Luận văn Đăng ký đầu tư theo luật đầu tư năm 2014 từ thực tiễn Thành phố Hà Nội

pdf 84 trang vuhoa 24/08/2022 8780
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Đăng ký đầu tư theo luật đầu tư năm 2014 từ thực tiễn Thành phố Hà Nội", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_dang_ky_dau_tu_theo_luat_dau_tu_nam_2014_tu_thuc_ti.pdf

Nội dung text: Luận văn Đăng ký đầu tư theo luật đầu tư năm 2014 từ thực tiễn Thành phố Hà Nội

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI PHAN THỊ THU HƯƠNG ĐĂNG KÝ ĐẦU TƯ THEO LUẬT ĐẦU TƯ NĂM 2014 TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI Chuyên ngành: Luật Kinh tế Mã số: 60.38.01.07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. DƯƠNG ĐỨC CHÍNH HÀ NỘI - 2016
  2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là đề tài luận văn nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS.Dương Đức Chính – Học viện Khoa học xã hội.Các luận điểm, dẫn chứng, số liệu, ví dụ nêu trong luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Kết quả nghiên cứu nêu trong luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ đề tài, công trình nghiên cứu nào khác. Tác giả luận văn Phan Thị Thu Hương
  3. DANH MỤCCÁCCHỮ VIẾT TẮT ĐTNN Đầu tư nước ngoài ĐTTN Đầu tư trong nước FDI Đầu tư trực tiếp nước ngoài GCNĐKĐT Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư GCNĐKKD Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh HĐND Hội đồng nhân dân LĐT Luật Đầu tư LDN Luật Doanh nghiệp LĐT năm 2005 Luật Đầu tư ngày 26 tháng 11 năm 2005 LĐT năm 2014 Luật Đầu tư ngày 26 tháng 11 năm 2014 Luật khí tượng thủy văn Luật khí tượng thủy văn ngày 23 tháng 11 năm 2015 năm 2015 Luật Thú ý năm 2015 Luật Thú y ngày 19 tháng 06 năm 2015 Nghị định số 108 Nghị định số 108/2006/NĐ-CP ngày 22 tháng 09 năm 2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu tư Nghị định số 43 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15 tháng 05 năm 2014 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi thành một số điều của Luật Đất Đai Nghị định số 118 Nghị định số 118/20015/NĐ-CP ngày 12 tháng 11 năm 2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu tư UBND Ủy ban nhân dân
  4. MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐĂNG KÝ ĐẦU TƯTHEO PHÁP LUẬT ĐẦU TƯ 7 1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của đăng ký đầu tư theo pháp luật đầu tư 7 1.2. Khái quát các quy định của pháp luật về đăng ký đầu tư trước Luật đầu tư năm 2014 13 1.3. Nội dung của pháp luật về đăng ký đầu tư theo Luật Đầu tư năm 2014 16 Chương 2. THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ ĐĂNG KÝ ĐẦU TƯ TẠI THÀNH PHỐ HÀ NỘI THEO LUẬT ĐẦU TƯ NĂM 2014 36 2.1. Tình hình kinh tế - xã hội và đăng ký đầu tư tại thành phố Hà Nội từ năm 2012 đến ngày 30 tháng 6 năm 2016 36 2.2. Thực trạng pháp luật về đăng ký đầu theo Luật Đầu tư năm 2014 38 2.3. Thực tiễn áp dụng pháp luật về đăng ký đầu tư tại thành phố Hà Nội từ năm 2012 đến ngày 30 tháng 06 năm 2016 42 2.4. Đánh giá chung pháp luật đăng ký đầu tư theo Luật Đầu tư năm 2014 và tình hình thực thi pháp luật về đăng ký đầu tư tại thành phố Hà Nội 52 Chương 3. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ ĐĂNG KÝ ĐẦU TƯ THEO LUẬT ĐẦU TƯ NĂM 2014 TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI 59 3.1. Phương hướng và yêu cầu hoàn thiện pháp luật về đăng ký đầu tư theo Luật Đầu tư năm 2014 từ thực tiễn Thành phố Hà Nội 59 3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về đăng ký đầu tư theo Luật Đầu tư năm 2014 từ thực tiễn thành phố Hà Nội 60 KẾT LUẬN 73 TÀI LIỆU THAM KHẢO 75
  5. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế ngày nay đã và đang tạo ra xu hướng nhất thể hóa các nền kinh tế trên thế giới. Sự kiện Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức thương mại thế giới (WTO), cùng với những thuận lợi và thách thức đối với nước ta khi gia nhập WTO nói chung và thành phố Hà Nội nói riêng. Trong đó, nguồn vốn đầu tư nước ngoài đóng vai trò quan trọng, tạo nguồn lực bổ sung về vốn, công nghệ, thị trường, kinh nghiệm quản lý là lao động trình độ cao với phong cách công nghiệp, góp phần tạo việc làm, nâng cao trình độ, phát triển nhiều mặt của đất nước. Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng việc phát triển kinh tế, cụ thể hóa chủ trương lớn đó, tại kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa 13, ngày 28 tháng 11 năm 2013 đã thông qua Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam một lần nữa khẳng định tại Điều 50: “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, phát huy nội lực, hội nhập, hợp tác quốc tế, gắn kết chặt chẽ với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”[33, Điều 50]. Kinh nghiệm của hầu hết các quốc gia trên thế giới, đối với các chiến lược kinh tế cần phải vận dụng sáng và phát huy các nguồn lực nội tại, thúc đẩy tiến trình hội nhập, hợp tác quốc tế sâu rộng qua đó từng bước hiện thực hóa mục tiêu đã đề ra cần phải được chú trọng.Lĩnh vực kinh tế có những đặc thù riêng đó là, muốn kinh tế phát triển kinh tế thì phải đẩu tư. Cá nhân, tổ chức trong nước hay ngoài nước đều có thể tham gia vào quá trình đầu tư nhưng xét về mặt pháp lý để đảm bảo quyền lợi và nghĩa vụ cho nhà đầu tư cũng như mục đích quản lý xã hội của nhà nước, thủ tục để thực hiện hoạt động đầu tư đều do Nhà nước thống nhất quản lý bằng các chế định pháp luật. 1
  6. Do đó, pháp luật về đầu tư phải thực sự là đòn bẩy thúc đẩy hoạt động đầu tư phát triển mạnh mẽ, đa dạng và hiệu quả nếu phản ánh đúng, phù hợp và khoa học. Ngược lại, chính những rào cản kìm hãm hoạt động đầu tư lại thuộc về yếu tố pháp luật, nếu pháp luật còn nhiều bất cập, không phù hợp, không theo kịp trình độ phát triển kinh tế - xã hội. Một trong những chế định quan trọng hàng đầu đó là các quy định liên quan đến thủ tục đăng ký đầu tư. Chế định này là cơ sở pháp lý cho các hoạt động đầu tư được quan tâm hơn,tại kỳ hợp thứ 8 Quốc hội khóa XIII ngày 26 tháng 11 năm 2014 đã thông qua Luật Đầu tư (LĐT), tuy nhiên, các quan hệ xã hội luôn thay đổi do đó, sau một thời gian áp dụng trên thực tế pháp luật về đăng ký đầu tư đã bộc lộ một số hạn chế, vướng mắc cần được điều chỉnh: Thời hạn cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư đã được LĐT năm 2014 rút ngắn đáng kể so với LĐT năm 2005. Tuy nhiên, xem xét thực tế cấp Giấy chứng nhận đầu tư hiện hành, chúng tôi thấy rất ít trường hợp nhà đầu tư được cấp giấy chứng nhận đầu tư đúng thời hạn theo quy định của LĐT năm 2014; LĐT năm 2014 đã thừa nhận chính thức thủ tục xin chấp thuận chủ trương đầu tư. Dự án phải xin chủ trương đầu tư là những dự án lớn và đặc biệt, tuy nhiên, việc thừa nhận thủ tục phải xin chấp thuận chủ trương đầu tư có thể phát sinh hệ lụy. Trong bối cảnh LĐT và LDN sửa đổi mới được ban hành và chưa có thực tế áp dụng, sự cẩn trọng của các cơ quan cấp phép có thể tạo môi trường thuận lợi cho việc áp dụng tràn lan thủ tục xin chủ trương đầu tư. Khi đó, có nguy cơ nhiều dự án không thuộc diện xin chủ trương đầu tư cũng bị bắt buộc phải xin chủ trương đầu tư trong thực tế; LĐT cũng chưa giải quyết triệt để bài toán về tư cách của nhà đầu tư nước ngoài. LĐT quy định hai tiêu chí để xác định tư cách nhà đầu tư nước ngoài: quốc tịch và vốn (vốn đầu tư từ nước ngoài). Đứng trước yêu cầu hoàn thiện quy định của pháp luật về đăng ký đầu tư theo LĐT năm 2014 để khắc phục những hạn chế, bất cập của pháp luật về 2
  7. đăng ký đầu tư nêu trên. Đồng thời, xuất phát từ nhu cầu bức thiết trong thực tiễn về thu hút đầu tư để phát triển kinh tế - xã hội của cả nước nói chung và đặc biệt là thành phố Hà Nội, tác giả đã lựa chọn đề tài “ Đăng ký đầu tư theo Luật Đầu tư năm 2014 từ thực tiễn thành phố Hà Nội” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn thạc sỹ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trong nhữngnăm gần đây, các quy định của pháp luật về thủ tục đăng ký đầu tư đã thu hút không ít sự quan tâm của các nhà quản lý, các nhà khoa học. Hiện đã có một số đề tài nghiên cứu, bài viết được công bố rải rác trên các sách báo, tạp chí, yêu cầu và phương hướng, giải pháp hoàn thiện, nâng cao chất lượng quản lý trong lĩnh vực đầu tư có hiệu quả, phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, phù hợp với thời mở cửa hội nhập quốc tế, cụ thể như sau: - Đặng Ngọc Bảo (2011), Thực trạng thi hành pháp luật về cấp giấy chứng nhận đầu tư theo Luật Đầu tư 2005, Luận văn thạc sỹ luật học, Khoa luật Đại học quốc gia Hà Nội. - Nguyễn Thị Hải (2014), Hoàn thiện pháp luật về đầu tư – qua thực tiễn đầu tư nước ngoài tại Khu kinh tế Nghi Sơn, tỉnh Thanh Hóa, Luận văn thạc sỹ luật học, Khoa luật Đại học quốc gia Hà Nội. - Trịnh Thị Thúy Hằng (2013), Điều kiện đầu tư, kinh doanh ở Việt Nam đối với các nhà đầu tư nước ngoài trong bối cảnh gia nhập WTO, Luận văn thạc sỹ luật học, Khoa luật Đại học quốc gia Hà Nội. - Nguyễn Thị Phương Hồng (2010), Thủ tục đăng ký và thẩm tra dự án đầu tư theo pháp luật đầu tư ở Việt Nam, Luận văn thạc sỹ luật học, Khoa luật Đại học quốc gia Hà Nội. - Nguyễn Đình Tuấn (2014), Pháp luật về đăng ký đầu tư từ thực tiễn tỉnh Nghệ An, Luận văn thạc sỹ luật học, Học viện khoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội. 3
  8. Những công trình nghiên cứu trên đã đề cập một số vấn đề chung về lý luận và pháp lý về đăng ký đầu tư theo pháp luật đầu tư, cũng như đưa ra một số giải pháp chung để đảm bảo thi hành pháp luật về đăng ký đầu tư theo pháp luật đầu tư. Tuy nhiên, vẫn chưa đánh giá được một cách toàn diện và hệ thống chuyên biệt về đăng ký đầu tư theo LĐT năm 2014 mà chủ yếu mới chỉ đề cập được một số hạn chế nhất định của pháp luật đầu tư, chưa có những giải pháp cụ thể để hoàn thiện pháp luật về đăng ký đầu tư theo LĐT năm 2014, chưa đưa ra được những giải pháp đồng bộ và hệ thống để hoàn thiện thực thi pháp luật về đăng ký đầu tư theo LĐT năm 2014. Đặc biệt, chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu tình hình áp dụng pháp luật và thực tiễn pháp luật về đăng ký đầu tư tại thành phố Hà Nội để đưa ra những kiến giải cụ thể, sát thực nhằm nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về đăng ký đầu tư theo LĐT năm 2014 trên địa bàn thành phố Hà Nội. Theo đó, luận văn sẽ tiếp tục nghiên cứu những vấn đề còn lại về lý luận pháp lý và thực tiễn đăng ký đầu tư theo LĐT năm 2014 tại thành phố Hà Nội. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của luận văn là trên cơ sở phân tích, làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn trong việc áp dụng các quy định của LĐT năm 2014vềđăng ký đầu tư tại thành phố Hà Nội. Trên cơ sở đó, Luận văn đưa ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật về đăng ký đầu tư theo LĐTnăm 2014từ thực tiễn thành phố Hà Nội 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành về đăng ký đầu tư đối với hoạt động đầu tư của tổ chức, cá nhân nước ngoài. 4
  9. - Nghiên cứu thực tiễn tình hình thực hiện pháp luật về thủ tục đăng ký đầu tư trên địa bàn thành phố Hà Nội trong những năm gần đây. - Đề xuất kiến nghị cơ bản nhằm hoàn thiện chế định pháp luật về thủ tục đăng ký đầu tư. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận và thực tiễn về đăng ký đầu tưtheo LĐT năm 2014 tại địa bàn thành phố Hà Nội. 4.2. Phạm vi phạm vi nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu của đề tài là văn bản LĐT năm 2014 và các văn bản dưới luật cũng như các văn bản có liên quan của thành phố Hà Nội về lĩnh vực thủ tục đăng ký đầu tư trong giai đoạn từ năm 2012 đến tháng 06 năm 2016. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Nghiên cứu và vận dụng lý luận Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam (trong các Văn kiện của Đảng). Luận văn thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, trong đó sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể, đó là: hệ thống, thống kê, so sánh, phân tích, tổng hợp Luận văn sử dụng số liệu của Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, phòng Đầu tư nước ngoài, phòng Đăng ký kinh doanh - Sở Kế hoạch và Đầu tư Hà Nội, số liệu của Cục thống kê Hà Nội, số liệu các công trình, dự án, bài viết trên các sách, báo, tạp chí đã được công bố, đăng tải. 6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận văn Về lí luận, luận văn góp phần làm rõ thêm khái niệm đăng ký đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài và những yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến việc thi hành thủ tục đăng ký đầu tư trên địa bàn thành phố Hà Nội. 5
  10. Về thực tiễn, các đề xuất và giải pháp của luận văn có thể vận dụng và thực tế nhằm nâng cao chất lượng trong việc thi hành đăng ký đầu tư tại thành phố Hà Nội cũng như trong việc thi hành thủ tục đăng ký đầu tư tại các địa phương trong cả nước. Đồng thời luận văn cũng sẽ là một tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu học tập, đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ công chức đảm nhiệm công tác chuyên môn về đăng ký đầu tư nói riêng và trong khoa học luật nói chung. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mục lục, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu theo ba chương: Chương 1: Những vấn đề chung về đăng ký đầu tư theo pháp luật đầu tư Chương 2: Thực tiễn áp dụng pháp luật về đăng ký đầu tư tại thành phố Hà Nội Chương 3: Phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng về đăng ký đầu tư theo LuậtĐầu tư năm 2014 từ thực tiễn thành phố Hà Nội 6
  11. Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐĂNG KÝ ĐẦU TƯ THEO PHÁP LUẬT ĐẦU TƯ 1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của đăng ký đầu tư theo pháp luật đầu tư 1.1.1. Định nghĩa đăng ký đầu tư Đầu tư là một khái niệm có từ khá sớm, đã từng xuất hiện trong bộ cổ luật Hamurabi (khoảng 1700 năm Trước Công Nguyên). Bộ luật này quy định về hành lang pháp lý cho hoạt động đầu tư, và tạo ra một phương tiện cho việc cầm cố tài sản bằng việc pháp điển hóa quyền của chủ nợ và con nợ đối với đất đai bị cầm cố. Trong nền kinh tế thị trường, khái niệm đầu tư được sử dụng tương đối rộng rãi và phổ biến. Hoạt động đầu tư thực chất là quá trình sử dụng các nguồn lực về tài chính, lao động, tài nguyên thiên nhiên và các tài sản vật chất khác nhằm trực tiếp hoặc gián tiếp tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng các cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế nói chung. Dưới góc độ kinh tế, đầu tư được xem là việc sử dụng các điều kiện hay nguồn lực hiện tại nhằm đem lại cho nền kinh tế - xã hội những kết quả trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã được sử dụng để đạt được các kết quả đó. Dưới góc độ chính trị - xã hội, đầu tư được hiểu là “việc bỏ nhân lực, tài lực, vật lực vào công việc gì, trên cơ sở tính toán hiệu quả kinh tế - xã hội”. Ở góc độ xã hội, một ví dụ điển hình là bố mẹ “đầu tư” tiền của, công sức để con cái học hành nên người hay nhà nước đầu tư, chi ngân sách cho “giáo dục”, đầu tư vào “con người” với mong muốn xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn. Đầu tư theo nghĩa rộng là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu về cho người đầu tư các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được các kết quả 7
  12. đó. Nguồn lực có thể là tiền, là tài nguyên thiên nhiên, là sức lao động và trí tuệ. Các kết quả đạt được có thể là sự tăng thêm các tài sản tài chính, tài sản vật chất, tài sản trí tuệ và nguồn lực. Đầu tư theo nghĩa hẹp chỉ bao gồm những hoạt động sử dụng các nguồn lực ở hiện tại nhằm đem lại cho nền kinh tế - xã hội những kết quả trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã sử dụng để đạt được các kết quả đó. Nói tóm lại, có rất nhiều khái niệm về đầu tư được xem xét ở nhiều góc độ khác nhau. Tuy vậy, ở góc độ tổng quát, khái niệm về đầu tư được đưa ra một cách tương đối như sau: “đầu tư là hoạt động sử dụng các nguồn lực tài chính, nguồn lực vật chất, nguồn lực lao động và trí tuệ để sản xuất kinh doanh trong một thời gian tương đối dài nhằm thu về lợi nhuận và lợi ích kinh tế, xã hội”. Dưới góc độ pháp lý, đầu tư là việc nhà đầu tư, bao gồm các tổ chức cá nhân, bỏ vốn, tài sản theo các hình thức và cách thức do pháp luật quy định để thực hiện hoạt động nhằm mục đích sinh lợi nhuận hoặc lợi ích về kinh tế, xã hội. Hoạt động đầu tư có thể có thể có tính chất kinh doanh hoặc không vì mục đích kinh doanh, thương mại. Tuy nhiên, trong khoa học pháp lý cũng như trong các thực tiễn xây dựng chính sách, pháp luật về đầu tư, hoạt động đầu tư chủ yếu được đề cập là hoạt động đầu tư, kinh doanh với bản chất là “sự chi phí của cải vật chất nhằm mục đích làm tăng giá trị tài sản hay tìm kiếm lợi nhuận trong tương lai”[28,Tr.7-8]. Trong LĐT và các văn bản hướng dẫn thi hành không đề cập đến khái niệm về “ đăng ký đầu tư”. Đăng ký đầu tư có thể được xem như là một dạng đặc biệt của thủ tục hành chính.Khi nghiên cứu khái niệm và đặc điểm của thủ tục hành chính chúng ta có thể phân tích đôi nét về đăng ký đầu tư như sau: Đăng ký đầu tư là tổng thể những hoạt động cụ thể mang tính pháp lý cần thiết phải tiến hành theo trình tự, thủ tục nhất định do pháp luật đầu tư 8
  13. quy định nhằm thực hiện quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong quá trình đầu tư và quản lý đầu tư. Đăng ký đầu tư là chuỗi những hoạt động cụ thể của nhà đầu tư và cơ quan quản lý về đầu tư trước khi tổ chức thực hiện dự án đầu tư. Do đó, đăng ký đầu tư là hoạt động tiền đề, khâu đầu tiên và là cơ sở cho những bước tiếp theo. 1.1.2. Đặc điểm đăng ký đầu tư - Chủ thể của đăng ký đầu tư là Cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư và các nhà đầu tưđược điều chỉnh bởi Luật đầu tư Để bảo vệ lợi ích của các cá nhân, tổ chức và toàn xã hội, pháp luật quy định những chủ thể được tham gia quan hệ pháp luật đầu tư và những điều kiện cần đáp ứng để tham gia các quan hệ đó. Các chủ thể đáp ứng các điều kiện do pháp luật quy định để tham gia quan hệ đầu tư được coi là có năng lực chủ thể pháp luật đầu tư (năng lực pháp luật và năng lực hành vi), bao gồm: nhà đầu tư và cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư.Quan hệ pháp luật về đăng ký đầu tư là quan hệ phát sinh giữa các nhà đầu tư và cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư trong quá trình xem xét và cấp giấy chứng nhận đầu tư. Quan hệ này luôn tồn tại hai nhóm chủ thể có địa vị pháp lý khác nhau (không bình đẳng): một bên là cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư và một bên là các nhà đầu tư được điều chỉnh bởi pháp luật về đăng ký đầu tư[48, Tr. 41]. Để thực hiện chức năng quản lý nhà nước về đầu tư, Nhà nước phải thông qua các cơ quan nhà nước về đầu tư với sự phân công, phân cấp về thẩm quyền quản lý cho từng cơ quan quản lý một cách phù hợp. - Nội dung của đăng ký đầu tư là các hoạt động cụ thể mang tính pháp lý cần thiết phải thực hiện Nội dung của đăng ký đầu tư là một bộ phận của quan hệ pháp luật về đăng ký đầu tư, cùng với chủ thể và khách thể của đăng ký đầu tư tạo nên quan hệ pháp luật về đăng ký đầu tư. Quan hệ pháp luật về đăng ký đầu tư là quan hệ xuất hiện do ý chí của các nhà đầu tư, thông qua hoạt động của các 9
  14. bên tham gia quan hệ : cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư và nhà đầu tư [48, Tr. 45].Các bên tham gia quan hệ bày tỏ ý chí của mình bằng việc tiến hành một hoặc một số hành động nhất định: nhà đầu tư thực hiện lập báo cáo tài chính, cơ quan nhà nước tiến hành thẩm tra báo cáo tài chính, cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư Quan hệ pháp luật về đăng ký đầu tư xuất hiện trên cơ sở quy phạm pháp luật về đầu tư đối với các bên tham gia quan hệ: nhà đầu tư được quyền thành lập tổ chức kinh tế theo quy định của pháp luât ;trong thời hạn 25 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ dự án đầu tư, cơ quan đăng ký đầu tư phải lập báo cáo thẩm định trình UBND Nhà đầu tư và cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư có quyền và nghĩa vụ pháp lý được nhà nước đảm bảo thực hiện, đó là cách xử sự của các bên tham gia quan hệ pháp luật về đăng ký đầu tư là do pháp luật về đăng ký đầu tư quy định và đảm bảo thực hiện. Khi quan hệ pháp luật về đầu tư xuất hiện trên thực tế cuộc sống, các bên tham gia có các quyền và nghĩa vụ pháp lý đã được pháp luật về đầu tư xác định trước. Để tham gia vào quan hệ nhà đầu tư và các cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư phải có những điều kiện nhất định. Những điều kiện này được pháp luật quy định khác nhau đối với từng loại quan hệ xuất hiện trên thực tế trong quá trình thực hiện dự án đầu tư của các nhà đầu tư. - Hình thức của đăng ký đầu tư được tiến hành theo trình tự, thủ tục nhất định do pháp luật đầu tư quy định Nhà đầu tư và cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư phải tiến hành hoạt động đăng ký đầu tư theo thứ tự các bước thực hiện, cách thức thực hiện, những loại giấy tờ mà nhà đầu tư cần phải nộp và yêu cầu, điều kiện do pháp luật quy định để giải quyết việc đăng ký đầu tư của nhà đầu tư.Hoạt động này đòi hỏi các chủ thể trong quan hệ đăng ký đầu tư phải tuân thủ chặt chẽ các quy định của pháp luật đầu tư và pháp luật khác có liên quan. 10
  15. - Mục đích của đăng ký đầu tư Mục đích chủ yếu của việc quy định về đăng ký đầu tư là để đảm bảo sự quản lý nhà nước đối với các dự án đầu tư cũng như các hoạt động kinh doanh nói chung, tránh lãng phí, thất thoát và kém hiệu quả trong đầu tư.Đồng thời thông qua đó nhà nước thừa nhận tính hợp pháp của hoạt động đầu tư, từ đó có cơ sở pháp lý để bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của nhà đầu tư. Bản chất của việc đăng ký đầu tư là sự công nhận, thừa nhận của nhà nước đối với sự tồn tại nhà đầu tư. Do vậy, mục đích của nhà nước là hướng đến sự quản lý đối với các hoạt động kinh doanh của nhà đầu tư và đảm bảo cho hoạt động đó trên thực tiễn. Đồng thời, mục đích của nhà đầu tư là được hoạt động kinh doanh và được bảo vệ về quyền và lợi ích chính đáng của mình [47, Tr.58]. 1.1.3. Ý nghĩa về mặt quản lý và phát triển Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, công nghiệp hóa - hiện đại hóa phát triển ngày càng mạnh, các công trình dự án xây dựng ở khắp nơi, cùng với các dự án có quy mô vốn lớn của các nhà đầu tư nước ngoài Do đó, việc đăng ký dự án đầu tư có ý nghĩa hết sức to lớn, giúp chúng ta nắm bắt được tình hình phát triển của nền kinh tế thông qua các dự án đăng ký đầu tư của các chủ đầu tư, từ đó các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong lĩnh vực đầu tư nói riêng và lĩnh vực phát triển kinh tế nói chung sẽ đưa ra được các chiến lược phát triển kinh tế - đầu tư và các chính sách phù hợp đối với từng ngành nghề của lĩnh vực đầu tư góp phần đưa đất nước phát triển kinh tế ngày càng vững chắc trong xu hướng hội nhập kinh tế, quốc tế hiện nay. 1.1.3.1.Ý nghĩa về mặt quản lý Đầu tư và phát triển là hai yếu tố có mối quan hệ chặt chẽ, biện chứng với nhau. Quốc gia muốn phát triển thì đầu tư rất cần thiết bao gồm đầu tư trong nước và đầu tư ngoài nước, điều đó không có nghĩa là chỉ chú trọng đến đầu tư mà xem nhẹ các lợi ích khác. Hoạt động đầu tư bắt buộc phải được đặt dưới sự quản lý, kiểm soát của Nhà nước. Việc quản lý về đầu tư có thể thông qua cơ chế, chính sách và pháp luật hoặc thông qua hoạt động hiệu quả của cơ 11
  16. quan có thẩm quyền cũng như của cả hệ thống. Những yếu tố đó có thể đạt được mục đích thông quan việc xây dựng, ban hành và vận dụng hệ thống các quy định liên quan đến đầu tư nói chung và đăng ký đầu tư nói riêng. 1.1.3.2.Ý nghĩa về mặt phát triển Đất nước ta đang trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu sắc và toàn diện trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, đăng ký đầu tư ngày càng có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế quốc gia phát triển. Các quy định về lĩnh vực đầu tư góp phần tạo môi trường đầu tư thông thoáng, minh bạch để thu hút đầu tư trong nước và nước ngoài. Từ đó: - Thúc đẩy sản xuất trong nước, đẩy nhanh tốc độ phát triển đất nước ; - Huy động, bổ sung nguồn vốn quan trọng cho tăng trưởng kinh tế, góp phần tích cực vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước; - Góp phần giải quyết việc làm cho người lao động, nâng cao thu nhập và mức sống cho người lao động, tham gia phát triển nguồn lực trong nước; - Làm hấp dẫn và tăng thêm sự tin tưởng của các nhà đầu tư, thu hút vốn đầu tư nước ngoài; - Mở rộng hợp tác đầu tư với nước ngoài theo hướng đa phương hóa, đa dạng hóa thúc đẩy nhanh tiến trình hội nhập của Việt Nam vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Chính các quy định về đăng ký đầu tư có vai trò và ý nghĩa quan trọng, tác động có hiệu quả đến đầu tư phát triển, các mục tiêu kinh tế quốc gia, qua đó các nhà đầu tư yên tâm và tự tin khi quyết định bỏ vốn sản xuất kinh danh. Thu hút vốn đầu tư nước ngoài trên thế giới và khu vực diễn ra hết sức gay gắt, các quốc gia đang từng bước cải cách mạnh mẽ môi trường đầu tư kinh doanh theo hướng tự do hóa đầu tư, thương mại. Hệ thống phát luật về đầu tư được coi là có tính cạnh tranh cao cần có chính sách đột phá tương đối so với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới, chính các quy 12
  17. định về đăng ký đầu tư là phương tiện cải thiện, nâng cao chỉ số năng lực cạnh tranh quốc gia. Vì vậy, các quy định về đăng ký đầu tư là những quy định không thể thiếu được trong hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia. Những hoạt động đầu tư từ khi có ý tưởng cho đến lúc triển khai trên thực tế sẽ không thực hiện được nếu không có các quy định này, các nhà đầu tư sẽ lúng túng khi bắt đầu thực hiện hoạt động đầu tư và vận dụng thế nào để đạt được mục đích đầu tư kinh doanh.Do đó, pháp luật về đăng ký đầu tư của mỗi quốc gia đề cần phải tiếp tục được chú trọng, có sự điều chỉnh nhằm hoàn thiện hơn, hiệu quả hơn để góp phần đạt được các mục tiêu kinh tế - xã hội. 1.2. Khái quát các quy định của pháp luật về đăng ký đầu tư trước Luật đầu tư năm 2014 1.2.1. Giai đoạn từ năm 1977 đến năm 2005 Đây là giai đoạn đầu hình thành các văn bản quy định về hoạt động đầu tư, đặc biệt chú trọng điều chỉnh các quan hệ xã hội trong lĩnh vực đầu tư của nước ngoài tại Việt Nam. Ở thời kỳ này chúng ta còn có sự phân biệt và quy định trong các văn bản khác nhau về đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Ngày 18 tháng 4 năm 1977, Hội đồng Chính phủ banhành “Điều lệ về đầu tư của nước ngoài ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Nội dung của văn bản quy định những nguyên tắc hợp tác đầu tư, bước đầu đã được giải thích khái niệm “ đầu tư nước ngoài”, những quy định về tỷ lệ vốn của phía nước ngoài trong các liên doanh Nhưng nhìn chung thủ tục đầu tư cũng chưa được cụ thể.Quy trình thẩm định và nội dung đầu mục hồ sơ chưa được đề cập tới. Tuy nhiên, văn bản cũng đã quy định được đầu mối nhận hồ sơ và cấp Giấy phép đầu tư là Bộ ngoại thương (nay là Bộ Công thương) [27, Điều 17, Điều 19], đã quy định thời hạn xem xét thẩm định hồ sơ là 03 tháng và sau khi nhận được Giấy phép đầu tư [27, Điều 18] nhà đầu tư phải đăng ký đầu tư tại Bộ Ngoại thương để quản lý chung về hoạt động kinh doanh và đăng ký với Bộ Tài chính để quản lý các vấn đề về thuế, tài chính [27, Điều 20]. 13
  18. Xuất phát từ những yêu cầu khách quan của sự vận động xã hội, tại kỳ hợp thứ 2 Quốc hội khóa 8 ngày 31/12/1987 đã thông qua LĐT nước ngoài tại Việt Nam (sau đây gọi là LĐT nước ngoài năm 1987). Luật đã quy định rõ về quy trình thẩm định cấp Giấy phép đầu tư và giới hạn thời hạn tối đa là 03 tháng cơ quan cấp giấy phép đầu tư phải trả lời nhà đầu tư về việc cấp Giấy phép đầu tư [29, Điều 38]. Ngoài ra, quy định về nội dung hồ sơ của từng loại hình thức đầu tư, về đơn, điều lệ, hợp đồng, chứng giải kinh tế kỹ thuật và những tài liệu liên quan khác trong quá trình làm thủ tục đầu tư được quy định rất rõ ràng, cụ thể [29, Điều 37]. LĐT nước ngoài năm 1987 đã góp phần thúc đẩy các hoạt động đầu tư của nước ngoài phát triển đáng kể. Tuy nhiên trong quá trình áp dụng đã nảy sinh một số bất cập cần được điều chỉnh. Chính vì vậy, luật này đã được sửa đổi, bổ sung vào các năm 1990 và 1992. Nội dung sửa đổi, bổ sung về cơ bản không đề cập đến thủ tục đầu tư. Thời điểm năm 1996, khi đất nước bước vào giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập vào kinh tế khu vực và thế giới, Quốc hội khóa 9 tại kỳ họp thứ 10 ngày 12/11/1996 đã thông qua LĐT nước ngoài mới, bước đầu đã tạo cơ sở pháp lý cao hơn cho việc đơn giản hóa thủ tục đầu tư và tăng cường pháp chế trong đầu tư, như: - Thời hạn cấp giấy phép đầu tư và các loại giấy phép khác theo tinh thần rút ngắn thời gian và đơn giản hóa thủ tục, cụ thể trước đây là 90 ngày nay rút xuống còn 60 ngày phải trả lời việc cấp phép đầu tư [30, Điều 60]; thời gian để các Bộ và các địa phương giải quyết các thủ tục liên quan đến việc triển khai dự án trong vòng 30 ngày[30, Điều 62] - Quyền khiếu nại, khởi kiện đối với việc giải quyết chậm chễ các thủ tục, gây phiên hà của cơ quan Nhà nước, tổ chức và công chức, viên chức nhà nước[30, Điều 64] của nhà đầu tư nước ngoài. Đồng thời, quy định về biện pháp chế tài đối với nhà đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước 14
  19. ngoài, các bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh, tổ chức, cá nhân, công chức, viên chức, cơ quan nhà nước vi phạm các quy định của pháp luật về đầu tư nước ngoài [30,Điều 63]. Trong khi đó Luật Khuyến khích đầu tư trong nước ban hành năm 1994, được sửa đổi bổ sung năm 1998 chưa có mục riêng quy định về thủ tục đầu tư hay thủ tục đăng ký đầu tư. 1.2.2. Giai đoạn từ năm 2005 đến trước năm 2014 Năm 2005, Quốc hội đã ban hành LĐT và có hiệu lực từ 1/7/2006, LĐT năm2005 thay thế LĐT nước ngoài và Luật Khuyến khích đầu tư trong nước. Tiếp đó, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 108/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006 quy định chi tiết và hướng dẫn một số điều của LĐT (Nghị định 108). LĐT năm 2005 đã góp phần cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, môi trường pháp lý, tạo sự thống nhất trong hệ thống pháp luật về đầu tư, tạo “ một sân chơi” bình đẳng, không phân biệt đối xử giữa các nhà đầu tư; đơn giản hóa thủ tục đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi để thu hút và sử dụng hiệu quả các nguồn vốn đầu tư; đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế, tăng cường sự quản lý của nhà nước đối với hoạt động đầu tư. Đặc biệt LĐT năm 2005 đã quy định chi tiết về việc phân loại các dự án đầu tư và tương ứng với đó là những thủ tục đăng ký đầu tư cụ thể trong từng trường hợp.Cụ thể: - Thủ tục đăng ký đầu tư đối với dự án đầu tư trong nước [32, Điều 45]; - Thủ tục đăng ký đầu tư đối với dự án có vốn đầu tư nước ngoài [32, Điều 46]; - Thẩm tra dự án đầu tư [32, Điều 47]; - Thủ tục thẩm tra đối với dự án có quy mô vốn đầu tư từ ba trăm tỷ đồng Việt Nam trở lên và không thuộc Danh mục lĩnh vực đầu tư có điều kiện [32, Điều 48]; - Thủ tục thẩm tra đối với dự án thuộc Danh mục lĩnh vực đầu tư có điều kiện [32, Điều 49]; 15
  20. - Thủ tục đầu tư gắn với thành lập tổ chức kinh tế [32, Điều 50]; Như vậy, chế định pháp luật về đăng ký đầu tư đã được hình thành phát triển và hoàn thiện qua từng giai đoạn lịch sử của đất nước, từng bước đáp ứng những yêu cầu cấp bách của công cuộc đổi mới, phát triển kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ. Cho đến nay những quy định về lĩnh vực này cơ bản đã góp phần thúc đẩy hoạt động đầu tư ngày một sôi động hơn nhờ cơ chế điều chỉnh khá rõ ràng, minh bạch và đơn giản hóa những vấn đề đảm bảo được sự kiểm soát chặt chẽ của các cơ quan Nhà nước. 1.3. Nội dung của pháp luật về đăng ký đầu tư theo Luật Đầu tư năm 2014 Sau 9 năm triển khai thi hành, LĐT năm2005 đã bộc lộ rất nhiều hạn chế, đặc biệt ở khâu xin và cấp phép đầu tư.Chính phủ đã chỉ đạo ráo riết và thu được một số kết quả nhất định trong việc cải thiện môi trường đầu tư, nhất là cải cách thủ tục hành chính, nhưng so với nhiều nước ASEAN, thì hệ thống luật pháp và thủ tục hành chính của nước ta vẫn chưa đáp ứng được kỳ vọng của các nhà đầu tư lớn . Trong bối cảnh đó, LĐT năm 2014 được Quốc hội Khóa XIII, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 26/11/2014, chính thức có hiệu lực kể từ ngày 1/7/2015. Luật bao gồm 7 Chương, 76 Điều như sau: - Chương I: Những quy định chung (từ Điều 1 đến Điều 8); - Chương II: Bảo đảm đầu tư (từ Điều 9 đến Điều 14); - Chương III: Ưu đãi và hỗ trợ đầu tư (từ Điều 15 đến Điều 21); - Chương IV: Hoạt động đầu tư tại Việt Nam (từ Điều 22 đến Điều 50); - Chương V: Hoạt động đầu tư ra nước ngoài (từ Điều 51 đến Điều 66); - Chương VI: Quản lý nhà nước về đầu tư (từ Điều 67 đến Điều 72); - Chương VII: Tổ chức thực hiện (từ Điều 73 đến Điều 76). Chếđịnh về đăng ký đầu tư được quy định rải rác từ Điều 1 đến Điều 50 của LĐT năm 2014. Với yêu cầu cần đáp ứng là phải xử lý toàn bộ các khiếm khuyết còn tồn động về pháp luật về đăng ký đầu tư hiện hành, cải tiến thủ tục 16