thời định hướng cho nhà đầu tư hoạt động đúng mục đích, nhằm phát huy được hết vai trò của doanh nghiệp trong sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước. Đăng ký kinh doanh là công cụ hữu hiệu phục vụ công tác thanh tra, kiểm tra hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Những thông tin về doanh nghiệp cung cấp với cơ quan đăng ký kinh doanh là căn cứ để Nhà nước kiểm tra, giám sát hoạt động của doanh nghiệp một cách chặt chẽ, khoa học, từ đó phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời những sai phạm trong quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Thứ hai, vai trò, ý nghĩa của đăng ký kinh doanh đối với các chủ thể kinh doanh: Đăng ký kinh doanh là cơ sở pháp lý để chủ thể kinh doanh tiến hành các hoạt động kinh doanh một cách hợp pháp, độc lập, bình đẳng với các chủ thể kinh doanh khác trong nền kinh tế thị trường và được Nhà nước công nhận, bảo hộ. Như vậy, đối với các chủ thể kinh doanh, đăng ký kinh doanh nhằm bảo vệ quyền lợi của chủ thể kinh doanh. Thông qua đăng ký kinh doanh, doanh nghiệp gia nhập thị trường có tư cách pháp lý, có mã số doanh nghiệp riêng biệt và được hưởng đầy đủ các quyền, nghĩa vụ theo quy định. Thông qua đăng ký kinh doanh, toàn bộ thông tin cơ bản của doanh nghiệp đã đăng ký với cơ quan đăng ký kinh doanh được lưu giữ tại Cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng ký doanh nghiệp và được đăng tải trên Cổng thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp. Qua kênh thông tin này, các đối tác, bạn hàng, người tiêu dùng có thể có được những thông tin cơ bản, chính xác về doanh nghiệp từ đó tạo dựng được lòng tin trong hợp tác, kinh doanh, giúp doanh nghiệp tồn tại và phát triển. 12
- ` Đăng ký kinh doanh cũng giúp cho các chủ thể kinh doanh tiếp cận dễ dàng hơn với nguồn vốn vay và các chính sách hỗ trợ khác của Nhà nước. Thứ ba, vai trò, ý nghĩa của đăng ký kinh doanh đối với xã hội: Đăng ký kinh doanh là thủ tục pháp lý khai sinh ra doanh nghiệp, mỗi thực thể kinh doanh ra đời với những ngành nghề kinh doanh nhất định sẽ cung cấp các sản phẩm, dịch vụ phục vụ đời sống và sản xuất kinh doanh cho các tổ chức, cá nhân trong xã hội, từ đó thúc đẩy nền kinh tế -xã hội của đất nước phát triển. Sau khi đăng ký kinh doanh, chủ thể kinh doanh được phép thuê nhân công để triển khai hoạt động sản xuất kinh doanh. Việc đăng ký thành lập doanh nghiệp vì thế còn góp phần giải quyết vấn đề việc làm, nâng cao thu nhập và ổn định đời sống cho người lao động, giảm thiểu tỉ lệ lao động thất nghiệp, làm giảm bớt các tệ nạn trong xã hội. Thông qua hoạt động đăng ký kinh doanh các thông tin của doanh nghiệp được công khai trước công chúng, nhờ đó công chúng nắm bắt được thông tin chính xác về doanh nghiệp và qua đó thúc đẩy các bên có liên quan kiểm soát lẫn nhau khi thiết lập và thực hiện các giao dịch. Sau khi được thành lập, với nguồn lợi nhuận thu nhập được từ hoạt động sản xuất kinh doanh, nhà đầu tư sẽ có vai trò quan trọng trong việc thực hiện an sinh xã hội, hỗ trợ cộng đồng, hướng đến sự tăng trưởng bền vững của nền kinh tế đất nước [34, tr.17]. Như vậy có thể thấy đăng ký kinh doanh là hoạt động có ý nghĩa vô cùng quan trọng không chỉ đối với công tác quản lý nhà nước, đối với chủ thể kinh doanh mà còn có ý nghĩa cả về mặt xã hội. Việc đăng ký kinh doanh thực sự là cần thiết, tất yếu và không thể thiếu trong quá trình phát triển kinh tế của đất nước. 1.2 Pháp luật về đăng ký kinh doanh 1.2.1 Khái niệm pháp luật về đăng ký kinh doanh Pháp luật là một công cụ hữu hiệu để Nhà nước thực hiện chức năng quản lý. Bất kỳ một quan hệ nào phát sinh trong đời sống xã hội cũng cần đến sự điều chỉnh của pháp luật nhằm định hướng chúng đi theo một trật tự nhất định, để vừa đảm bảo 13
- ` được lợi ích của Nhà nước, của chủ thể quan hệ và vừa đảm bảo được lợi ích chung của toàn xã hội. Đối với hoạt động đăng ký kinh doanh, việc tạo lập khung pháp lý để điều chỉnh là hết sức cần thiết, và là tất yếu khách quan. Khung pháp lý ấy không chỉ tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ thể đăng ký kinh doanh mà còn giúp Nhà nước dễ dàng trong quản lý doanh nghiệp. Về mặt lý luận có thể hiểu pháp luật về đăng ký kinh doanh như sau: “Pháp luật về đăng ký kinh doanh là tổng thể các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận điều chỉnh về điều kiện, nội dung và trình tự, thủ tục đăng ký kinh doanh của các chủ thể kinh doanh tại cơ quan đăng ký kinh doanh cũng như trong quá trình thực hiện hoạt động kinh doanh”. Theo khái niệm này pháp luật về đăng ký kinh doanh sẽ không chỉ giới hạn trong các quy định về đăng ký kinh doanh theo Luật Doanh nghiệp mà bao gồm cả những quy phạm pháp luật về đăng ký kinh doanh được ban hành tại các văn bản pháp luật khác như Bộ luật Dân sự, Luật Đầu tư, Luật Hợp tác xã Tuy vậy, trong phạm vi luận văn này các quy định pháp luật được nghiên cứu chủ yếu là các quy định về đăng ký kinh doanh theo Luật Doanh nghiệp 2014 và một số văn bản có liên quan. Như vậy, pháp luật về đăng ký kinh doanh bao gồm những quy phạm pháp luật điều chỉnh mối quan hệ xã hội giữa chủ thể đăng ký kinh doanh và cơ quan đăng ký kinh doanh trong việc đăng ký kinh doanh, điều kiện kinh doanh, thủ tục đăng ký kinh doanh, các biện pháp chế tài để đảm bảo việc đăng ký kinh doanh được thực hiện đúng pháp luật và những vấn đề khác liên quan đến hoạt động đăng ký kinh doanh [27, tr.60]. Pháp luật về đăng ký kinh doanh không nhằm mục đích kìm hãm, siết chặt quyền tự do đăng ký kinh doanh của nhà đầu tư mà thực chất tạo ra những đảm bảo pháp lý để chủ thể kinh doanh vận dụng khởi sự doanh nghiệp, đồng thời là công cụ để Nhà nước kiểm soát quá trình hình thành, hoạt động và phát triển của doanh nghiệp theo hướng tích cực, loại bỏ các ảnh hưởng tiêu cực của cơ chế thị trường. Vì vậy, pháp luật về đăng ký kinh doanh mang tính chất bắt buộc đối với các chủ thể tham gia vào quan hệ quản lý và thành lập doanh nghiệp. 14