Luận văn Công bố thông tin của công ty đại chúng trên thị trường chứng khoán theo pháp luật Việt Nam
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Công bố thông tin của công ty đại chúng trên thị trường chứng khoán theo pháp luật Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_cong_bo_thong_tin_cua_cong_ty_dai_chung_tren_thi_tr.pdf
Nội dung text: Luận văn Công bố thông tin của công ty đại chúng trên thị trường chứng khoán theo pháp luật Việt Nam
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT o0o PHẠM THỊ HẰNG NGA C¤NG Bè TH¤NG TIN CñA C¤NG TY §¹I CHóNG TR£N THÞ TR¦êNG CHøNG KHO¸N THEO PH¸P LUËT VIÖT NAM Chuyên ngành: Luật Kinh tế Mã số: 60 38 01 07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. Hoàng Thị Quỳnh Chi Hà Nội – 2014
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! TÁC GIẢ LUẬN VĂN Phạm Thị Hằng Nga
- MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN MỤC LỤC DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT MỞ ĐẦU 1 Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÔNG BỐ THÔNG TIN CỦA CÔNG TY ĐẠI CHÚNG VÀ PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH HOẠT ĐỘNG CÔNG BỐ THÔNG TIN CỦA CÔNG TY ĐẠI CHÚNG TRÊN THỊ TRƢỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM 7 1.1. Công ty đại chúng và công bố thông tin của công ty đại chúng trên thị trường chứng khoán 7 1.1.1. Khái quát chung về công ty đại chúng 7 1.1.2. Khái quát chung về hoạt động công bố thông tin của công ty đại chúng trên thị trường chứng khoán 12 1.2. Khái quát chung về pháp luật điều chỉnh hoạt động công bố thông tin của công ty đại chúng trên thị trường chứng khoán Việt Nam 22 1.2.1. Khái niệm pháp luật điều chỉnh hoạt động công bố thông tin của công ty đại chúng trên thị trường chứng khoán 22 1.2.2. Nội dung pháp luật điều chỉnh hoạt động công bố thông tin của công ty đại chúng trên thị trường chứng khoán 25 1.2.3. Vai trò của pháp luật điều chỉnh hoạt động công bố thông tin của công ty đại chúng trên thị trường chứng khoán 35 1.2.4. Cơ sở pháp lý điều chỉnh hoạt động công bố thông tin của công ty đại chúng trên thị trường chứng khoán Việt Nam 37 KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 42 Chƣơng 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH HOẠT ĐỘNG CÔNG BỐ THÔNG TIN CỦA CÔNG TY ĐẠI CHÚNG TRÊN THỊ TRƢỜNG CHỨNG KHOÁN 43 2.1. Pháp luật điều chỉnh hoạt động công bố thông tin của công ty đại chúng trên thị trường chứng khoán Việt Nam 43 2.1.1. Công ty đại chúng và phân loại công ty đại chúng theo pháp luật chứng khoán chứng khoán Việt Nam 43
- 2.1.2. Nội dung các thông tin của công ty đại chúng phải công bố trên thị trường chứng khoán Việt Nam 43 2.1.3. Phương tiện và trình tự, thủ tục CBTT của công ty đại chúng 69 2.1.4. Xử lý hành vi vi phạm pháp luật về công bố thông tin của công ty đại chúng trên TTCK 70 2.2. Thực tiễn thực hiện quy định pháp luật về công bố thông tin của công ty đại chúng trên thị trường chứng khoán 73 2.2.1. Kết quả đạt được trong hoạt động công bố thông tin của công ty đại chúng trên thị trường chứng khoán 73 2.2.2. Những bất cập và tồn tại trong hoạt động công bố thông tin của công ty đại chúng trên thị trường chứng khoán 77 KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 89 Chƣơng 3: PHƢƠNG HƢỚNG, GIẢI PHÁP, KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH HOẠT ĐỘNG CÔNG BỐ THÔNG TIN CỦA CÔNG TY ĐẠI CHÚNG TRÊN THỊ TRƢỜNG CHỨNG KHOÁN 90 3.1. Phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hoạt động công bố thông tin của công ty đại chúng trên TTCK 90 3.1.1. Hoàn thiện pháp luật về công bố thông tin trước yêu cầu phát triển thị trường chứng khoán và hội nhập quốc tế 90 3.1.2. Hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hoạt động công bố thông tin của công ty đại chúng để khắc phục những vướng mắc, bất cập hiện hành 91 3.2. Các giải pháp, kiến nghị nâng cao hiệu quả hoạt động công bố thông tin của công ty đại chúng trên thị trường chứng khoán 97 3.2.1. Xây dựng bộ chỉ số minh bạch thông tin đối với công ty niêm yết 97 3.2.2. Hoàn thiện cơ chế công bố thông tin của công ty đại chúng 98 3.2.3. Hoàn thiện phương tiện công bố thông tin 100 3.2.4. Các giải pháp khác 101 KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 105 KẾT LUẬN 106 TÀI LIỆU THAM KHẢO 108
- DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT Từ viết tắt Ý nghĩa BCTC Báo cáo tài chính BCTN Báo cáo thường niên BKS Ban Kiểm soát CBTT Công bố thông tin CTCP Công ty cổ phần ĐHĐCĐ Đại hội đồng cổ đông HĐQT Hội đồng quản trị HNX Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội HOSE Sở Giao dịch Chứng khoán TP. Hồ Chí Minh UBCK Ủy ban Chứng khoán UBCKNN Ủy ban Chứng khoán Nhà nước SGDCK Sở Giao dịch Chứng khoán TTCK Thị trường chứng khoán TTLKCK (VSD) Trung tâm Lưu ký Chứng khoán
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài Thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam chính thức được vận hành vào tháng 7 năm 2000 với mục tiêu nhằm tái cấu trúc và nâng cao tính hiệu quả của thị trường tài chính. Ban đầu, TTCK chỉ có 2 doanh nghiệp niêm yết với 2 loại cổ phiếu (REE và SAM) với vốn hóa chỉ đạt 270 tỷ đồng. Tính đến tháng 6/2014, mức vốn hóa toàn thị trường đã đạt khoảng 1.100 nghìn tỷ đồng với 660 công ty niêm yết và đạt khoảng 1,3 triệu tài khoản của nhà đầu tư (trong đó có khoảng 15,6 nghìn tài khoản của nhà đầu tư nước ngoài). Có thể thấy, qua 14 năm vận hành, TTCK đã chứng tỏ vai trò là kênh huy động vốn trung và dài hạn quan trọng cho nền kinh tế, với những bước phát triển mạnh mẽ, thu hút sự quan tâm không chỉ của nhà đầu tư trong nước mà cả các nhà đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, nếu so sánh với TTCK các nước phát triển cũng như các nước trong khu vực, TTCK Việt Nam vẫn còn hạn chế về quy mô và tồn tại nhiều bất cập, đặc biệt về tính công khai, minh bạch. Nâng cao tính công khai, minh bạch thông tin được xem là mục tiêu trọng tâm trong phát triển TTCK giai đoạn hiện nay. Trên TTCK, thông tin được ví như mạch máu, nguồn năng lượng nuôi sống thị trường và là cơ sở để nhà đầu tư xác định chiến lược đầu tư cũng như quyết định mức độ thành công của việc đầu tư, do đó công khai, minh bạch thông tin được coi là một trong những nhân tố quan trọng nhất giúp TTCK phát triển cũng như bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư. Tại những TTCK mới nổi, trong đó có Việt Nam, tham gia thị trường chủ yếu là nhà đầu tư cá nhân và tâm lý đầu tư thường diễn ra theo số đông thì mức độ ảnh hưởng của thông tin càng lớn. Tuy nhiên, theo đánh giá của Hiệp hội các Uỷ ban chứng khoán (IOSCO), mức độ minh bạch thông tin của TTCK Việt Nam còn thấp và các doanh nghiệp vẫn chưa ý thức được tầm quan trọng của việc công bố thông tin (CBTT). Theo thống kê, chỉ có khoảng 5% các công ty niêm yết đảm bảo tốt việc CBTT cho nhà đầu tư 1
- [25]. Để chấn chỉnh hoạt động CBTT trên TTCK, khung pháp lý điều chỉnh hoạt động CBTT luôn được chú trọng hoàn thiện, trong đó quan trọng nhất phải kể đến Luật Chứng khoán số 60/QH11 được Quốc Hội khóa XI thông qua ngày 29 tháng 6 năm 2006 (sau đây gọi là Luật Chứng khoán năm 2006) và tiếp đó là Luật Chứng khoán số 62/2010/QH12 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật chứng khoán được thông qua ngày 24 tháng 11 năm 2010 (sau đây gọi là Luật sửa đổi, bổ sung Luật Chứng khoán) với những quy định nền tảng cơ bản về chế định công bố thông tin trên TTCK. Để cụ thể hóa những quy định tại Luật Chứng khoán, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 38/2007/TT-BTC ngày 18/7/2007, tiếp đó là Thông tư số 09/2010/TT-BTC ngày 15/01/2010 về việc hướng dẫn công bố thông tin trên TTCK (thay thế Thông tư số 38/2007/TT-BTC) và hiện tại, việc công bố thông tin trên TTCK được thực hiện theo Thông tư số 52/2012/TT-BTC ngày 5/4/2012 của Bộ Tài chính. Các quy định này là hành lang pháp lý quan trọng, đảm bảo tính công khai, minh bạch của TTCK, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao về thông tin cho nhà đầu tư tham gia thị trường. Theo quy định hiện hành, nhiều chủ thể tham gia TTCK có nghĩa vụ công khai thông tin như các Sở Giao dịch Chứng khoán (SGDCK), Trung tâm Lưu ký chứng khoán (TTLKCK), công ty đại chúng, các tổ chức kinh doanh chứng khoán, các quỹ đầu tư chứng khoán, cổ đông lớn, cổ đông nội bộ , song có thể thấy nguồn thông tin phong phú và đa dạng nhất là thông tin từ công ty đại chúng. Thông thường, các công ty đại chúng phải công bố các thông tin liên quan đến tình hình tài chính và hoạt động của doanh nghiệp, thông tin về quản trị công ty Các thông tin này biểu thị cho chất lượng “hàng hóa” trên TTCK. Nó là cơ sở để nhà đầu tư xây dựng cơ cấu danh mục đầu tư và qua đó giúp hình thành giá chứng khoán. Chế định pháp luật về công bố thông tin trên TTCK vì thế cũng đặc biệt chú trọng đến việc xác định nghĩa vụ CBTT của các công ty đại chúng. Tuy nhiên, qua nghiên cứu Thông tư số 52/2012/TT-BTC cho thấy mặc dù Thông tư này mới có hiệu lực từ ngày 01/6/2012 nhưng nhiều quy định 2
- điều chỉnh hoạt động CBTT của các công ty đại chúng đã bộc lộ nhiều bất cập, cần sửa đổi. Do đó, việc nghiên cứu đề tài “Công bố thông tin của công ty đại chúng trên thị trường chứng khoán theo pháp luật Việt Nam”, trong đó tập trung làm rõ các quy định hiện hành về công bố thông tin của công ty đại chúng trên TTCK Việt Nam, có so sánh sự khác biệt của quy định hiện hành (cụ thể là Thông tư 52/2012/TT-BTC) so với quy định tại Thông tư 09/2010/TT-BTC trước đây, đồng thời đánh giá mức tương thích giữa quy định pháp luật Việt Nam với pháp luật quốc tế và đưa ra những định hướng hoàn thiện là rất cần thiết. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Hiện nay, đã có một số đề tài nghiên cứu về vấn đề công bố thông tin trên thị trường chứng khoán. Cụ thể như sau: - Đề tài luận án tiến sĩ kinh tế “Minh bạch hóa thông tin trên TTCK Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế”, Nguyễn Thúy Anh, Đại học Ngoại thương, 2012. Luận án làm rõ những tiêu chí đánh giá mức độ minh bạch thông tin trên TTCK dưới góc độ kinh tế nói chung trước yêu cầu hội nhập - Đề tài nghiên cứu khoa học “Hoàn thiện hệ thống công bố thông tin của công ty đại chúng trên TTCK Việt Nam”, TS. Tạ Thanh Bình,Ủy ban chứng khoán Nhà nước, 2011. Đề tài này làm rõ các thông tin phải công bố của công ty đại chúng trên TTCK và đưa ra giải pháp hoàn thiện hệ thống công bố thông tin của công ty đại chúng nói chung. - Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ: “Minh bạch trong công bố thông tin của các công ty niêm yết trên TTCK Việt Nam”, GS-TS. Đinh Văn Sơn. Tác giả đã phân tích khá đầy đủ về hoạt động công bố thông tin của các công ty niêm yết trên TTCK. - Đề tài luận văn thạc sĩ: “Pháp luật về công bố thông tin trên thị trường chứng khoán Việt Nam”, Viên Thế Giang, 2008, do TS. Phạm Thị Giang Thu 3
- hướng dẫn. Đề tài khái quát những vấn đề chung về công bố thông tin trên TTCK Việt Nam, đưa ra thực trạng và một số giải pháp hoàn thiện. Các đề tài nêu trên đã đóng góp những kết luận khoa học quan trọng trong quá trình nghiên cứu pháp luật điều chỉnh hoạt động công bố thông tin trên TTCK. Tuy nhiên, các đề tài đều được làm trước khi Thông tư số 52/2012/TT- BTC được Bộ Tài chính ban hành ngày 5/4/2012, do đó tính đến thời điểm hiện tại, chưa có đề tài luận văn nào khai thác những điểm mới tại Thông tư 52/2012/TT-BTC về nghĩa vụ công bố thông tin của công ty đại chúng (kể cả công ty đại chúng niêm yết và công ty đại chúng chưa niêm yết). Do đó, những vướng mắc khi công ty đại chúng thực thi các quy định pháp luật và cơ chế công bố thông tin theo quy định mới chưa được đề cập. Bên cạnh đó, việc nghiên cứu kinh nghiệm pháp luật điều chỉnh hoạt động công bố thông tin của công ty đại chúng tại một số quốc gia có TTCK phát triển như Mỹ, Australia, Hàn Quốc nhằm đánh giá sự tương thích của pháp luật Việt Nam so với pháp luật quốc tế; đồng thời đưa ra một số phương hướng, giải pháp hoàn thiện phù hợp với thực tế Việt Nam hiện nay là vấn đề cần được xem xét toàn diện và có tầm quan trọng không chỉ đối với công ty đại chúng mà còn đối với cả nhà đầu tư và cơ quan quản lý. Có thể nói, đây là một vấn đề mới, có tính ứng dụng cao và đòi hỏi có những nghiên cứu toàn diện. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở làm rõ các quy định pháp luật điều chỉnh hoạt động công bố thông tin của công ty đại chúng trên TTCK và đánh giá thực trạng công bố thông tin của các công ty đại chúng hiện nay, luận văn đưa ra phương hướng và các giải pháp hoàn thiện pháp luật cùng những giải pháp khác nhằm tăng cường tính công khai, minh bạch trong hoạt động công bố thông tin của công ty đại chúng. Nhiệm vụ nghiên cứu: 4
- - Nghiên cứu những vấn đề chung về công bố thông tin của công ty đại chúng trên TTCK và kinh nghiệm của một số nước nhằm rút ra bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam; - Phân tích quy định pháp luật hiện hành điều chỉnh hoạt động công bố thông tin của công ty đại chúng trên TTCK; - Đánh giá thực trạng công bố thông tin của công ty đại chúng tại Việt Nam hiện nay, từ đó tìm ra những khó khăn, bất cập cả về khía cạnh pháp lý lẫn thực thi nghĩa vụ công bố thông tin của công ty đại chúng; - Đưa ra một số phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hoạt động công bố thông tin của công ty đại chúng trên TTCK. 4. Tính mới và những đóng góp của đề tài - Những vấn đề cơ bản về công bố thông tin của công ty đại chúng trên TTCK; - Quy định pháp luật hiện hành điều chỉnh hoạt động công bố thông tin của công ty đại chúng trên TTCK; - Những vướng mắc, bất cập của pháp luật và thực trạng áp dụng pháp luật điều chỉnh hoạt động công bố thông tin của công ty đại chúng trên TTCK; - Nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế về công bố thông tin của công ty đại chúng tại một số quốc gia có thị trường chứng khoán phát triển như Mỹ, Australia, Hàn Quốc và đánh giá sự tương thích của pháp luật Việt Nam so với pháp luật quốc tế; - Đưa ra một số phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hoạt động công bố thông tin của công ty đại chúng phù hợp với thực tế TTCK Việt Nam hiện nay. 5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu các khía cạnh về công bố thông tin đối với công ty đại chúng theo pháp luật Việt Nam. Các nghĩa vụ công khai thông tin khác không 5
- được quy định theo pháp luật chứng khoán và thị trường chứng khoán không thuộc phạm vi nghiên cứu của đề tài. Phạm vi nghiên cứu: Đề tài chủ yếu làm rõ quy định pháp luật và thực tế tuân thủ nghĩa vụ công bố thông tin của công ty đại chúng trên TTCK trong thời gian từ năm 2010 đến nay thông qua sự so sánh những điểm mới và tác động sau khi ban hành Thông tư số 52/2012/TT-BTC so với Thông tư 09/2010/TT-BTC trước đây. Việc nghiên cứu thực tiễn tuân thủ nghĩa vụ công bố thông tin của công ty đại chúng hiện nay chủ yếu đối với các công ty niêm yết trên hai Sở giao dịch chứng khoán (SGDCK Hà Nội và SGDCK thành phố Hồ Chí Minh). 6. Phƣơng pháp nghiên cứu - Điều tra và thu thập tài liệu để tổng hợp và phân tích theo phương pháp luận logic; - Phương pháp so sánh; - Khảo sát thực tế nhằm đưa ra các đánh giá, khuyến nghị thích hợp; - Tham vấn ý kiến chuyên gia trong lĩnh vực công bố thông tin cho công ty đại chúng. 7. Kết cấu của luận văn Luận văn được kết cấu thành 3 chương: Chương 1: Những vấn đề chung về công bố thông tin của công ty đại chúng và pháp luật điều chỉnh hoạt động công bố thông tin của công ty đại chúng trên thị trường chứng khoán Việt Nam Chương 2: Thực trạng pháp luật điều chỉnh hoạt động công bố thông tin của công ty đại chúng trên thị trường chứng khoán Việt Nam Chương 3: Phương hướng, giải pháp, kiến nghị hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hoạt động công bố thông tin của công ty đại chúng trên thị trường chứng khoán Việt Nam. 6
- Chƣơng 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÔNG BỐ THÔNG TIN CỦA CÔNG TY ĐẠI CHÚNG VÀ PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH HOẠT ĐỘNG CÔNG BỐ THÔNG TIN CỦA CÔNG TY ĐẠI CHÚNG TRÊN THỊ TRƢỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM 1.1. Công ty đại chúng và công bố thông tin của công ty đại chúng trên thị trƣờng chứng khoán 1.1.1. Khái quát chung về công ty đại chúng 1.1.1.1. Khái niệm công ty đại chúng Thuật ngữ “công ty đại chúng” (CTĐC) có nguồn gốc từ triết lý pháp luật phương Tây, họ lấy cá nhân (người) làm chủ thể pháp luật trong các giao dịch để quy nạp mọi tổ chức kinh doanh dưới tiêu chí “pháp nhân”. Tùy theo pháp luật từng quốc gia mà các tổ chức kinh doanh được định hình thành ba loại chính: (i) công ty, (ii) hợp danh, (iii) cá nhân kinh doanh. Tiếp đó, các học giả phương Tây tiếp tục chia công ty thành hai hình thức công ty nội bộ (private company hay privately held corporation) và công ty đại chúng (public limited company) [25]. Công ty nội bộ thường là dạng công ty quy mô nhỏ, có địa bàn, phạm vi hoạt động hẹp, được sở hữu bởi một số ít người (thường có dưới 50 người), không được huy động vốn rộng rãi, chịu sự giám sát và có yêu cầu minh bạch (về sổ sách, báo cáo) không cao, ít có khả năng bị thâu tóm và một số đặc điểm khác tùy theo pháp luật mỗi nước. Hình thức công ty nội bộ cũng được xem là giai đoạn tích lũy để chuẩn bị trở thành công ty đại chúng (thông qua phát hành chứng khoán lần đầu ra công chúng – Intial Public Offering hay gọi tắt là IPO) khi doanh nghiệp có nhu cầu mở rộng để phát triển lớn mạnh. Ngược lại với hình thức công ty nội bộ, công ty đại chúng thường có địa bàn, phạm vi hoạt động rộng, có số cổ đông và quy mô vốn lớn. Thuật ngữ “công ty đại chúng” có thể 7
- được quy định tại Luật Công ty (như Anh, Mỹ, Úc ) hoặc tại Luật Chứng khoán (như Ba Lan, Hungary ) trên cơ sở phân biệt với loại hình công ty nội bộ. Ở Anh và nhiều nước theo hệ luật của Anh, công ty nội bộ được phân biệt với công ty đại chúng trên phương diện vốn. Luật công ty 2006 của Anh (the Companies Act 2006) quy định công ty nội bộ hay gọi là công ty trách nhiệm hữu hạn theo cổ phần (private company limited by share) được tổ chức theo dạng cổ phần, có vốn thành lập nhỏ (chỉ cần một bảng Anh vốn cổ phần ban đầu là đủ). Còn công ty đại chúng (public limited company, viết tắt là Plc và bắt buộc phải ghi sau tên công ty) cần số vốn tối thiểu 50.000 bảng Anh, được huy động vốn và giao dịch cổ phần không hạn chế, số cổ đông tham gia không giới hạn và có tối thiểu hai thành viên quản trị thường trực. Theo pháp luật Mỹ hay Úc, công ty đại chúng và công ty nội bộ được phân biệt chủ yếu trên số lượng cổ đông. Theo Luật Công ty 2001 của Úc (the Corporations Act 2001), công ty nội bộ (proprietary limited company, viết tắt sau đuôi tên công ty là Pty ltd và phân biệt với đuôi Ltd (không có Pty) của công ty đại chúng) là công ty có số cổ đông tối đa là 50 và các cổ đông phải là người ngoài, không làm việc cho công ty. Ngoài ra Điều 112 Luật Công ty Úc quy định các công ty đại chúng phải có ít nhất ba giám đốc và ít nhất một thư ký công ty, chỉ có công ty đại chúng mới có quyền huy động vốn bằng việc phát hành cổ phiếu ra công chúng. Còn tại Mỹ, công ty đại chúng có tên gọi C. Corporation (công ty cổ phần có trên 100 cổ đông) nhằm phân biệt với S. Corporation - hình thức công ty chỉ được phát hành một loại cổ phần duy nhất, có số cổ đông không vượt quá 100 và cổ đông phải là cá nhân mang quốc tịch Mỹ. Ngoài cách phân biệt dựa trên yếu tố vốn hay quy mô cổ đông, nhiều quốc gia định nghĩa công ty đại chúng theo hoạt động phát hành chứng khoán ra công chúng như tại khoản 9 Điều 4 Luật Chứng khoán Ba Lan,“Công ty đại chúng là công ty có cổ phiếu của ít nhất một lần phát hành được chấp thuận cho giao dịch ra công chúng” hoặc theo quy định tại Điều 110 Luật Chứng khoán Bungari thì 8
- “Công ty đại chúng là công ty đã phát hành ra công chúng lần đầu hoặc đăng ký với Ủy ban Chứng khoán về việc phát hành với mục đích tham gia giao dịch tại thị trường chứng khoán được quản lý”. Từ các cách định nghĩa về công ty đại chúng trên cho thấy “công ty đại chúng” là doanh nghiệp đạt đến quy mô vốn và cách thức quản trị nhất định. Công ty có thể tổ chức dưới hình thức CTĐC ngay từ khi mới thành lập hoặc thông qua “bước chuyển” trong hoạt động thị trường chứng khoán - thủ tục phát hành chứng khoán lần đầu ra công chúng (IPO). Để xác định một công ty là CTĐC, các quốc gia thường căn cứ vào những tiêu chí nhất định như sau: (1) Là tổ chức thực hiện việc chào bán chứng khoán ra công chúng; (2) Là tổ chức có quy mô vốn lớn; (3) Là tổ chức có số lượng lớn người sở hữu chứng khoán; (4) Là tổ chức có chứng khoán giao dịch tại thị trường có quản lý (hay những công ty có chứng khoán niêm yết tại SGDCK). 1.1.2.2. Phân loại công ty đại chúng (dưới góc độ công bố thông tin) Dưới góc độ công bố thông tin, tùy từng quốc gia sẽ phân loại công ty đại chúng theo tiêu chí niêm yết hoặc theo tiêu chí quy mô. Cụ thể như sau: Nếu xét theo quy mô công ty, công ty đại chúng được phân loại gồm: (i) Công ty đại chúng thông thường là công ty đáp ứng được các yêu cầu về tính đại chúng như có số lượng người sở hữu chứng khoán hoặc có quy mô vốn hoặc tổng giá trị các khoản nợ cao hơn các doanh nghiệp thông thường khác. (ii) Công ty đại chúng quy mô lớn là các công ty đáp ứng được các tiêu chí về quy mô vốn, giá trị các khoản nợ hoặc quy mô cổ đông cao hơn so với các công ty đại chúng thông thường. Do đó, các công ty đại chúng quy mô lớn có trách nhiệm minh bạch thông tin cao hơn so với các công ty đại chúng khác. Nếu phân loại theo tiêu chí niêm yết chứng khoán, công ty đại chúng gồm: (i) Công ty đại chúng niêm yết là các công ty có chứng khoán (cổ phiếu hoặc trái phiếu) niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán. 9
- (ii) Công ty đại chúng không niêm yết là công ty đáp ứng tiêu chí về tính đại chúng nhưng không có chứng khoán niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán. Theo cách thức phân loại này, các công ty niêm yết phải chịu nghĩa vụ công khai thông tin nghiêm ngặt hơn các công ty đại chúng không niêm yết. Kinh nghiệm quốc tế về phân loại công ty đại chúng: Tùy từng quốc gia mà công ty đại chúng được phân loại theo tiêu chí quy mô công ty hoặc theo tiêu chí niêm yết, từ đó đặt ra các yêu cầu về CBTT phù hợp cho mỗi loại hình công ty. Tại Mỹ - TTCK được coi là phát triển bậc nhất hiện nay, công ty đại chúng được phân loại theo quy mô, bao gồm: công ty công bố thông tin quy mô nhỏ (smaller reporting companies) và công ty đại chúng quy mô lớn (larger public company). Theo đó, công ty CBTT quy mô nhỏ là công ty có giá trị cổ phiếu lưu hành trong công chúng (public equity float) dưới 75 triệu USD hoặc công ty có mức doanh thu hàng năm dưới 50 triệu USD trong năm tài khóa gần nhất. Còn công ty đại chúng quy mô lớn là công ty có giá trị cổ phiếu lưu hành trong công chúng vượt quá 75 triệu USD hoặc doanh thu hàng năm vượt quá 50 triệu USD trong bất cứ năm tài khóa nào. Mức 75-50 triệu USD này được đánh giá lại 5 năm một lần tùy theo điều kiện lạm phát. Các công ty đại chúng quy mô lớn phải thực hiện nghĩa vụ CBTT nghiêm ngặt hơn các công ty có quy mô nhỏ. Còn công ty quy mô nhỏ có thể lựa chọn việc tuân thủ nghĩa vụ CBTT dành cho các công ty CBTT quy mô nhỏ hoặc các công ty quy mô lớn. Tại Nhật Bản, Luật doanh nghiệp (Company Act) năm 2005 thay thế một phần Luật Thương mại (Commercial Code) quy định các loại hình doanh nghiệp, trong đó công ty cổ phần là đối tượng chủ yếu chịu sự điều chỉnh của các quy định liên quan tới CBTT. Các công ty cổ phần bao gồm các công ty lớn và các công ty thông thường. Các công ty lớn (large company) được định nghĩa tại điểm vi Điều 2 Luật doanh nghiệp, là công ty thỏa mãn một trong hai điều kiện sau: (i) công ty có vốn hóa từ 500 triệu Yên trở lên (capitalized at ¥500 million 10
- or more) hoặc (ii) có nợ từ 20 tỷ Yên trở lên vào thời điểm cuối năm tài chính (liabilities is at ¥20.000 million or more). Điểm khác biệt là các nhà lập pháp Nhật Bản coi tổng giá trị các khoản nợ cũng là căn cứ xác định quy mô công ty, nhằm đảm bảo quyền lợi cho các chủ nợ và các cá nhân, tổ chức có liên quan. Còn tại Hàn Quốc - một trong mười TTCK phát triển nhất thế giới, công ty đại chúng được phân loại dựa trên yếu tố niêm yết, bao gồm công ty đại chúng niêm yết và công ty đại chúng không niêm yết. Các công ty niêm yết trên SGDCK Hàn Quốc (Korea Stock Exchange - KSE) chịu trách nhiệm CBTT chặt chẽ hơn so với các công ty đại chúng khác không niêm yết. Tuy nhiên, nghĩa vụ CBTT của các công ty niêm yết trên KSE lại được phân biệt trên cơ sở quy mô của chính công ty đó. Với vai trò là một sàn giao dịch có tổ chức duy nhất ở Hàn Quốc, KSE được tổ chức thành ba (03) khu vực: Khu vực giao dịch cổ phiếu, trái phiếu và các chứng khoán phái sinh. Khu vực cho cổ phiếu được chia thành hai khu vực: Khu vực thứ nhất (KOSPI) dành cho các công ty có quy mô lớn, khu vực thứ hai (KOSDAQ) là dành cho các cổ phiếu mới được niêm yết hoặc cho các công ty có quy mô vừa và nhỏ được giao dịch. Quy định về CBTT cũng dựa trên cơ sở Bảng niêm yết, trong đó các công ty niêm yết tại Bảng niêm yết chính KOSPI (gồm các công ty có vốn cổ phần từ 10 tỷ won trở lên) có nghĩa vụ CBTT cao hơn so với các công ty niêm yết trên Bảng KOSDAQ (gồm các công ty có vốn cổ phần từ 3 tỷ won trở lên). Ngoài ra, các quy định liên quan tới CBTT đặc biệt nhấn mạnh sự khác biệt đối với các công ty có quy mô lớn (large-sized corporation - các công ty có tổng tài sản trên 2 nghìn tỷ won), theo đó các công ty này phải chịu nghĩa vụ CBTT với mức độ nghiêm ngặt hơn các công ty khác. Như vậy, các quốc gia có thể phân loại công ty đại chúng theo tiêu chí quy mô (như Mỹ, Nhật Bản ) hoặc tiêu chí niêm yết (như Hàn Quốc), tuy nhiên ngày nay cách phân loại công ty đại chúng theo tiêu chí niêm yết không được nhiều thị trường áp dụng bởi cách thức này tạo ra một khoảng cách khá lớn về trách nhiệm công khai thông tin giữa các công ty niêm yết và các công ty không 11
- niêm yết, khiến cho nhiều công ty đại chúng “ngại” đưa chứng khoán lên niêm yết tập trung nhằm “né tránh” nghĩa vụ CBTT. Vì vậy, việc phân loại công ty đại chúng theo yếu tố quy mô được coi là xu hướng của đa số các quốc gia hiện nay. Thông thường, để xác định một công ty đại chúng có “quy mô lớn”, các quốc gia thường căn cứ trên các tiêu chí như vốn điều lệ hoặc tổng giá trị tài sản của công ty hoặc tổng giá trị chứng khoán chào bán ra công chúng hay đôi khi còn có thể căn cứ trên tổng giá trị các khoản nợ của chính công ty đó. 1.1.2. Khái quát chung về hoạt động công bố thông tin của công ty đại chúng trên thị trường chứng khoán 1.1.2.1. Khái niệm và vai trò của thông tin trên thị trường chứng khoán Khái niệm thông tin trên thị trường chứng khoán: Hiện nay có nhiều cách hiểu khác nhau về thông tin. Theo từ điển Bách khoa Việt Nam thì thông tin được hiểu là các điều hiểu biết, tri thức thu được qua nghiên cứu, khảo sát hoặc trao đổi giữa các đối tượng với nhau. Dưới góc độ nhận thức luận, thông tin là kết quả của sự phản ánh hiện thực khách quan, được biểu hiện bằng các hệ thống ngôn ngữ, ký hiệu, hình ảnh Còn dưới góc độ thống kê, thông tin là hệ thống các tin báo, dữ liệu, giúp người nhận loại trừ trạng thái không chắc chắn. Như vậy, dù có nhiều cách tiếp cận khác nhau về thông tin, song nó đều có ý nghĩa đem đến sự hiểu biết, nhận thức cho người tiếp nhận thông qua sự phân tích các dữ liệu, chỉ số, ký hiệu, bảng biểu, sơ đồ và thường được truyền tải thông qua các hình thức như báo chí, truyền thanh, truyền hình, dữ liệu điện tử Trên TTCK, thông tin rất đa dạng và có thể xuất phát từ nhiều nguồn khác nhau như từ công ty đại chúng, tổ chức kinh doanh chứng khoán, từ cơ quan quản lý thị trường hay từ nhà đầu tư Đó có thể là thông tin liên quan đến các lệnh mua, bán chứng khoán, thông tin về tổ chức phát hành, thông tin về biến động giá chứng khoán hay các thông tin khác có ảnh hưởng đến TTCK. Dưới góc độ kinh tế có thể hiểu, thông tin trên TTCK là tập hợp các số liệu, tin báo, 12
- những chỉ tiêu, tư liệu liên quan đến chứng khoán và TTCK, phản ánh tình hình TTCK giúp cho đối tượng tiếp nhận thông tin qua đó đạt được mục đích mong muốn. Dưới góc độ pháp lý, thông tin trên TTCK là hệ thống tư liệu phản ánh mức độ tuân thủ pháp luật của các chủ thể tham gia thị trường, phản ánh mối quan hệ pháp luật giữa nội bộ doanh nghiệp như quan hệ giữa cổ đông và thành viên Hội đồng quản trị, thành viên Ban Kiểm soát, Ban giám đốc thông qua việc thực hiện các quy định về CBTT. Như vậy, có thể hiểu thông tin trên TTCK là hệ thống các chỉ số, thông số, tin tức, nhận định liên quan đến chứng khoán và TTCK và đều trực tiếp hoặc gián tiếp ảnh hưởng đến giá chứng khoán. Vai trò của thông tin trên thị trường chứng khoán: - Đối với nhà đầu tư: TTCK được coi là thị trường đặc biệt nhạy cảm với thông tin. Tại Việt Nam, TTCK đã nhiều lần chứng kiến những tác động lớn của thông tin đến chỉ số VN Index, mà điển hình là sự kiện trong 3 ngày (21- 23/8/2012) trước thông tin Nguyễn Đức Kiên (Bầu Kiên), nguyên Chủ tịch Hội đồng sáng lập, thành viên Hội đồng quản trị ngân hàng Á Châu bị bắt, chỉ số VN-Index giảm đến hơn 20 điểm, TTCK “bốc hơi” đến 5,6 tỷ USD và một đợt “xả” cổ phiếu hàng loạt của nhà đầu tư. Sau sự kiện này, nhiều nhà đầu tư bị thiệt hại đáng kể vì “xả hàng” theo đám đông, ngược lại nhiều nhà đầu tư có một khoản lợi nhuận lớn sau đó khi mua đúng “đáy”. Như vậy, một chiến lược đầu tư hiệu quả phải căn cứ vào các thông tin chính xác, kịp thời của thị trường và quan trọng nhất là phải đánh giá đúng khả năng phát triển của doanh nghiệp nhờ phân tích các chỉ số về vốn, lợi nhận, chiến lược kinh doanh Trên TTCK, nhà đầu tư sẽ đối mặt với rủi ro rất lớn khi có được thông tin không chính xác, không kịp thời. Trong bối cảnh hiện nay, khi mà các giao dịch chứng khoán được phép sử dụng đòn bẩy tài chính (margin) với tỷ lệ đến 50%, nghĩa là khi mua chứng khoán, họ có thể vay tiền từ công ty chứng khoán đến 50% giá trị giao dịch (trên thực tế con số này tại nhiều công ty chứng khoán còn cao hơn) thì thiệt hại cho nhà đầu tư sẽ càng lớn khi thị giá cổ phiếu giảm. Tình 13
- trạng không minh bạch thông tin, về lâu dài sẽ tác động xấu đến niềm tin chung của thị trường và hệ quả của nó là tình trạng mất thanh khoản hoặc “giảm điểm” của đa số các cổ phiếu, kể cả đối với các cổ phiếu tốt. Hệ quả về việc giảm niềm tin của nhà đầu tư đã được nhìn thấy trên TTCK Việt Nam trong giai đoạn năm 2011-2012 khi thị trường liên tục giảm điểm và sức thanh khoản kém của nhiều cổ phiếu, kể cả khi có những thông tin tốt từ chính sách vĩ mô hay kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. - Đối với tổ chức kinh doanh chứng khoán (các công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ): Thông tin có vai trò quan trọng đối với các tổ chức kinh doanh chứng khoán, là cơ sở để các tổ chức này xây dựng kế hoạch kinh doanh, phát triển công ty. Trên TTCK, tổ chức kinh doanh chứng khoán được coi là nhà đầu tư chuyên nghiệp (thông qua hoạt động tự doanh hoặc quản lý danh mục đầu tư cho khách hàng), họ có bộ phận phân tích thông tin, phòng ngừa rủi ro riêng và thường đầu tư với khối lượng rất lớn, do đó nếu phân tích thông tin không chính xác có thể dẫn đến những thiệt hại không nhỏ cho các tổ chức này. Ngoài ra, các tổ chức kinh doanh chứng khoán còn có vai trò quan trọng trong hoạt động tư vấn đầu tư cũng như nhận ủy thác đầu tư thay cho nhiều khách hàng. Nhân viên của công ty chứng khoán thường đưa ra các khuyến nghị mua/bán chứng khoán cho khách hàng dựa trên các thông tin mà họ có được. Do đó, nếu không nắm bắt được thông tin một cách chính xác, sẽ ảnh hưởng đến chính các khuyến nghị đầu tư và từ đó ảnh hưởng đến các nhà đầu tư khác trên thị trường. - Đối với chính công ty thực hiện nghĩa vụ công bố thông tin: Lợi ích của việc thực thi nghĩa vụ CBTT không chỉ là những lợi ích ngắn hạn mà nó còn hướng đến các mục tiêu lâu dài hơn, đó chính là sự phát triển bền vững của công ty. Việc CBTT chính xác, minh bạch có ý nghĩa hết sức quan trọng trong tạo lập và duy trì niềm tin của công chúng đầu tư đối với doanh nghiệp. CBTT giúp công chúng đầu tư nâng cao hiểu biết về cơ cấu và hoạt động của công ty, các chính sách của công ty liên quan đến các tiêu chuẩn môi trường và đạo đức, quan 14