Luận văn Đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần ở Việt Nam

pdf 85 trang vuhoa 25/08/2022 7440
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_dai_dien_theo_phap_luat_cua_cong_ty_co_phan_o_viet.pdf

Nội dung text: Luận văn Đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần ở Việt Nam

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT VŨ THỊ BÍCH THÙY ĐẠI DIỆN THEO PHÁP LUẬT CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN Ở VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2014
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT VŨ THỊ BÍCH THÙY ĐẠI DIỆN THEO PHÁP LUẬT CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN Ở VIỆT NAM Chuyên ngành: Luật Kinh tế Mã số : 60 38 01 07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Hoàng Anh Tuấn HÀ NỘI - 2014
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tác giả Vũ Thị Bích Thùy
  4. MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1 Chƣơng 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ ĐẠI DIỆN CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN 9 1.1. Khái quát những lý luận cơ bản về pháp nhân 9 1.1.1. Khái niệm pháp nhân 9 1.1.2. Cơ sở triết học về vấn đề đại diện của pháp nhân . 12 1.1.3. Căn cứ xác lập tư cách đại diện của pháp nhân theo pháp luật Việt Nam . . 13 1.1.4. Phạm vi thẩm quyền của đại diện theo pháp luật của pháp nhân 16 1.2. Đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần ở Việt Nam 18 1.3. Đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần tại một số quốc gia 22 1.3.1. Pháp luật của Thái Lan 22 1.3.2. Pháp luật của Pháp 23 1.3.3. Pháp luật của Nhật Bản . 25 KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 28 Chƣơng 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ ĐẠI DIỆN THEO PHÁP LUẬT CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN Ở VIỆT NAM . 29 2.1. Thực trạng pháp luật Việt Nam về đại diện theo pháp luật của 29 công ty cổ phần 2.1.1. Các quy định về điều kiện, tiêu chuẩn 29 2.1.2. Quy định về chức danh . 32 2.1.3. Quy định về phạm vi thẩm quyền 34 2.1.4. Quy định về trách nhiệm của đại diện theo pháp luật 40 2.1.5. Các quy định về xác lập và thay đổi đại diện theo pháp 42 luật 2.2. Thực trạng áp dụng pháp luật về đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần 46 2.2.1. Thực trạng áp dụng quy định về xác lập, thay đổi đại diện 46
  5. theo pháp luật 2.2.2. Thực trạng áp dụng quy định về thẩm quyền của đại diện theo pháp luật 49 2.2.3. Thực trạng áp dụng quy định về đại diện công ty tham gia góp vốn vào doanh nghiệp khác . 51 2.2.4. Thực trạng áp dụng quy định về ủy quyền của đại diện theo pháp luật 52 2.3. Những nguyên nhân dẫn đến bất cập về vấn đề đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần . 56 KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 60 Chƣơng 3. HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ ĐẠI DIỆN CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN Ở VIỆT NAM . 61 3.1. Những cơ sở định hướng hoàn thiện . 61 3.1.1. Đòi hỏi của sự phát triển kinh tế - xã hội hiện nay 61 3.1.2. Những yêu cầu đặt ra cho quá trình hội nhập kinh tế hiện 62 nay 3.1.3. Đòi hỏi của sự thực hiện đường lối của Đảng 63 3.1.4. Đòi hỏi sự hoàn thiện chế định đại diện 64 3.2. Các giải pháp hoàn thiện . 65 3.2.1. Giải pháp sửa đổi, bổ sung các quy định liên quan 65 3.2.2. Giải pháp thi hành và áp dụng pháp luật . 72 KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 . 74 KẾT LUẬN 75 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 76
  6. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nền kinh tế của Việt Nam hiện nay đang trên con đường phát triển và hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới. Các nhà hoạch định chính sách đang dần gỡ bỏ các rào cản của quy định pháp luật, thủ tục hành chính, thuế quan nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất để thu hút cho các nhà đầu tư nước ngoài phát triển kinh tế. Trước những làn sóng đầu tư mạnh mẽ của các nhà đầu tư nước ngoài như hiện nay, thì các doanh nghiệp trong nước mà chủ yếu là doanh nghiệp vừa và nhỏ đang phải đối mặt với sự cạnh tranh mang tính sống còn với các tập đoàn đa quốc gia trên thế giới, nhất là khi Việt Nam đang là thành viên của tổ chức thương mại quốc tế WTO và tham gia Hiệp định đối tác Xuyên Thái Bình Dương TPP. Nhiệm vụ đặt ra là nâng cao hiệu quả của quản lý nhà nước và hoàn thiện hệ thống pháp luật sẽ là một điều kiện then chốt, một đòi hỏi bắt buộc để phát triển nền kinh tế hiện nay. Trong hệ thống các chủ thể quan hệ pháp luật, ngoài thể nhân – con người cụ thể còn có các thực thể pháp lý khác có tư cách chủ thể giống như con người được gọi là pháp nhân. Các pháp nhân tham gia tích cực và là chủ thể chủ yếu trong các hoạt động kinh tế, hoạt động quản lý của nhà nước trên cơ sở nhà nước tôn trọng quyền tự do ý chí, tự do lập hội của công dân. Công ty cổ phần là một loại hình pháp nhân, với những ưu điểm vượt trội về địa vị pháp lý, mô hình tổ chức, chế độ vốn góp nên đã được nhiều nhà đầu tư ưu tiên lựa chọn. Luật doanh nghiệp năm 2005 ra đời thay thế Luật doanh nghiệp năm 1999 đã góp phần hoàn thiện khung pháp lý các mô hình tổ chức và hoạt động của công ty cổ phần và đồng thời, tiếp cận và tuân thủ các nguyên tắc quản trị 1
  7. công ty đang được áp dụng trên thế giới đã phần nào đáp ứng được nhu cầu đòi hỏi của nền kinh tế. Tuy nhiên, bên cạnh đó, còn tồn tại những chế định chưa được quy định rõ ràng, thiếu nhất quán, mà nổi cộm nhất có lẽ là quy định về người đại diện theo pháp luật. Từ những tồn tại của pháp luật dẫn đến hệ quả là việc áp dụng pháp luật không đúng, không thống nhất, đồng thời gây khó khăn cho chính các cơ quan nhà nước và ảnh hưởng đến quyền tự do kinh doanh. Các vấn đề pháp lý liên quan đến người đại diện theo pháp luật trong các loại hình công ty nói chung, trong công ty cổ phần nói riêng hiện nay đang nảy sinh những bất cập, mâu thuẫn, chồng chéo giữa luật chung và luật chuyên ngành. Như các vấn đề xác lập, thay đổi, chấm dứt tư cách người đại diện theo pháp luật, phạm vi đại diện, sự phân định trách nhiệm của người đại diện và của công ty đối với bên thứ ba, vấn đề đại diện đương nhiên, đại diện ủy quyền. Trong khi giới khoa học pháp lý vẫn còn đặt ra các câu hỏi tranh luận trên nhiều diễn đàn về các vấn đề dường như cơ bản của chế định đại diện, thế nhưng các nhà làm luật chưa có sự quan tâm thoả đáng và đặc biệt là thực tiễn áp dụng pháp luật chưa có sự thống nhất, tuỳ thuộc theo nhận thức của những người, cơ quan áp dụng pháp luật theo một cách khác nhau, ảnh hưởng đến các quyền lợi hợp pháp của công dân. Với mục đích tiếp cận chế định về người đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần trên cơ sở nền tảng lý luận và hoạt động áp dụng trong thực tiễn đời sống để nêu ra những bất cập, tồn tại làm cơ sở cho các định hướng hoàn thiện chế định quan trọng của pháp luật doanh nghiệp ở nước ta hiện nay. Vì vậy, tác giả đã lựa chọn đề tài: “Đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần ở Việt Nam” làm đề tài luận văn tốt nghiệp cao học của mình với mong muốn góp phần nhỏ bé vào hoàn thiện pháp luật doanh nghiệp ở nước ta. 2
  8. 2. Tình hình nghiên cứu Khi nghiên cứu các vấn đề về pháp nhân, các công trình nghiên cứu đã đưa ra các học thuyết, tư tưởng ngay từ khi nước ta còn là thuộc địa của thực dân Pháp, mô hình pháp nhân đã được các thương gia người Pháp du nhập, và áp dụng trong hoạt động của mình tại các thuộc địa. Tiêu biểu là các tác giả như: Vũ Văn Mẫu (1957), Dân luật khái luận, Bộ quốc gia giáo dục xuất bản; Lê Tài Triển (1959), Luật Thương mại toát yếu, Bộ quốc gia giáo dục xuất bản. Các nghiên cứu đã đưa ra các học thuyết pháp nhân, tìm ra các đặc tính thuộc về bản chất của pháp nhân. Gần đây, có các bài nghiên cứu, TS Ngô Huy Cương (2001), Pháp nhân, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, số 01, năm 2001; Nguyễn Ngọc Bích- Nguyễn Đình Cung (2008), Công ty: vốn, quản lý và tranh chấp, NXB Trí Thức 2008; Lê Việt Anh (2008), Tư cách pháp nhân của công ty hợp danh, Tạp chí nghiên cứu lập pháp số 113, tháng 1/2008; TS Phạm Hồng Hải (1999), Pháp nhân có thể là chủ thể của tội phạm hay không?, tạp chí Luật học số 6 năm 1999; GS.TS Hồ Trọng Ngũ (2009), vấn đề tội phạm có tổ chức và trách nhiệm hình sự pháp nhân trong sửa đổi Bộ luật hình sự năm 1999, tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 143 ngày tháng 03/2009. Các công trình nghiên cứu này, đã phần nào làm rõ những vấn đề cơ bản của pháp nhân, và những bất cập trong các quy định liên quan đến pháp nhân và các mô hình công ty của bộ luật dân sự và luật doanh nghiệp, so sánh các quy định của các nước và những định hướng hoàn thiện. Các nghiên cứu về mô hình công ty cổ phần và chế định đại diện của công ty cổ phần đã góp phần làm rõ những vấn đề pháp lý cơ bản, cơ cấu tổ chức nội bộ và vấn đề liên quan đến người đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần. Có thể kể đến các công trình như: Tác giả Ngô Viễn Phú trong luận án tiến sĩ của mình với đề tài “So sánh quản lý công ty cổ phần theo pháp luật Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt 3
  9. Nam và Cộng hòa nhân dân Trung Hoa” đề cập đến người đại diện theo pháp luật công ty và đưa ra quan điểm ai nên là người đại diện theo pháp luật trong công ty cổ phần. Tuy nhiên, tác giả vẫn chưa làm sáng tỏ các vấn đề thuộc về bản chất, những tồn tại trong pháp luật về chế định người đại diện theo pháp luật trong công ty mà chỉ đề cập vấn đề người đại diện theo pháp luật là rất quan trọng liên quan đến cán cân quyền lực trong công ty cổ phần. Bên cạnh đó, đáng chú ý là luận văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Văn Thắng “Người đại diện theo pháp luật trong Luật doanh nghiệp 2005”. Với đề tài này, tác giả đã làm rõ khái niệm, thẩm quyền và vai trò của người đại diện theo pháp luật. Tuy nhiên, ở khía cạnh lý luận và thực tiễn, thì tác giả chưa đi nghiên cứu sâu sắc một cách thỏa đáng. Ngoài ra, gần đây xuất hiện một loạt bài báo viết về vấn đề đại diện theo pháp luật của công ty. Tiêu biểu là các tác giả: Bùi Xuân Hải,"Học thuyết về đại diện và mấy vấn đề của pháp luật công ty Việt Nam ", Tạp chí Khoa học Pháp lý 2007, số 4 (41); TS. Ngô Huy Cương, Chế định đại diện theo quy định của pháp luật Việt Nam – nhìn từ góc độ luật so sánh, Tạp chí nhà nước và pháp luật số 4/2009; Bài viết “Bình luận chế định pháp nhân và đại diện pháp nhân trong Bộ luật dân sự năm 2005” của Luật sư Trương Thanh Đức; Lê Văn Thiệp, Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về đại diện theo pháp luật, Tạp chí Kiểm sát, Số Tân Xuân, 2012. Các công trình nghiên cứu này, phần nào đã làm rõ những vấn đề cơ bản của chế định đại diện và những bất cập của bộ luật dân sự và luật doanh nghiệp trong các quy định về đại diện. Đồng thời các tác giả cũng đưa ra các phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về đại diện. Đến nay, chưa có một công trình nghiên cứu một cách cụ thể, sâu sắc, mang tính hệ thống liên quan đến các quy định của pháp luật về đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần. Các tác giả trong bài nghiên cứu của mình có đề cập đến vấn đề người đại diện theo pháp luật trong công ty nhưng chưa nêu 4
  10. lên được những bất cập trong thực tế khi xác lập, thay đổi tư cách của người đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần, thẩm quyền đại diện và xử lý các giao dịch vượt thẩm quyền của người đại diện theo pháp luật. Vì thế, tác giả luận văn này, mong muốn sẽ góp một phần nhỏ tìm ra những nguyên nhân của bất cập trong các quy định của pháp luật về người đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần và định hướng, đưa ra giải pháp toàn diện để hoàn thiện chế định này. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Công ty cổ phần, với tư cách là một pháp nhân, theo đó căn cứ xác lập và chấm dứt tư cách cũng như địa vị pháp lý của người đại diện theo pháp luật của Công ty cổ phần cũng được điều chỉnh bởi chế định pháp nhân. Luật doanh nghiệp hiện hành chỉ đơn giản quy định một trong số ba chức danh quản lý là đại diện theo pháp luật, đó là chủ tịch hội đồng quản trị, giám đốc hoặc tổng gám đốc. Bởi vậy, tác giả xác định đối tượng nghiên cứu mang tính hạt nhân là đại diện theo pháp luật của pháp nhân, từ đó nghiên cứu sâu về đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần. Với đối tượng nghiên cứu đã định, tác giả giới hạn phạm vi nghiên cứu khái quát về pháp nhân là tổ chức kinh tế, lý giải cơ sở triết học về đại diện theo pháp luật của pháp nhân; xác định căn cứ xác lập và chấm dứt tư cách đại diện theo pháp luật, địa vị pháp lý của người đại diện theo pháp luật của pháp nhân; xác định căn cứ xác lập và chấm dứt tư cách đại diện theo pháp luật, địa vị pháp lý của người đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần; Trong luận văn, tác giả cũng đề cập đến vấn đề đại diện theo ủy quyền với mục đích làm rõ thêm thực trạng pháp luật Việt Nam về đại diện. 4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn và lý luận của nền luật học nước ta, dựa trên những chủ trương, đường lối và chính sách xây dựng nền kinh tế xã hội 5
  11. hội nhập kinh tế quốc tế một cách toàn diện, luận văn đặt mục đích đó là nghiên cứu những vấn đề lý luận về đại diện theo pháp luật của pháp nhân nói chung và công ty cổ phần nói riêng; nêu toàn diện thực trạng áp dụng pháp luật về đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần tại Việt Nam và từ đó đưa ra các định hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về vấn đề này. Mục đích của luận văn là nghiên cứu những vấn đề lý luận và quy định của pháp luật điều chỉnh về người đại diện theo pháp luật của pháp nhân và công ty cổ phần, nhằm: Làm rõ những vấn đề lý luận về người đại diện theo pháp luật của pháp nhân, từ đó đi sâu nghiên cứu các vấn đề về pháp luật và thực trạng pháp luật về đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần ở Việt Nam hiện nay; Đưa ra các cơ sở định hướng hoàn thiện các quy định của pháp luật về đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần. Từ những mục đích trên, tác giả đưa ra các nhiệm vụ của luận văn như sau: - Làm rõ cơ sở triết học hình thành đại diện theo pháp luật của pháp nhân; - Xây dựng khái niệm đại diện theo pháp luật của pháp nhân, người đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần. - Xác định căn cứ xác lập và chấm dứt tư cách đại diện theo pháp luật, địa vị pháp lý của người đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần; - Phân tích làm rõ khiếm khuyết của pháp luật hiện hành và áp dụng pháp luật hiện hành về việc xác định tư cách người đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần, qua đó kiến nghị giải pháp hoàn thiện. 6
  12. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở lý luận khoa học và các phương pháp luận của triết học Mác – Lênin; lý luận chung về nhà nước – pháp luật; các quan điểm của Đảng và tư tưởng của chủ tịch Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật. Các phương pháp này kết hợp với nhau để giải quyết các vấn đề của đề tài. Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong luận văn chủ yếu sử dụng: phân tích tài liệu, tổng hợp và phân tích thực tiễn chứng minh cho lý luận, bên cạnh đó, luận văn còn sử dụng phương pháp của luật so sánh. Và các phương pháp nghiên cứu riêng biệt của khoa học pháp lý: phân tích quy phạm, phân tích hệ thống, so sánh pháp luật . 6. Những đóng góp của luận văn Những đóng góp của luận văn gồm có: Về mặt lý luận: - Luận văn đưa ra hệ thống các cơ sở lý luận về pháp nhân, những luận điểm cơ sở triết học của vấn đề đại diện theo pháp luật của pháp nhân. - Luận văn đưa ra và phân tích các căn cứ để xác lập, thay đổi, và chấm dứt với tư cách của người đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần theo pháp luật Việt Nam. - Luận văn cũng đề cập quy định về đại diện của công ty cổ phần của một số nước, từ đó so sánh với những quy định hiện hành ở Việt Nam. Về tính thực tiễn: Luận văn đã nêu và phân tích làm rõ những khiếm khuyết của pháp luật hiện hành và áp dụng pháp luật về việc xác định tư cách người đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần. Từ đó, nhận định những nguyên nhân của các thực trạng làm tiền đề cho các định hướng hoàn thiện. 7
  13. Về định hướng hoàn thiện: tác giả luận văn nêu lên cơ sở hình thành các định hướng và giải pháp mang tính toàn diện nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật về người đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm ba chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần Chương 2: Thực trạng pháp luật và áp dụng pháp luật về đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần ở Việt Nam Chương 3: Định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam về người đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần. 8
  14. Chƣơng 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ ĐẠI DIỆN THEO PHÁP LUẬT CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN 1.1. Khái quát những vấn đề lý luận cơ bản về pháp nhân 1.1.1. Khái niệm pháp nhân Khi nói về chủ thể của pháp luật, ngoài chủ thể là thể nhân – con người cụ thể hoặc chủ thể được coi như thể nhân còn có các thực thể pháp lý khác có tư cách chủ thể, đó chính là pháp nhân. Nhu cầu tạo ra thực thể pháp lý có tư cách chủ thể độc lập với thể nhân là một tất yếu đối với các hệ thống pháp luật nhằm đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế và của các nhà đầu tư. Bởi lẽ, các thực thể pháp lý đó có thể do một tổ chức, cá nhân hoặc nhiều tổ chức, cá nhân tạo lập, nhưng các hoạt động kinh doanh do các thực thể này thực hiện mang lại hiệu quả cao mà thể nhân đơn lẻ khó có thể thực hiện được. Khi nghiên cứu về pháp nhân, Giáo sư Jean Claude Ricci chỉ ra hai lợi ích cơ bản sau đây: - Thứ nhất, việc hình thành pháp nhân làm cho đời sống pháp luật được đơn giản hóa. Pháp nhân cho phép đơn giản hóa pháp luật. Chúng ta hãy đặt giả thiết là không có pháp nhân mà chỉ có các thể nhân. Khi đó, mỗi thể nhân thành viên đều sẽ phải tham gia vào việc ký kết các giao dịch pháp lý. Hậu quả sẽ rất phức tạp. - Thứ hai, việc hình thành pháp nhân làm cho đời sống pháp luật được ổn định lâu dài. Đây là một yếu tố hết sức quan trọng. Người ta thường hay nói rằng, pháp nhân không gặp phải những thay đổi bất ngờ như thể nhân. Thời gian tồn tại của một pháp nhân thường dài hơn cuộc sống của một con người. Và hoạt động của pháp nhân có thể kéo dài, thậm chí rất dài. Pháp nhân không bị ảnh hưởng bởi những biến cố xảy ra đối với thành viên của nó [57, tr.105-106]. 9
  15. Harold Arthur Jonh Ford trong công trình “Principles of Company Law” cũng nhấn mạnh rằng “Trong bất kỳ hệ thống pháp luật hoàn chỉnh nào cũng có nhu cầu tạo ra thực thể pháp lý, có thể thụ hưởng các quyền và chịu nghĩa vụ cơ bản giống như con người, thực thể đó được gọi là pháp nhân” [65]. Về đặc tính và bản chất pháp lý của pháp nhân, cho đến này người ta vẫn còn tranh luận, và luật pháp các quốc gia thường có sự khác biệt về tiêu chí xác định pháp nhân. Tuy nhiên, tư cách pháp nhân của từng loại hình công ty thường được pháp luật công ty xác định một cách trực tiếp mà không cần phải có một thủ tục công nhận riêng. Maurice cozian và Alain Viandier đã ví von pháp nhân như một cái vỏ ốc và công ty là con dã tràng sống trong đó. Ở Việt Nam, nếu tính từ năm 1975, thuật ngữ pháp nhân được nhắc đến lần đầu tiên trong Thông tư 525-HĐ ngày 23-6-1975 của Hội đồng trọng tài kinh tế nhà nước hướng dẫn việc thực hiện bản điều lệ về chế độ hợp đồng kinh tế quy định ban hành kèm theo Nghị định số 54-CP ngày 10-3-1975 của Hội đồng Chính phủ quy định quy cách pháp nhân của các bên ký kết hợp đồng kinh tế: Các đơn vị, tổ chức, cơ quan tham gia giao kết hợp đồng kinh tế. Đó là những đơn vị có đủ tư cách pháp nhân được nhà nước thành lập hoặc thừa nhận, có tài sản riêng và có trách nhiệm độc lập về tài sản đó, có tài khoản tại ngân hàng. các tổ chức xã hội có đủ tư cách pháp nhân phải là những tổ chức được nhà nước công nhận và cũng có tài khoản ở ngân hàng [27]. Năm 1990, Nghị định 17-HĐBT ngày 16/1/1990 của Hội đồng Bộ trưởng quy định chi tiết pháp lệnh hợp đồng kinh tế quy định: Pháp nhân là một tổ chức có đủ điều kiện sau đây: 1. Được thành lập một cách hợp pháp; 2. Có tài sản riêng và chịu trách 10
  16. nhiệm một cách độc lập bằng các tài sản đó; 3. Có quyền quyết định một cách độc lập về các hoạt động sản xuất kinh doanh của mình; 4. Có quyền tự mình tham gia các quan hệ pháp luật [28]. Các điều kiện này đang được quy định trong bộ luật dân sự hiện hành. Trong Luật công ty của Úc, tại điều 57A đưa ra định nghĩa pháp nhân theo kiểu liệt kê các chủ thể được gọi là pháp nhân “Pháp nhân bao gồm công ty, công ty sở hữu chủ ”; Tại mục 1.40.9 Luật mẫu về công ty kinh doanh của Mỹ cũng đưa ra cách định nghĩa tương tự nhưng có bổ sung một số tổ chức như Bang, Liên Bang và Chính phủ nước ngoài là pháp nhân. Hiệp định khung về khu vực đầu tư ASEAN quy định: Pháp nhân có nghĩa là bất kỳ thực thể pháp lý nào được thành lập hoặc tổ chức một cách hợp pháp theo luật hiện hành, vì lợi nhuận hoặc không vì lợi nhuận, thuộc sở hữu tư nhân hay sở hữu nhà nước, bao gồm mọi công ty, tập đoàn, liên danh, liên doanh, công ty một chủ hoặc hiệp hội [2, Điều 1]. Theo Hiệp định thương mại giữa Chính phủ nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ về thương mại: Pháp nhân là một thực thể pháp lý bất kỳ được thiết lập hay tổ chức một cách hợp pháp theo luật áp dụng, bất kể vì mục đích lợi nhuận hay phi lợi nhuận, và dưới hình thức sở hữu tư nhân hay Nhà nước, bao gồm mọi công ty, công ty tín thác, công ty hợp danh, liên doanh, doanh nghiệp một chủ hay hiệp hội [12, chương 3 điều 11]. Như vậy, pháp nhân là một khái niệm để chỉ một loại chủ thể pháp luật độc lập, dùng để phân biệt với chủ thể là con người. Pháp nhân được tạo lập bởi ý chí của một hoặc nhiều con người cụ thể. 11
  17. 1.1.2. Cơ sở triết học về vấn đề đại diện của pháp nhân Như chúng ta đã biết, triết học và phương pháp luận khoa học đã hỗ trợ các khoa học khác giải quyết những vấn đề của chúng. Qua đó, triết học thúc đẩy tiến bộ khoa học trong đó có khoa học pháp lý phát triển. Trong triết học con người là trung tâm, do vậy, tự do của con người là hạt nhân, tạo ra nguồn cảm hứng chủ yếu cho những phát minh. Triết học xã hội tham gia vào việc giải quyết những vấn đề chính trị, kinh tế xã hội đóng góp đáng kể vào mọi thành tựu của loài người. Pháp luật dân sự là một trong những thành tựu đáng được nhắc đến, nó ghi nhận nguyên tắc tự do ý chí. Vũ Văn Mẫu cho rằng, “về phương diện triết học, các lý thuyết tự do sở dĩ coi ý chí là căn bản của các nghĩa vụ, là vì tin tưởng rằng khi các cá nhân được tự do thương thuyết không vướng mắc một trở ngại nào thị sự quyết định của họ phản chiếu sự công bằng” [32, tr. 84]. Về phương diện triết học, pháp nhân được hình thành trên cơ sở nguyên tắc tự do ý chí. Với tư cách là một chủ thể độc lập, pháp nhân được thụ hưởng các quyền và gánh vác các nghĩa vụ. Tuy nhiên, nó có thể thực hiện các quyền năng bằng cách nào khi nó là một thực thể pháp lý. Đây là vấn đề mấu chốt luận giải về người đại diện theo pháp luật của pháp nhân. Từ giữa thế kỷ 19, các án lệ của các nước theo truyền thống thông luật đã khẳng định rằng, công ty chỉ có thể hành động thông qua các giám đốc– tức những người quản lý công ty và hành động của cá nhân cổ đông sẽ không ảnh hưởng gì, không ràng buộc trách nhiệm của pháp nhân công ty – với tư cách là một thực thể pháp lý độc lập [24]. Pháp nhân, dù được nhân cách hóa, không phải là con người cụ thể và do đó, không thể tự mình xử sự Suy cho cùng, pháp nhân luôn phải được đại diện bởi con người cụ thể, từ khi thành lập cho 12
  18. đến khi chấm dứt, trong tất cả các hoạt động của mình. Năng lực hành vi của pháp nhân thực ra là năng lực hành vi mà pháp nhân vay mượn của những con người mà pháp nhân hóa thân vào [21, tr. 246]. Trên cơ sở nguyên tắc tự do ý chí, con người luôn đòi hỏi xã hội đáp ứng những nhu cầu của mình về tự do lập hội và tự do kinh doanh đảm bảo quyền con người. Vì thế, xuất pháp từ bản chất pháp lý của việc hình thành pháp nhân là quan hệ hợp đồng giữa các thành viên sáng lập nhằm tạo ra một thực thể cụ thể để đáp ứng hoạt động kinh doanh nhằm mục tiêu chung mà các sáng lập viên xác định khi giao kết hợp đồng. Sự ra đời của pháp nhân trên cơ sở học thuyết tự do ý chí và tự do lập hội dựa trên nền tảng của tự do cá nhân, không ai có thể bị ép buộc làm hay không làm một việc gì đó ngoài ý muốn của họ. Các cá nhân tự do lựa chọn mô hình pháp nhân để thực hiện các hoạt động kinh doanh của mình, và tự do lựa chọn người đại diện theo pháp luật, trên cơ sở sự ủy thác của các chủ sở hữu pháp nhân thực hiện quyền và nghĩa vụ của người quản lý pháp nhân trong hoạt động nội bộ, các hoạt động kinh doanh. Người đại diện theo pháp luật chịu sự điều chỉnh của quy định của pháp luật và các quy chế của pháp nhân, trong quá trình thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình. Như vậy, pháp nhân với tư cách là một thực thể pháp lý, được tạo nên bởi ý chí của một hoặc nhiều người cụ thể và chỉ có thể thực hiện các quyền và nghĩa vụ thông qua con người cụ thể. 1.1.3. Căn cứ xác lập tư cách đại diện của pháp nhân theo pháp luật Việt Nam Có nhiều quan điểm cho rằng, quyết định thành lập hoặc giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh (chứng nhận đăng ký doanh nghiệp) là căn cứ xác lập tư cách người đại diện pháp luật của pháp nhân. Nếu chỉ xem xét từ thực tiễn áp dụng thì quan điểm này có phần đúng. Bởi lẽ, một trong những nội 13
  19. dung của giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh là: “Họ, tên, địa chỉ thường trú, quốc tịch, số giấy chứng minh nhân dân, hộ chiếu hoặc chứng thực cá nhân hợp pháp khác của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp” [42, Điều 25]. Quy định này có thể được hiểu là người có tên trong đăng ký kinh doanh mới là người đại diện theo pháp luật của pháp nhân. Thực tiễn xét xử các vụ án tranh chấp liên quan đến người đại diện theo pháp luật của pháp nhân hiện nay thì không có sự thống nhất, có thể nói khách quan hơn là tuỳ thuộc vào quyết định của toà án. Thực tế này có thể minh chứng như sau: Có nhiều vụ án, trong đó đương sự là pháp nhân mà người đại diện của pháp nhân đã bị bãi nhiệm, cách chức bằng quyết định của đại hội đồng cổ đông hoặc hội đồng quản trị theo quy định tại điều lệ. Tuy nhiên, pháp nhân đó chưa thực hiện việc thay đổi đăng ký kinh doanh tại cơ quan đăng ký kinh doanh thì có toà án vẫn xác định người đại diện theo pháp luật là người có tên trong giấy chứng nhân đăng ký kinh doanh. Thực tế này thường xảy ra đối với những vụ án tranh chấp nội bộ công ty "yêu cầu huỷ nghị quyết của đại hội đồng cổ đông" trong công ty cổ phần. Thế nhưng, đối với trường hợp đương sự là pháp nhân, do người đại diện theo pháp luật chết, mất năng lực hành vi, bị tạm giam thì toà án lại không sử dụng đăng ký kinh doanh làm căn cứ xác định tư cách người đại diện theo pháp luật. Ngoài ra, còn có trường hợp toà án áp dụng mang tính chủ quan khác. Cụ thể, đối với những vụ án có đương sự là công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, thì trong suốt một thời gian dài toà án xác định người đại diện theo quyết định bổ nhiệm chủ tịch hội đồng thành viên, trong khi đó người đại diện theo pháp luật có tên trong đăng ký kinh doanh không được chấp nhận vì đã bị chuyển công tác. Như vậy, thực tiễn xét xử thường không đưa ra căn cứ pháp lý để xác định người đại diện theo pháp luật của pháp nhân. Vậy, luật thực định quy định như thế nào về vấn đề này. 14
  20. Theo quy định tại Điều 91, 140 và 141 Bộ luật dân sự 2005: Đại diện theo pháp luật của pháp nhân được quy định trong điều lệ của pháp nhân hoặc trong quyết định thành lập pháp nhân. Đại diện theo pháp luật là đại diện do pháp luật quy định hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định. Người đại diện theo pháp luật bao gồm: Người đứng đầu pháp nhân theo quy định của điều lệ pháp nhân hoặc quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền [44]. Đối với người đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần được luật Doanh nghiệp, với tư cách là luật chuyên ngành quy định tại Điều 116, theo đó người đại diện theo pháp luật có thể là chủ tịch hội đồng quản trị hoặc giám đốc/tổng giám đốc và phải được ghi trong điều lệ của công ty. Tuy nhiên, bằng việc bỏ qua "Luật áp dụng luật" – Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật và với cơ chế thông thoáng thì vẫn còn những văn bản dưới luật quy định trái luật mà vẫn được áp dụng. Cụ thể, Quyết định số 1087/2001/QĐ-NHNN ngày 27/8/2001 của thống đốc ngân hàng nhà nước tại khoản 3, Điều 9 là: "Chủ tịch hội đồng quản trị là người đại diện theo pháp luật của ngân hàng thương mại cổ phần và được ghi trong điều lệ ngân hàng thương mại cổ phần". Như vậy, ở giác độ luật thực định thì nhà làm luật chỉ quy định một chức danh nào đó trong cơ cấu tổ chức quản lý của pháp nhân làm người đại diện theo pháp luật. Cách quy định này là một trong những biểu hiện việc bảo hộ quyền tự do kinh doanh, tôn trọng quyền tự định đoạt của thành viên pháp nhân. Cụ thể, với cách quy định của luật thực định, thành viên pháp nhân có toàn quyền quyết định bầu/bổ nhiệm một người cụ thể giữ chức danh mà pháp luật quy định là người đại diện theo quy định của pháp nhân. Thông thường, việc bầu được thể hiện bằng kết quả kiểm phiếu được xác định trong biên bản kiểm phiếu; việc bổ nhiệm được thể hiện bằng hình thức ban hành quyết định. 15
  21. Bằng việc làm rõ quy định của luật thực định, tác giả đi đến nhận định rằng, việc xác định người đại diện theo pháp luật của pháp nhân, trước hết phải căn cứ theo điều lệ của pháp nhân để biết người đại diện là người có chức danh nào trong bộ máy quản lý; sau đó căn cứ văn bản của đại hội đồng cổ đông hoặc hội đồng quản trị về việc bầu hoặc bổ nhiệm chức danh để xác định người đại diện theo pháp luật. Đăng ký kinh doanh không phải là căn cứ để xác định người đại diện theo pháp luật của pháp nhân. 1.1.4. Phạm vi thẩm quyền của đại diện theo pháp luật của pháp nhân Công ty với tư cách là một pháp nhân – một thực thể pháp lý độc lập, không phải là thể nhân, nên chỉ có thể thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình thông qua người đại diện trong các giao dịch để xác lập và thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình. Người đại diện thay mặt, nhân danh pháp nhân tham gia các quan hệ pháp luật, xác lập các giao dịch dân sự trong quá trình hoạt động của pháp nhân. Pháp nhân được hưởng các quyền và phải gánh vách các nghĩa vụ do người đại diện nhân danh mình xác lập với bên thứ ba. Tuy nhiên, người đại diện về nguyên tắc phải hành động trong phạm vi đại diện, là giới hạn quyền và nghĩa vụ trong việc nhân danh pháp nhân xác lập và thực hiện giao dịch với người thứ ba theo sự xác định của pháp luật hoặc của người được đại diện. Đại diện của pháp nhân có thể là đại diện theo pháp luật hoặc đại diện theo uỷ quyền. Chính vì thế, năng lực pháp luật của pháp nhân khi tham gia các quan hệ pháp luật thông qua năng lực của người đại diện. “Người đại diện theo pháp luật hoặc người đại diện theo uỷ quyền của pháp nhân nhân danh pháp nhân trong quan hệ dân sự” [44, điều 86]. Đại diện theo pháp luật của pháp nhân là việc người đại diện nhân danh pháp nhân tham gia xác lập, thực hiện hoặc chấm dứt các giao dịch với bên thứ ba vì lợi ích của pháp nhân được quy định trong điều lệ và pháp luật. 16