Luận văn Đăng ký giao dịch bảo đảm tiền vay theo pháp luật Việt Nam
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Đăng ký giao dịch bảo đảm tiền vay theo pháp luật Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_dang_ky_giao_dich_bao_dam_tien_vay_theo_phap_luat_v.pdf
Nội dung text: Luận văn Đăng ký giao dịch bảo đảm tiền vay theo pháp luật Việt Nam
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TỐNG THỊ THU TRANG §¡NG Ký GIAO DÞCH B¶O §¶M TIÒN VAY THEO PH¸P LUËT VIÖT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2015
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TỐNG THỊ THU TRANG §¡NG Ký GIAO DÞCH B¶O §¶M TIÒN VAY THEO PH¸P LUËT VIÖT NAM Chuyên ngành: Luật kinh tế Mã số: 60 38 01 07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: TS. HOÀNG ANH TUẤN HÀ NỘI - 2015
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng dẫn của TS. Đặng Quang Phương. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã hoàn thành tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy, tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! Người cam đoan Tống Thị Thu Trang
- MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục bảng, sơ đồ MỞ ĐẦU 1 Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ ĐĂNG KÝ GIAO DỊCH BẢO ĐẢM TIỀN VAY 11 1.1. Một số khái niệm trong đăng ký giao dịch bảo đảm tiền vay 11 1.1.1. Khái niệm giao dịch bảo đảm 11 1.1.2. Khái niệm giao dịch bảo đảm tiền vay 13 1.1.3. Khái niệm tài sản bảo đảm tiền vay 14 1.1.4. Khái niệm đăng ký giao dịch bảo đảm tiền vay 15 1.2. Đăng ký giao dịch bảo đảm tiền vay 17 1.2.1. Đặc điểm chung của đăng ký giao dịch bảo đảm tiền vay 17 1.2.2. Mục đích của đăng ký giao dịch bảo đảm tiền vay 19 1.2.3. Ý nghĩa của đăng ký giao dịch bảo đảm tiền vay 21 1.2.4. Chủ thể của đăng ký giao dịch bảo đảm tiền vay 22 1.2.5. Hiệu lực pháp lý của đăng ký giao dịch bảo đảm tiền vay 24 1.2.6. Xác lập và chấm dứt quan hệ pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm tiền vay 28 1.2.7. Các giao dịch bảo đảm bắt buộc phải đăng ký 29 1.3. Pháp luật chỉnh hoạt động đăng ký giao dịch bảo đảm tiền vay ở Việt Nam 32 1.3.1. Giai đoạn 1992 đến 2005 32
- 1.3.2. Giai đoạn từ năm 2005 đến nay 33 Kết luận chƣơng 1 37 Chƣơng 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ ĐĂNG KÝ GIAO DỊCH BẢO ĐẢM TIỀN VAY 38 2.1. Thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm 38 2.1.1. Tổ chức và thẩm quyền của cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm 38 2.1.2. Đăng ký, thay đổi, xoá đăng ký giao dịch bảo đảm 45 2.1.3. Hồ sơ và thủ tục đăng ký giao dịch bảo đảm 53 2.1.4. Cung cấp và công bố thông tin về giao dịch bảo đảm 60 2.2. Nguyên nhân của các tồn tại, hạn chế trong đăng ký giao dịch bảo đảm tiền vay 64 2.2.1. Do sự thiếu nhất quán, đồng bộ giữa các quy định pháp luật 64 2.2.2. Quy định về đăng ký giao dịch bảo đảm 65 2.2.3. Phân chia việc đăng ký giao dịch bảo đảm không hợp lý 67 Kết luận Chƣơng 2 69 Chƣơng 3: ĐỊNH HƢỚNG VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ ĐĂNG KÝ GIAO DỊCH ĐẢM BẢO TIỀN VAY 70 3.1. Các định hƣớng hoàn thiện pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm tiền vay 70 3.1.1. Định hướng đối với việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về các biện pháp bảo đảm tiền vay 70 3.1.2. Định hướng hoàn thiện đối với việc đăng ký giao dịch bảo đảm 71 3.1.3. Định hướng hoàn thiện pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm tiền vay 74 3.2. Một số kiến nghị cụ thể hoàn thiện pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm tiền vay 75
- 3.2.1. Giải pháp lập pháp 75 3.2.2. Giải pháp hành pháp 80 3.2.3. Giải pháp tư pháp 82 3.2.4. Một số giải pháp khác 83 Kết luận chƣơng 3 86 KẾT LUẬN 87 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 89
- DANH MỤC BẢNG, SƠ ĐỒ Số hiệu bảng, Tên bảng, sơ đồ Trang sơ đồ Sơ đồ 2.1: Về hệ thống các cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm 39 Kết quả thống kê số lượng các giao dịch bảo đảm Bảng 2.1: 40 được đăng ký từ năm 2005 đến năm 2011
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Thực tế cho thấy, hoạt động đăng ký giao dịch bảo đảm đã góp phần công khai, minh bạch các giao dịch bảo đảm và đối kháng với người thứ ba, tạo nguồn dữ liệu thông tin quan trọng làm cơ sở tra cứu, xác minh khi quyết định chấp nhận tài sản đảm bảo và quyết định ký kết giao dịch đảm bảo và cấp tín dụng cho bên vay. Việc xác định thời điểm đăng ký giao dịch đảm bảo còn là căn cứ xác định thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử lý tài sản. Với ý nghĩa này, đăng ký giao dịch đảm bảo có thể được coi như lá chắn đảm bảo an toàn pháp lý chủ thể có quyền yêu cầu trong các giao dịch dân sự (theo nghĩa rộng). Theo quy định của BLDS 2005 hiện có 7 biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự bao gồm: Cầm cố tài sản; Thế chấp tài sản; Đặt cọc; Ký cược; Ký quỹ; Bảo lãnh; Tín chấp. Trong đó, các biện pháp bảo đảm tiền vay gồm: Cầm cố tài sản, thế chấp tài sản, bảo lãnh, tín chấp. - Bảo đảm tiền vay bằng cầm cố tài sản Theo quy định tại điều 326 BLDS 2005 quy định về cầm cố tài sản: “Cầm cố tài sản là việc một bên (sau đây gọi là bên cầm cố) giao tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho bên kia (sau đây gọi là bên nhận cầm cố) để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự” [37, Điều 326]. Như vậy, khái niệm về cầm cố tài sản đã thay đổi, biện pháp bảo đảm bằng cầm cố tài sản buộc bên cầm cố phải giao tài sản cho bên nhận cầm cố. Và đây là tiêu chí để phân biệt với thế chấp tài sản, chứ không căn cứ vào loại tài sản là động sản hoặc bất động sản. Tuy nhiên, nếu theo quy định tại điều 326 của BLDS 2005 không quy định về tài sản dùng để cầm cố là động sản hay là bất động sản, thì được hiểu cầm cố cả hai loại tài sản trên. Khi xem xét các quy định tại các luật chuyên 1
- ngành, thì chỉ thấy có các quy định về thế chấp nhà ở tại Luật Nhà ở hoặc thế chấp quyền sử dụng đất tại Luật đất đai, mà không có quy định nào về cầm cố bất động sản cả. Như vậy, mặc dù luật doanh nghiệp đã lấy tiêu chí việc chuyển giao tài sản hay không để phân biệt giữa thế chấp và cầm cố tài sản. Nhưng thực tế, tiêu chí này không được các luật chuyên ngành xem xét đến, mà vẫn mặc nhiên cầm cố động sản và thế chấp bất động sản. Đây là sự không thống nhất, chồng chéo giữa quy định của luật chung và luật chuyên ngành. - Bảo đảm tiền vay bằng thế chấp tài sản Cũng như việc ghi nhận biện pháp cầm cố tài sản, thì BLDS 1995 cũng lần đầu ghi nhận biện pháp bảo đảm là thế chấp tài sản. Theo đó, tại điều 346 BLDS 1995 quy định: “Thế chấp tài sản là việc bên có nghĩa vụ dùng tài sản là bất động sản thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ đối với bên có quyền” [25, Điều 346]. Đến BLDS 2005 đưa ra khái niệm khác: “Thế chấp tài sản là việc một bên (sau đây gọi là bên thế chấp) dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự đối với bên kia (sau đây gọi là bên nhận thế chấp) và không chuyển giao tài sản đó cho bên nhận thế chấp” [37, Điều 342]. BLDS 2005 cho phép người thế chấp bằng tài sản là động sản hoặc bất động sản và việc thế chấp không phải chuyển giao tài sản cho bên nhận thế chấp, bên thế chấp vẫn sử dụng và quản lý tài sản trong thời gian thế chấp. - Bảo đảm tiền vay bằng bảo lãnh Theo quy định tại BLDS năm 2005 có sự khác biệt so với BLDS năm 1995, đó là chỉ còn một loại bảo lãnh duy nhất không kèm theo tài sản cầm cố, thế chấp. Tức là sẽ không còn giao dịch bảo lãnh bằng hàng hoá, tài sản, nhà ở, quyền sử dụng đất. 2
- Tuy nhiên, theo Điều 361 của BLDS năm 2005: Bảo lãnh là việc người thứ ba (sau đây gọi là bên bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (sau đây gọi là bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (sau đây gọi là bên được bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ. Các bên cũng có thể thoả thuận về việc bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ khi bên được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình. Theo quy định của Luật Đất đai năm 2003 lại quy định “bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất”. Mà thực tế hiện nay, trong hoạt động cho vay của các ngân hàng, việc bên thứ ba bảo lãnh – cầm cố bằng tài sản của mình hoặc bảo lãnh – thế chấp bằng tài sản. Khi giải thích về bảo lãnh, có ý kiến cho rằng: “bảo lãnh là biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự, trong đó người thứ ba dùng tài sản thuộc quyền sở hữu để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự của người khác chứ không phải là bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của chính chủ sở hữu tài sản như các chế định bảo đảm khác”. Như vậy, những quy định của BLDS 2005 được hiểu không khác gì so với các quy định của BLDS 1995 khi quy định không có việc cầm cố, thế chấp tài sản của người thứ ba để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ dân sự. Sự không rõ ràng như vậy, đã dẫn đến một thực tế khi Tòa án nhân dân xét xử các tranh chấp liên quan đến các biện pháp bảo đảm có nhận định khác nhau. Trường hợp Bản án số 26/2011/KT-ST ngày 05-8-2011 của tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi đã tuyên vô hiệu hợp đồng thế chấp tài sản của bên thứ ba với ngân hàng TMCP Quân Đội, vì cho rằng đó phải là hợp đồng bảo lãnh chứ không phải là hợp đồng thế chấp tài sản của bên thứ ba. Vì thế, cần phải phân biệt khái niệm giữa bảo lãnh và thế chấp tài sản của bên thứ ba một các rõ ràng, tránh sự áp dụng pháp luật khác nhau. 3
- - Bảo đảm tiền vay bằng tín chấp Đây là biện pháp bảo đảm mới xuất hiện trong BLDS 2005, thể hiện sự quan tâm, giúp đỡ của nhà nước đến đối tượng đặc biệt là các hộ gia đình nghèo để phát triển kinh tế hộ gia đình. Theo quy định tại điều 372 BLDS 2005 “Tổ chức chính trị - xã hội tại cơ sở có thể bảo đảm bằng tín chấp cho cá nhân, hộ gia đình nghèo vay một khoản tiền tại ngân hàng hoặc tổ chức tín dụng khác để sản xuất, kinh doanh, làm dịch vụ theo quy định của Chính phủ” [37, Điều 372]. Xung quan biện pháp bảo đảm này, còn nhiều ý kiến cho rằng, biện pháp tín chấp không nên đưa vào các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong bộ luật dân sự. Cho đến nay, vẫn chưa có hướng dẫn nào liên quan đến hoạt động tín chấp, trong trường hợp nếu hộ gia đình nghèo vay tiền, nhưng đến hạn trả nợ không thể thực hiện nghĩa vụ trả nợ đó, thì bên đã bảo đảm bằng tín chấp có nghĩa vụ, trách nhiệm như thế nào. Vì thế trong thực tế các tổ chức tín dụng thường rất hiếm khi cho vay, trừ khi buộc phải thực hiện. Khi nhận xét về quy định này, có học giả cho rằng: Thực chất thì trách nhiệm về tài sản của biện pháp bảo đảm này hoàn toàn bằng không. Đó chỉ là một thứ bảo đảm “ảo”, như một thứ “thuốc” giả, không màu sắc, không mùi vị và hoàn toàn vô tác dụng trong chế định giao dịch bảo đảm. Giao dịch tín chấp này không thuộc về quan hệ tài sản, cũng chẳng phải là quan hệ nhân thân phi tài sản. Vì vậy, đề nghị cần loại bỏ khỏi BLDS biện pháp bảo đảm “tín chấp” để bảo đảm sự hợp lý, chuẩn mực của BLDS [28]. Theo quy định tại Bộ luật dân sự mới được thông qua ngày 24/11/2015 (Sau đây gọi là BLDS 2015) có 9 biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bao gồm: 1. Cầm cố tài sản; 2. Thế chấp tài sản; 3. Đặt cọc; 4. Ký cược; 5. Ký quỹ; 6. Bảo lưu quyền sở hữu; 7. Bảo lãnh; 8. Tín chấp; 9. Cầm giữ tài sản. Như vậy, BLDS 2015 vẫn giữ nguyên 7 biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa 4
- vụ cũ và quy định thêm hai hình thức bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ dân sự mới là bảo lưu quyền sở hữu và cầm giữ tài sản. Cả hai biện pháp mới này đều không thuộc trường hợp bảo đảm bằng tiền vay. Trong những năm gần đây, pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm ngày càng được quan tâm xây dựng và hoàn thiện. Cụ thể, năm 2000 Chính Phủ ban hành Nghị định số 08/2000/NĐ-CP ngày 10/3/2000 về đăng ký giao dịch bảo đảm. Đến năm 2003, quy định về giao dịch đảm bảo được khẳng định trong Luật Đất đai, tiếp đến là Bộ luật dân sự năm 2005, Luật Nhà ở, Bộ luật Hàng hải, Luật Hàng không dân dụng. Tiếp đến là Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/11/2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm. Năm 2007, tại Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khoá X đã ban hành Nghị quyết số 17-NQ/TW ngày 01/8/2007, theo đó xác định mục tiêu: Đẩy mạnh cải cách hành chính nhằm tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; xây dựng một nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh, từng bước hiện đại; đội ngũ cán bộ, công chức có đủ phẩm chất và năng lực; hệ thống các cơ quan nhà nước hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế; đáp ứng tốt yêu cầu phát triển nhanh và bền vững của đất nước. Không nằm ngoài mục tiêu này, đăng ký giao dịch đảm bảo là một trong những loại dịch vụ hành chính công cần được cải cách để đáp ứng quá trình hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng. Thể chế hoá đường lối của Đảng và Nhà nước, năm 2008, Quốc hội đã xây dựng chương trình xây dựng Luật, Pháp lệnh, trong đó có dự án Luật Đăng ký giao dịch bảo đảm. Trong quá trình xây dựng luật, ngày 10/12/2010, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 52/NQ-CP về việc đơn giản hoá thủ tục hành chính thuộc phạm vi chức năng quản lý của Bộ Tư pháp, trong đó nhóm thủ tục về đăng ký giao dịch bảo đảm được đặt ở vị trí trang nhất. Trong quá 5
- trình xây dựng luật, Chính phủ luôn chủ động hoàn thiện pháp luật về giao dịch đảm bảo, cụ thể như thông tư số 5/2011/TT-BTP ngày 06 tháng 02 năm 2011 và thông tư số 08 ngày 26/02/2014 sửa đổi, bổ sung một số vấn đề về đăng ký, cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm Tuy nhiên, pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm vẫn còn nhiều bất cập, trùng lặp, mâu thuẫn. Đồng thời quy trình đăng ký giao dịch bảo đảm còn thiếu sự thống nhất và chưa thực sự đơn giản, nhanh chóng và thuận tiện. Đặc biệt là ở vùng nông thôn. Để góp phần đáp ứng yêu cầu thực tiễn về đăng ký giao dịch đảm bảo và để khắc phục những khiếm khuyết của pháp luật Việt Nam về vấn đề này, học viên lựa chọn đề tài “Đăng ký giao dịch bảo đảm tiền vay theo pháp luật Việt Nam” làm luận văn cao học luật của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Đến nay, có nhiều các công trình nghiên cứu của các tác giả về giao dịch bảo đảm và đăng ký giao dịch bảo đảm. Có thể kể đến một số công trình cụ thể như: Tác giả Nguyễn Văn Mạnh, “Một số vấn đề về giao dịch bảo đảm theo pháp luật hiện hành” tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 99 tháng 6/2007. Tác giả phân tích các quy định tại Bộ luật dân sự 1995 và Bộ luật dân sự 2005 để nhận định rằng một số vấn đề về tài sản bảo đảm, đăng ký giao dịch bảo đảm, thứ tự ưu tiên thanh toán và phương thức xử lý tài sản bảo đảm chưa được quy định thống nhất, hợp lý. Qua đó, tác giả đề xuất các quy định về giao dịch bảo đảm nói riêng cần có sự thống nhất, ổn định, phản ánh đúng tính chất quan hệ dân sự trong nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, tác giả chưa đưa ra các đề xuất cụ thể cho các vấn đề trên. Tác giả Nguyễn Văn Phương có bài “Đăng ký giao dịch bảo đảm: Rủi ro từ thực tế và bất cập của pháp luật” trên tạp chí ngân hàng số 8/2009. Tác giả đã đề cập đến những vấn đề thực trạng về quy định thiếu nhất quán, đồng 6
- bộ về công chứng, chứng thực hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và/hoặc tài sản gắn liền với đất; việc đăng ký giao dịch bảo đảm không tập trung và thiếu thông tin liên kết do việc đăng ký giao dịch bảo đảm được thực hiện ở nhiều cơ quan khác nhau, tùy thuộc vào loại tài sản thế chấp, cầm cố; quy định còn bỏ ngỏ về bên giữ bản chính giấy chứng nhận sở hữu tài sản thế chấp, cầm cố là phương tiện vận tải Chuyên đề “Bình luận về những bất cập của pháp luật giao dịch bảo đảm” của tác giả Trương Thanh Đức tại Hội thảo Khoa học cấp Bộ về Nhận diện khía cạnh pháp lý của vật quyền bảo đảm và một số kiến nghị xây dựng, hoàn thiện Bộ luật Dân sự Việt Nam, ngày 27/6/2013. Tác giả đã đưa ra những bất cập của pháp luật hiện hành trong thực tiễn, khó khăn, nguyên nhân và đề xuất những giải pháp, như: cầm cố thẻ tiết kiệm ngân hàng, thế chấp hàng hóa luân chuyển, thế chấp xe ô tô hoặc phương tiễn vận tải khác, thế chấp nhà hoặc quyền sử dụng đất Luận án tiến sĩ của tác giả Vũ Thế Hoài về “Pháp luật về hoạt động đăng ký, cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm trong lĩnh vực tín dụng ngân hàng ở Việt Nam” tại Viện Hàn Lâm Khoa học xã hội Việt Nam. Luận án đưa ra những luận cứ làm căn cứ đề xuất các quan điểm, yêu cầu và giải pháp hoàn thiện pháp luật về hoạt động đăng ký, cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm trong lĩnh vực tín dụng ngân hàng ở Việt Nam trong thời gian tới. Tác giả Lưu Thị Lan Hương với đề tài “Vấn đề giao dịch bảo đảm bằng tàu bay trong pháp luật quốc tế hiện đại”, Luận văn thạc sĩ khoa Luật- Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2012. Luận văn tìm hiểu khái lược về quy định của pháp luật về giao dịch bảo đảm bằng tàu bay và thực trạng pháp luật Việt Nam về giao dịch bảo đảm bằng tàu bay. Hay như tác giả Nguyễn Trí Đức với luận văn thạc sĩ luật tại Đại học Luật Hà Nội về “Hoàn thiện pháp luật về giao dịch bảo đảm trong hoạt động 7
- của ngân hàng thương mại Việt Nam”. Đề tài đưa ra thực trạng áp dụng pháp luật về các biện pháp bảo đảm tiền vay, đồng thời đưa ra các yêu cầu và kiến nghị pháp luật về giao dịch bảo đảm trong hoạt động của ngân hàng thương mại Việt Nam ở Việt Nam hiện nay. Bên cạnh đó còn có rất nhiều bài viết, công trình nghiên cứu khác của các tác giả đề cập đến các biện pháp bảo đảm như tác giả Nguyễn Ngọc Điện, “Hoàn thiện các quy định về xử lý tài sản thế chấp” trên Tạp chí nghiên cứu lập pháp điện tử. Tuy nhiên, các công trình nói trên chỉ nghiên cứu chung về giao dịch đảm bảo, điều kiện có hiệu lực của giao dịch đảm bảo, rủi ro mà chưa nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện và đầy đủ cơ sở lý luận và thực tiễn về đăng ký giao dịch đảm bảo tiền vay. Kế thừa những công trình nghiên cứu về giao dịch bảo đảm đã được công bố của giới khoa học pháp lý trong nước, tác giả quyết tâm nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận về đăng ký giao dịch đảm bảo tiền vay theo pháp luật Việt Nam. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Luận văn nghiên cứu tổng quát lý luận về đăng ký giao dịch đảm bảo; phân tích thực trạng pháp luật Việt Nam hiện nay về vấn đề này và kiến nghị các định hướng và giải pháp hoàn thiện chế định này ở Việt Nam. Với đề tài nghiên cứu đã chọn, tác giả giới hạn phạm vi nghiên cứu tập trung giải quyết vấn đề pháp lý cơ bản về việc đăng ký giao dịch đảm bảo tiền vay, mà bên cho vay và nhận đảm bảo (nhận thế chấp, cầm cố, bảo lãnh) phải là các tổ chức tín dụng.Về bản chất, giới hạn theo chủ thể của giao dịch không có khác biệt lớn. Tuy nhiên, hiện tại giao dịch đảm bảo với Ngân hàng là phổ biến, nhưng việc giới hạn nhằm mục đích đảm bảo sự phù hợp giữa tiên đề tài và nội dung nghiên cứu. 4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của đề tài nhằm làm rõ những vấn đề lí luận về 8
- đăng ký giao dịch đảm bảo; Làm rõ thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về đăng ký giao dịch đảm bảo tiền vay; Làm rõ những hạn chế, bất cập và nguyên nhân của chúng để làm cơ sở đề xuất một số giải pháp và kiến nghị hoàn thiện. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Các phương pháp nghiên cứu của Luận văn được xây dựng trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử và đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam. Các phương pháp mà luận văn sử dụng bao gồm: phương pháp phân tích quy phạm, phân tích vụ việc, và phân tích lịch sử; phương pháp tổng hợp, thông kê, tập hợp các thông tin, số liệu và vụ việc; phương pháp điển hình hoá, mô hình hóa các quan hệ xã hội; phương pháp hệ thống hóa các quy phạm pháp luật; phương pháp so sánh pháp luật; và phương pháp đánh giá thực trạng pháp luật. Với phương pháp phân tích quy phạm, luận văn đã phân tích quy định của pháp luật hiện hành về chấm dứt doanh nghiệp, qua đó chỉ ra các khiếm khuyết, bất cập Khi phân tích vụ việc, luận văn đã chỉ ra khiếm khuyết trong thực tiễn áp dụng pháp luật. Phương pháp tổng hợp được sử dụng kết hợp với phương pháp phân tích. Cụ thể, từ những kết quả nghiên cứu bằng phân tích, Luận văn sử dụng phương pháp tổng hợp kết hợp chúng lại với nhau để có được sự nhận thức về vấn đề nghiên cứu một cách đầy đủ, hoàn chỉnh. Kết quả tổng hợp được thể hiện chủ yếu bằng các kết luận, kiến nghị hoàn thiện pháp luật Doanh nghiệp. Phương pháp so sánh được sử dụng khi so sánh với pháp luật nước ngoài để chỉ ra ưu nhược điểm, sự tiến bộ hay lạc hậu hoặc so sánh giữa pháp luật hiện hành với các văn bản đã hết hiệu lực để chỉ ra sự thay đổi tích cực hay tụt hậu 9
- 6. Bố cục của Luận văn Ngoài phần mở đầu, nội dung của Luận văn được bố cục như sau: Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về đăng ký giao dịch bảo đảm và pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm tiền vay Chương 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam về đăng ký giao dịch bảo đảm tiền vay Chương 3: Định hướng và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm tiền vay 10
- Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ ĐĂNG KÝ GIAO DỊCH BẢO ĐẢM TIỀN VAY 1.1. Một số khái niệm trong đăng ký giao dịch bảo đảm tiền vay 1.1.1. Khái niệm giao dịch bảo đảm Trong các giao dịch dân sự, chủ thể có quyền luôn quan tâm đến khả năng thực hiện nghĩa vụ dân sự của chủ thể có nghĩa vụ. Do đó, các quy định giao dịch bảo đảm hay biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự ra đời trước hết là nhằm hướng đến mục tiêu bảo vệ chủ thể có quyền trong quan hệ giao dịch dân sự. Ở Việt Nam, khái niệm giao dịch bảo đảm được nhìn nhận chủ yếu dưới giác độ là biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong quan hệ hợp đồng. Trước khi BLDS ra đời khái niệm về giao dịch bảo đảm lần đầu tiên được biết đến dưới góc độ là đối tượng của hoạt động đăng ký nhằm mục đích công khai hoá các nội dung liên quan đến giao dịch bảo đảm như Bên chủ thể quyền (giao dịch) cũng như các quyền (giao dịch) tồn tại từ trước đối với tài sản bảo đảm theo đơn đề nghị của người yêu cầu. Với sự ra đời của BLDS 1995, các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ đã được quy định đầy đủ hơn, bao gồm các quy định chung về các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự và các quy định cụ thể về từng biện pháp như cầm cố, thế chấp, đặt cọc, ký cược, ký quỹ, bảo lãnh, phạt vi phạm. Tuy nhiên, một số quy định trong Pháp lệnh hợp đồng kinh tế về các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự có hiệu lực thi hành song song với BLDS 1995 đã làm cho tình trạng cùng tồn tại các quy định về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong pháp luật dân sự và pháp luật kinh tế có nhiều quan điểm và nội dung pháp lý không thống nhất. Bên cạnh đó, trong lĩnh vực tài chính ngân hàng, để thi hành các quy định của BLDS về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong 11
- quan hệ tín dụng, Ngân hàng nhà nước đã ban hành một số văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh riêng về lĩnh vực này. BLDS 2005 đưa ra khái niệm “giao dịch bảo đảm” một cách bao quát hơn, theo đó “giao dịch bảo đảm là giao dịch dân sự do các bên thoả thuận hoặc pháp luật quy định về việc thực hiện biện pháp bảo đảm được quy định tại Khoản 1 Điều 318 của Bộ luật này” [37, Điều 323, Khoản 1]. Các biện pháp bảo đảm đó là: cầm cố, thế chấp, bảo lãnh, đặt cọc, ký cược, ký quỹ, tín chấp. Trong giao dịch bảo đảm, bên bảo đảm dùng tài sản của mình để bảo đảm một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ dân sự đối với bên có quyền. Trong đó, bên bảo đảm là bên có nghĩa vụ hoặc người thứ ba cam kết bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự, bao gồm bên cầm cố, bên thế chấp, bên đặt cọc, bên ký cược, bên ký quỹ, bên bảo lãnh và tổ chức chính trị - xã hội tại cơ sở trong trường hợp tín chấp. Còn bên nhận bảo đảm là bên có quyền trong quan hệ dân sự mà việc thực hiện quyền đó được bảo đảm bằng một hoặc nhiều giao dịch bảo đảm, bao gồm bên nhận cầm cố, bên nhận thế chấp, bên nhận đặt cọc, bên nhận ký cược, bên nhận bảo lãnh, tổ chức tín dụng trong trường hợp tín chấp và bên có quyền được ngân hàng thanh toán, bồi thường thiệt hại trong trường hợp ký quỹ. Như vậy, giao dịch bảo đảm là các giao dịch được xác lập nhằm tạo ra những “phương thức bảo đảm” cho việc thực hiện nghĩa vụ dân sự phát sinh từ các giao dịch dân sự như hợp đồng tín dụng và từ các căn cứ pháp lý khác như trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Từ những phân tích nêu trên có thể hiểu: Giao dịch bảo đảm là sự thoả thuận giữa bên bảo đảm và bên nhận bảo đảm, theo đó bên bảo đảm dùng tài sản của mình (tài sản bảo đảm) để đảm bảo cho việc thực hiện nghĩa vụ trong giao dịch dân sự. Trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng thoả thuận, thì bên nhận bảo đảm có quyền xử lý tài sản bảo đảm để bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ. 12
- 1.1.2. Khái niệm giao dịch bảo đảm tiền vay Theo Nghị định 178/1999/NĐ-CP của Chính phủ về bảo đảm tiền vay của các Tổ chức tín dụng đã đưa ra khái niệm về bảo đảm tiền vay: “Bảo đảm tiền vay là việc tổ chức tín dụng áp dụng các biện pháp nhằm phòng ngừa rủi ro, tạo cơ sở kinh tế và pháp lý để thu hồi được các khoản nợ đã cho khách hàng vay” [14, Điều 2, Khoản 1]. Đến Nghị định 163/2006/NĐ-CP về giao dịch bảo đảm được ban hành để thay thế Nghị định 178/1999/NĐ-CP để thống nhất các giao dịch bảo đảm nói chung với bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng. Nghị định 163 được ban hành sau khi BLDS 2005 có hiệu lực, nhằm cụ thể hóa điều 318 của BLDS 2005 quy định các biện pháp đảm bảo nghĩa vụ dân sự. Điều 318. Biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự 1. Các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự bao gồm: a) Cầm cố tài sản; b) Thế chấp tài sản; c) Đặt cọc; d) Ký cược; đ) Ký quỹ; e) Bảo lãnh; g) Tín chấp [37, Điều 318]. Tuy nhiên, tại Nghị định 163 không có quy định nào nêu lên định nghĩa về giao dịch bảo đảm hoặc giao dịch bảo đảm tiền vay mà chỉ liệt kê các biện pháp bảo đảm như tại điều 318 BLDS 2005. Đây cũng là đặc thù một số quy định trong pháp luật ở Việt Nam chỉ mang tính liệt kê, chứ không đưa ra định nghĩa cụ thể. Căn cứ vào khái niệm của giao dịch bảo đảm và tiếp cập theo chức năng của các giao dịch bảo đảm tiền vay, chúng ta có thể định nghĩa giao dịch bảo đảm tiền vay như sau: “Giao dịch bảo đảm tiền vay là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó, bên cho vay nhận bảo đảm bằng quyền đối với tài sản của bên vay hoặc bên thứ ba nhằm đảm bảo cho nghĩa vụ trả nợ trong một thời gian nhất định trong tương lai”. Như vậy, giao dịch bảo đảm tiền vay có thể được xác lập giữa bên cho 13
- vay với bên vay hoặc với một bên thứ ba nhằm đảm bảo cho nghĩa vụ trả nợ cho bên vay khi đến hạn trả nợ theo thỏa thuận. 1.1.3. Khái niệm tài sản bảo đảm tiền vay “Tài sản” theo ý nghĩa pháp lý được thể hiện dưới các dạng là: “Tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản” [37, Điều 163]. Bên cạnh đó, các quyền tài sản cũng có thể là tài sản đảm bảo tiền vay. Các quyền tài sản thuộc sở hữu của bên bảo đảm bao gồm quyền tài sản phát sinh từ quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với giống cây trồng, quyền đòi nợ, quyền được nhận số tiền bảo hiểm đối với vật bảo đảm, quyền tài sản đối với phần vốn góp trong doanh nghiệp, quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng và các quyền tài sản khác thuộc sở hữu của bên bảo đảm đều được dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự. Quyền sử dụng đất được dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự theo quy định của Bộ luật này và pháp luật về đất đai. Quyền khai thác tài nguyên thiên nhiên được dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự theo quy định của Bộ luật này và pháp luật về tài nguyên [37, Điều 322]. Nghị định 163/2006/NĐ-CP về giao dịch bảo đảm đưa ra khái niệm về tài sản bảo đảm: “Tài sản bảo đảm là tài sản mà bên bảo đảm dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự đối với bên nhận bảo đảm” [16, Điều 3]. Tài sản bảo đảm do các bên thoả thuận và thuộc sở hữu của bên có nghĩa vụ hoặc thuộc sở hữu của người thứ ba mà người này cam kết dùng tài sản đó để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ đối với bên có quyền. Tài sản bảo đảm có thể là tài sản hiện có, tài sản hình thành trong tương lai và được phép giao dịch [16, Điều 4]. Điều kiện của tài sản được dùng để đảm bảo là cho việc thực hiện nghĩa vụ phải thỏa mãn“vật bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự phải thuộc sở hữu của bên bảo đảm và được phép giao dịch” [37]. 14
- Theo quy định trên, “tài sản đảm bảo phải thuộc sở hữu của bên bảo đảm” có điểm mâu thuẫn nội tại với quy định “tài sản hình thành trong tương lai”. Bởi thời điểm xác lập giao dịch bảo đảm, thì tài sản này vẫn chưa hoàn toàn thuộc sở hữu của bên bảo đảm. Như vậy, tài sản bảo đảm tiền vay là tài sản thuộc sở hữu của bên bảo đảm hoặc tài sản hình thành trong tương lai được bên bảo đảm dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ đối với bên nhận bảo đảm. 1.1.4. Khái niệm đăng ký giao dịch bảo đảm tiền vay Đăng ký giao dịch bảo đảm là một trong những cơ chế điều tiết việc bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, với mục tiêu công bố công khai quyền của bên nhận bảo đảm đối với tài sản bảo đảm. Qua đó, các cá nhân, tổ chức có nguồn thông tin để tìm hiểu trước khi xem xét, quyết định giao kết hợp đồng, cho vay vốn. Với vai trò bảo vệ nhà đầu tư, tăng cường khả năng tiếp cận các nguồn vốn trong hoạt động tín dụng, thương mại, đăng ký giao dịch bảo đảm còn làm căn cứ để xác định chính xác thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử lý tài sản bảo đảm trong trường hợp một tài sản được bảo đảm để thực hiện cho nhiều nghĩa vụ theo thứ tự thời gian công khai hóa, nó tồn tại như một yếu tố tự nhiên trong nền kinh tế thị trường. Mặt khác, đăng ký giao dịch bảo đảm là việc nhà nước (hoặc các chủ thế khác do Nhà nước ủy quyền) công nhận một tình trạng đã được bảo đảm cho một nghĩa vụ hoặc nhiều nghĩa vụ dân sự nhất định. Giá trị pháp lý thực sự của hành vi đăng ký giao dịch bảo đảm không phải ở chỗ nó nhằm chứng minh sự tồn tại trên thực tế cũng như về mặt pháp lý của giao dịch bảo đảm đã đăng ký, mà chính là ở chỗ nó thừa nhận một tài sản đã được chủ sở hữu đem bảo đảm cho việc thực hiện một hay nhiều nghĩa vụ dân sự của chính họ hoặc người khác đối với bên có quyền. Hành vi này sẽ là sự kiện pháp lý để làm phát sinh quyền được ưu tiên thanh toán của bên nhận bảo đảm trong 15
- giao dịch bảo đảm đã đăng ký, so với bên nhận bảo đảm khác trong các giao dịch bảo đảm chưa được đăng ký. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc coi hành vi đăng ký giao dịch bảo đảm là sự kiện pháp lý để “đánh dấu” thứ tự hình thành các giao dịch bảo đảm đã được xác lập đối với một tài sản và từ đó xác định thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử lý tài sản bảo đảm đối với các chủ nợ có bảo đảm bằng một tài sản. Từ đó có thể nhận thấy, chứng từ chứng nhận đăng ký giao dịch bảo đảm là một trong những yếu tố quan trọng để Tòa án giải quyết các tranh chấp. Tại Việt Nam, xuất phát từ thực tiễn kinh tế - xã hội trong hơn hai thập kỷ vừa qua, vấn đề xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý về đăng ký giao dịch bảo đảm đã và đang được thực hiện có ý nghĩa quan trọng góp phần tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường, thực hiện những cải cách về chính sách và thể chế nhằm phát huy tối đa mọi nguồn lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội, tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Mặc dù đã có những phát triển đáng kể trong vài năm trở lại đây, song cho đến thời điểm hiện nay, trong khoa học pháp lý Việt Nam vẫn chưa có một khái niệm chính thức về đăng ký giao dịch bảo đảm. Tuy nhiên, theo quy định tại Nghị định số 83/2010/NĐ-CP về Đăng ký giao dịch bảo đảm thì: “Đăng ký giao dịch bảo đảm là việc cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm ghi vào Sổ đăng ký giao dịch bảo đảm hoặc nhập vào Cơ sở dữ liệu về giao dịch bảo đảm việc bên bảo đảm dung tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự đối với bên nhận bảo đảm” [20, Điều 2]. Đăng ký giao dịch bảo đảm là việc một trong các bên tham gia quan hệ bảo đảm tiến hành đăng ký giao dịch bảo đảm bằng tài sản tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, tránh việc chuyển dịch chủ sở hữu của tài sản trong thời gian đăng ký. Đăng ký giao dịch bảo đảm là thủ tục pháp lý được thực hiện theo quy định của pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm nhằm công khai hoá tình 16