Luận văn Chế tài liên quan tới hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam

pdf 120 trang vuhoa 25/08/2022 8140
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Chế tài liên quan tới hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_che_tai_lien_quan_toi_han_che_canh_tranh_o_viet_nam.pdf

Nội dung text: Luận văn Chế tài liên quan tới hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT KIM HOÀN MỸ LINH CHẾ TÀI LIÊN QUAN TỚI HẠN CHẾ CẠNH TRANH Ở VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2014
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT KIM HOÀN MỸ LINH CHẾ TÀI LIÊN QUAN TỚI HẠN CHẾ CẠNH TRANH Ở VIỆT NAM Chuyên ngành: Luật Kinh tế Mã số: 60 38 01 07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. ĐẶNG VŨ HUÂN HÀ NỘI - 2014
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Kim Hoàn Mỹ Linh
  4. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục MỞ ĐẦU 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT HẠN CHẾ CẠNH TRANH VÀ CHẾ TÀI XỬ LÝ HẠN CHẾ CẠNH TRANH 6 1.1. Khái niệm và đặc điểm của pháp luật về hạn chế cạnh tranh 6 1.1.1. Khái niệm, căn cứ xác định hành vi hạn chế cạnh tranh 6 1.1.2. Pháp luật điều chỉnh các hành vi hạn chế cạnh tranh 15 1.2. Khái niệm và nội dung chế tài xử lý hạn chế cạnh tranh 17 1.2.1. Khái niệm chế tài xử lý hạn chế cạnh tranh 17 1.2.2. Sự cần thiết áp dụng chế tài đối với hành vi hạn chế cạnh tranh 20 1.2.3. Các hình thức chế tài đối với hành vi hạn chế cạnh tranh 23 1.3. Kinh nghiệm pháp luật các nước về chế tài xử lý hạn chế cạnh tranh 30 1.3.1. Kinh nghiệm các nước thuộc Liên minh châu Âu (EU) 30 1.3.2. Kinh nghiệm của Canada và Mỹ 33 1.3.3. Kinh nghiệm của một số nước Châu Á 38 Tiểu kết Chương 1 41 Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ CHẾ TÀI XỬ LÝ HẠN CHẾ CẠNH TRANH Ở VIỆT NAM 42 2.1. Thực trạng pháp luật về chế tài xử lý hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam 42 2.1.1. Khái quát về các biện pháp chế tài xử lý hạn chế cạnh tranh tại Việt Nam 42 2.1.2. Thẩm quyền, trình tự và thủ tục xử lý các hành vi hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam 52 2.2. Thực trạng áp dụng các biện pháp chế tài đối với các hành vi hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam 57
  5. 2.2.1. Xử lý hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh 58 2.2.2. Xử lý hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền 59 2.2.3. Xử lý hành vi tập trung kinh tế 62 2.3. Đánh giá thực trạng pháp luật và áp dụng pháp luật về chế tài xử lý hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam 64 2.3.1. Đánh giá các quy định của pháp luật Việt Nam về chế tài xử lý hạn chế cạnh tranh 64 2.3.2. Đánh giá thực tiễn xử lý các hành vi hạn chế cạnh tranh 76 Tiểu kết Chương 2 80 Chương 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ CHẾ TÀI XỬ LÝ HẠN CHẾ CẠNH TRANH Ở VIỆT NAM 81 3.1. Nhu cầu hoàn thiện pháp luật về chế tài xử lý hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam 81 3.2. Định hướng hoàn thiện pháp luật về chế tài xử lý hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam 82 3.2.1. Xu hướng pháp luật và việc sử dụng các chế tài đối với hành vi hạn chế cạnh tranh của các nước trên thế giới 82 3.2.2. Định hướng hoàn thiện pháp luật về chế tài hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam 83 3.3. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về chế tài xử lý hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam 86 3.3.1. Các giải pháp pháp lý 87 3.3.2. Các giải pháp bổ trợ khác 103 Tiểu kết Chương 3 109 KẾT LUẬN 110 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 111
  6. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, thì cạnh tranh luôn là một điều kiện và là yếu tố kích thích sản xuất kinh doanh, là môi trường và động lực thúc đẩy sản xuất phát triển, tăng năng suất lao động và tạo đà cho sự phát triển của xã hội. Tuy nhiên, nếu để tồn tại các hành vi cạnh tranh không lành mạnh, các thủ đoạn nhằm kìm hãm quá trình cạnh tranh sẽ đưa lại những hệ quả không mong muốn về mặt kinh tế và xã hội, thị trường bị bóp méo, thay đổi cấu trúc xã hội về sở hữu của cải, phân hóa mạnh mẽ giàu nghèo. Do đó, yêu cầu kiểm soát và điều chỉnh đối với quá trình cạnh tranh là một nhiệm vụ cần thiết đặt ra cho các thiết chế quản lý nền kinh tế thị trường. Những thủ đoạn cạnh tranh tiêu cực trên thị trường rất đa dạng, trong đó, các hành vi hạn chế cạnh tranh có ảnh hưởng lớn tới môi trường kinh doanh và cấu trúc thị trường. Nếu như các hành vi cạnh tranh không lành mạnh gây thiệt hại trực tiếp cho các đối thủ cạnh tranh và người tiêu dùng xã hội, thì các hành vi hạn chế cạnh tranh còn gây thiệt hại và ảnh hưởng đến một ngành hay lĩnh vực kinh tế, phá vỡ cấu trúc thị trường. Bởi vậy, nếu không được điều tiết, kiểm soát một cách thỏa đáng và phù hợp, thì các hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, thống lĩnh thị trường, tập trung kinh tế sẽ loại trừ khả năng cạnh tranh của các đối thủ tiềm năng, kéo theo đó là sự trì trệ, thậm chí thụt lùi của nền kinh tế. Cho nên, pháp luật các nước trên thế giới đều chú trọng xây dựng pháp luật để điều chỉnh vấn đề này với những chế tài rất nghiêm khắc. Hiểu được vai trò của việc xây dựng một môi trường cạnh tranh lành mạnh trong phát triển kinh tế xã hội nói chung, năm 2004, Việt Nam đã ban hành Luật Cạnh tranh, trong đó có các quy định nhằm điều chỉnh các hành vi hạn chế cạnh tranh và đặt ra chế tài để xử vi phạm để răn đe và phòng ngừa chung. Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng đã cho thấy, chế tài đối với các hành vi hạn chế cạnh tranh chưa đủ mạnh, thủ tục xử lý chưa phù hợp, các chế tài được quy định rải rác trong nhiều văn bản luật và các bất cập khác đã gây khó khăn cho việc tổ chức thực thi pháp luật trên thực tế. 1
  7. Trong khi đó, sự tồn tại với vai trò chủ đạo của các doanh nghiệp nhà nước, sự gia tăng của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với tiềm lực tài chính mạnh mẽ, cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường và tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, các thủ đoạn nhằm hạn chế cạnh tranh ở nước ta vốn đã phức tạp lại ngày càng tinh vi hơn, đã gây nhiều tổn hại đến quyền và lợi ích của các doanh nghiệp, người tiêu dùng cũng như sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Từ những phân tích ở trên, việc hoàn thiện pháp luật cạnh tranh nói chung và hoàn thiện, nâng cao hiệu quả của các chế tài xử lý hạn chế cạnh tranh nói riêng đang là những yêu cầu rất cấp thiết. Với ý nghĩa như vậy, nên tôi đã mạnh dạn lựa chọn đề tài “Chế tài liên quan tới hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam” để nghiên cứu và làm Luận văn Thạc sĩ luật học. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trên thế giới, Mỹ, Cộng hòa Liên bang Đức, các nước thuộc Liên minh châu Âu, Nhật Bản và các nước có nền kinh tế thị trường phát triển đều đã có những công trình nghiên cứu sâu sắc, cũng như các án lệ liên quan đến xử lý các hành vi hạn chế cạnh tranh. Ở Việt Nam, trong quá trình nghiên cứu để xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đã có rất nhiều các nghiên cứu về các hành vi hạn chế cạnh tranh như: "Căn cứ xác định hành vi hạn chế cạnh tranh theo pháp luật Việt Nam" của ThS. Hồ Thị Duyên; "Thỏa thuận ấn định giá nhằm hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam" của ThS. Mai Duy Phước; "Về thoả thuận hạn chế cạnh tranh" của tác giả Trần Thị Nguyệt, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 1(237)/2008; "Kiểm soát hành vi lạm dụng của doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường theo pháp luật cạnh tranh Việt Nam hiện nay" của ThS. Nguyễn Thị Bảo Nga; "Pháp luật kiểm soát hành vi lạm dụng quyền lực thị trường ở Việt Nam" của ThS. Nguyễn Ngọc Quý; "Kiểm soát tập trung kinh tế theo quy định của pháp luật Việt Nam" của ThS. Phạm Thị Ngoan Ngoài ra, còn nhiều bài viết, bài báo liên quan đến pháp luật cạnh tranh nói chung và những phản ánh về thực tế hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam nói riêng. 2
  8. Tuy nhiên, các nghiên cứu trên đây chủ yếu tập trung vào phân tích, làm rõ các vấn đề pháp lý đối với từng nhóm hành vi hạn chế cạnh tranh, còn các vấn đề về chế tài liên quan tới hạn chế cạnh tranh, thì chưa có nghiên cứu khoa học chuyên sâu nào đề cập nghiên cứu, bên cạnh đó, thực tiễn áp dụng pháp luật các chế tài này ở Việt Nam cũng chưa nhiều. Bởi vậy, nếu nghiên cứu và bảo vệ thành công, có thể xem đây là công trình chuyên khảo đầu tiên ở cấp độ Luận văn Thạc sĩ luật học về đề tài "Chế tài liên quan tới hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam". 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của đề tài này là làm rõ các vấn đề lý luận pháp luật về hành vi hạn chế cạnh tranh; bản chất, nội dung, đặc điểm của các biện pháp chế tài xử lý hành vi hạn chế cạnh tranh; đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng các biện pháp chế tài đối với các hành vi hạn chế cạnh tranh ở thị trường Việt Nam, chỉ ra những bất cập, hạn chế, để từ đó, đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật cạnh tranh, đặc biệt là nâng cao hiệu quả của các biện pháp chế tài đối với các hành vi hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Từ mục đích nghiên cứu ở trên, đề ra nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn là: - Nghiên cứu, làm rõ các vấn đề lý luận pháp luật về hạn chế cạnh tranh, bản chất, nội dung, đặc điểm của các biện pháp chế tài xử lý hành vi hạn chế cạnh tranh; - Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật cạnh tranh hiện hành về các chế tài liên quan tới hạn chế cạnh tranh, cũng như thực tiễn áp dụng các biện pháp chế tài xử lý hành vi hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam. - Từ các nghiên cứu lý luận và thực tiễn, đề xuất, kiến nghị các giải pháp góp phần hoàn thiện các quy định pháp luật về vấn đề này, cũng như nâng cao hiệu quả áp dụng các biện pháp chế tài xử lý các hành vi hạn chế cạnh tranh. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu các vấn đề pháp lý liên quan tới chế tài đối 3
  9. với các hành vi hạn chế cạnh tranh, bao gồm các quy định về hành vi hạn chế cạnh tranh, các biện pháp chế tài, trình tự áp dụng chế tài, thẩm quyền xử lý hành vi hạn chế cạnh tranh , được quy định trong các văn bản pháp luật hiện hành như: Luật Cạnh tranh năm 2004, Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012, Bộ luật Hình sự 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) và các văn bản hướng dẫn thi hành, cùng với thực tế áp dụng chế tài xử lý các hành vi hạn chế cạnh tranh tại Việt Nam. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Luận văn giới hạn phạm vi nghiên cứu là các biện pháp chế tài xử lý các hành vi hạn chế cạnh tranh và các vấn đề có liên quan theo quy định của pháp luật Việt Nam từ thời điểm Luật Canh tranh năm 2004 có hiệu lực thi hành. Bên cạnh đó, việc tham khảo kinh nghiệm pháp luật của một số nước trên thế giới về vấn đề này chỉ nhằm làm rõ hơn đối tượng nghiên cứu và rút ra bài học kinh nghiệm góp phần hoàn thiện pháp luật cũng như nâng cao hiệu quả áp dụng các biện pháp chế tài đối với hành vi hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam. 5. Phương pháp nghiên cứu của đề tài Để đạt được mục đích và hoàn thành nhiệm vụ nghiên cứu, luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin; chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước ta về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh đó, luận văn còn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu khoa học cơ bản như: Phương pháp phân tích, tổng hợp, khái quát hóa, so sánh pháp luật để làm sáng tỏ mục tiêu và nội dung nghiên cứu của đề tài. 6. Những đóng góp mới của đề tài Luận văn nếu được thực hiện và bảo vệ thành công sẽ đưa lại các đóng góp mới như sau: - Góp phần làm rõ hơn các vấn đề lý luận pháp luật về kiểm soát và xử lý các hành vi hạn chế cạnh tranh; bản chất, nội dung, đặc điểm của các biện pháp chế tài xử lý hành vi hạn chế cạnh tranh. - Góp phần đánh giá trung thực, khách quan về thực trạng pháp luật và hiệu quả áp dụng các chế tài xử lý hành vi hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam hiện nay. 4
  10. - Góp phần hoàn thiện pháp luật về các biện pháp chế tài xử lý hành vi hạn chế cạnh tranh tại Việt Nam, từ đó, xây dựng và hoàn thiện môi trường cạnh tranh bình đẳng, công bằng ở Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và mục lục, luận văn có kết cấu gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận về pháp luật hạn chế cạnh tranh và chế tài xử lý hạn chế cạnh tranh. Chương 2: Thực trạng pháp luật và áp dụng pháp luật về chế tài xử lý hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam. Chương 3: Định hướng và các giải pháp hoàn thiện pháp luật về chế tài xử lý hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam. 5
  11. Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT HẠN CHẾ CẠNH TRANH VÀ CHẾ TÀI XỬ LÝ HẠN CHẾ CẠNH TRANH 1.1. Khái niệm và đặc điểm của pháp luật về hạn chế cạnh tranh 1.1.1. Khái niệm, căn cứ xác định hành vi hạn chế cạnh tranh 1.1.1.1. Khái niệm hành vi hạn chế cạnh tranh Cạnh tranh là một quy luật vận động cơ bản của kinh tế thị trường là động lực thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế, nhờ có cạnh tranh - với sự thay đổi liên tục về nhu cầu và bản tính tham lam của con người - mà nền kinh tế thị trường đã có những bước phát triển nhảy vọt chưa từng có trong lịch sử nhân loại. Theo Black’Law Dictionary, cạnh tranh - với tư cách là động lực nội tại trong mỗi chủ thể kinh doanh - được hiểu là sự nỗ lực hoặc hành vi của hai hay nhiều thương nhân nhằm tranh giành những lợi ích giống nhau từ chủ thể thứ ba. Về bản chất, cạnh tranh là sản phẩm của nền kinh tế thị trường, cạnh tranh có thể được mô tả thông qua những dấu hiệu riêng vốn có của nó: (i) Cạnh tranh là hiện tượng xã hội diễn ra giữa các chủ thể kinh doanh, cạnh tranh chỉ có thể tồn tại nếu như các chủ thể kinh doanh có quyền tự do hành xử trên thị trường; (ii) Cạnh tranh thể hiện sự ganh đua, sự kình địch giữa các doanh nghiệp, nói cách khác, cạnh tranh là phương thức giải quyết mâu thuẫn về lợi ích tiềm năng giữa các nhà kinh doanh với vai trò quyết định của người tiêu dùng; (iii) Mục đích của cạnh tranh là tranh giành thị trường mua hoặc bán sản phẩm hàng hóa, dịch vụ [52, tr. 11]. Trong đó, hành vi cạnh tranh thường được phân loại thành: hành vi cạnh tranh không lành mạnh và hành vi hạn chế cạnh tranh. Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh thường chỉ là hành vi đơn độc của doanh nghiệp, ít có được sự đồng thuận từ các đối tác và chỉ áp dụng tới một vài đối thủ, khách hàng và trong một phạm vi nhất định. Ngược lại, các hành vi hạn chế cạnh tranh, được coi là hành vi có mức độ nguy hiểm và tính phức tạp cao, hành vi hạn chế cạnh tranh mang tính chất khống chế thị trường nhằm mục đích hạn chế đi tới triệt tiêu cạnh tranh, biến 6
  12. dạng thị trường, gây nguy hại không chỉ cho các đối tượng cạnh tranh, người tiêu dùng mà toàn thị trường cũng bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Luật Cạnh tranh Việt nam đã đưa ra định nghĩa về hạn chế cạnh tranh theo hướng liệt kê các nhóm hành vi cụ thể, theo đó “hạn chế cạnh tranh là hành vi của doanh nghiệp làm giảm, sai lệch, cản trở cạnh tranh trên thị trường” [37, Điều 3, Khoản 3]. Mặc dù, không đưa ra một khái niệm chung về hạn chế cạnh tranh, nhưng thông qua các hành vi cụ thể được các nhà làm luật điều chỉnh trong chế định hạn chế cạnh tranh, thì có thể thấy hành vi này có đặc điểm chính là: - Chủ thể thực hiện hành vi có thể là một doanh nghiệp hoặc một nhóm doanh nghiệp, các doanh nghiệp này hoặc là đã có sức mạnh thị trường, hoặc hướng đến việc hình thành nên sức mạnh thị trường bằng cách thỏa thuận hoặc tập trung kinh tế. - Hành vi hạn chế cạnh tranh mang tính chất khống chế thị trường, áp đặt sự thống trị duy nhất của doanh nghiệp hoặc một nhóm doanh nghiệp lên thị trường. Ví dụ như thỏa thuận ấn định giá mua bán hướng tới hạn chế đi tới triệt tiêu cạnh tranh về giá cả giữa các doanh nghiệp, thỏa thuận phân chia thị trường tiêu thụ hoặc thị trường cung cấp nguyên vật liệu buộc người mua không có sự lựa chọn từ đó áp đặt sự thống trị của doanh nghiệp trong những phạm vi nhất định, gây cản trở và làm hạn chế cạnh tranh. - Các hành vi được thực hiện nhằm mục tiêu làm biến dạng cạnh tranh và đi tới triệt tiêu cạnh tranh. Sự biến dạng của cạnh tranh có thể là làm thay đổi cấu trúc thị trường, thay đổi tương quan cạnh tranh giữa các doanh nghiệp, loại bỏ đối thủ, ngăn cản đối thủ tiềm năng để làm giảm đi sức ép cạnh tranh hiện có hoặc sẽ có, bóc lột khách hàng. 1.1.1.2. Căn cứ xác định hành vi hạn chế cạnh tranh Tùy vào đặc điểm nền kinh tế của mỗi quốc gia mà pháp luật cạnh tranh có những cách điều chỉnh đối với hành vi hạn chế cạnh tranh khác nhau. Tuy nhiên, dưới góc độ lý luận, pháp luật các nước xác định hành vi hạn chế cạnh tranh căn cứ vào yếu tố thị trường liên quan và thị phần, thị phần kết hợp. 7
  13. * Xác định thị trường liên quan Dưới góc độ kinh tế học, thị trường là nơi gặp gỡ giữa cung và cầu về một loại hàng hóa hoặc dịch vụ nhất định. Cục Thương mại công bằng của Vương quốc Anh đã nhận định: Thị trường là một giai đoạn rất quan trọng trong bất cứ cuộc điều tra nào về hành vi lạm dụng. Bởi lẽ thị phần chỉ được tính toán sau khi những ranh giới của thị trường đã được xác định. Do đó, nếu thị trường được xác định sai, thì tất cả những phân tích tiếp theo dựa trên thị phần hoặc cấu trúc thị trường đều không hoàn thiện [53, tr. 238]. Việc xác định được thị trường liên quan là để có thể đánh giá được sức mạnh thị trường của một doanh nghiệp, là để xem mức độ những sản phẩm và dịch vụ thay thế lẫn nhau tạo sức ép cạnh tranh lên các nhà cung cấp những sản phẩm và dịch vụ tương ứng. Thị trường liên quan là cơ sở quan trọng để các cơ quan thực thi luật, kết luận một hành vi cụ thể là có vi phạm Luật Cạnh tranh hay không. Nói cách khác, xác định thị trường liên quan là công đoạn đầu tiên trong chuỗi tác nghiệp thực thi Luật Cạnh tranh liên quan đến các hành vi hạn chế cạnh tranh. Thị trường liên quan được cấu thành bởi hai loại giới hạn cơ bản là giới hạn về sản phẩm (loại hàng hóa, dịch vụ) và giới hạn về phạm vi, không gian địa lý, khu vực địa lý. Đó là: thị trường sản phẩm liên quan và thị trường địa lý liên quan. Thứ nhất, thị trường sản phẩm liên quan được xác định trong một phạm vi mà ở đó hàng hoá, dịch vụ có những đặc tính, hình dạng, mục đích sử dụng và giá cả tương tự, có khả năng thay thế cho nhau một cách hợp lý. Tính chất tương tự giữa những hàng hoá, dịch vụ này phải được xét trong tổng thể các yếu tố nói trên, không ngoại trừ yếu tố nào. Căn cứ để xác định đặc tính, mục đích sử dụng và giá cả của hàng hóa, dịch vụ cũng như “thuộc tính có thể thay thế cho nhau” được quy định tại Nghị định số 116/2005/NĐ-CP (Điều 5), đặc tính của hàng hóa, dịch vụ được xác định theo một hoặc một số căn cứ sau: tính chất vật lý, tính chất hóa học; tính năng kỹ thuật; tác dụng phụ của sản phẩm; khả năng hấp thụ. Mục đích sử dụng của hàng hóa, dịch vụ được xác định căn cứ vào mục đích sử dụng thông thường 8
  14. nhất của hàng hóa, dịch vụ đó. Giá cả của hàng hóa, dịch vụ là giá ghi trong hóa đơn bán lẻ. Ngoài ra, trong một số trường hợp đặc biệt, thị trường sản phẩm liên quan còn có thể được xác định là thị trường của một loại sản phẩm đặc thù hoặc một nhóm các sản phẩm đặc thù căn cứ vào cấu trúc thị trường và tập quán của người tiêu dùng. Trong trường hợp này, việc xác định thị trường sản phẩm liên quan có thể xem xét thêm thị trường của các sản phẩm bổ trợ cho sản phẩm liên quan [11]. Thứ hai, thị trường địa lý liên quan là một khu vực địa lý cụ thể có thể là một thành phố, một tỉnh, một miền, một quốc gia, một khu vực kinh tế, thậm chí là toàn cầu mà ở đó hàng hoá, dịch vụ có khả năng thay thế được cho nhau một cách hợp lý với các điều kiện cạnh tranh tương tự, đặc biệt, khu vực địa lý này phải có sự khác biệt đáng kể với các khu vực lân cận khác về hàng rào kiểm soát thương mại, phương tiện phân phối, chi phí vận chuyển và ngôn ngữ thương mại. Theo khoản 3 Điều 7 Nghị định số 116/2005/NĐ-CP, khu vực địa lý được coi là có điều kiện cạnh tranh tương tự và khác biệt đáng kể với các khu vực địa lý lân cận nếu thỏa mãn một trong các tiêu chí sau: (i) Chi phí vận chuyển và thời gian vận chuyển làm giá bán lẻ hàng hóa tăng không quá 10%; hoặc (ii) có sự hiện diện của một trong các rào cản gia nhập thị trường như: rào cản từ sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý theo quy định của pháp luật về sở hữu công nghiệp; rào cản về tài chính bao gồm chi phí đầu tư vào sản xuất, phân phối, xúc tiến thương mại hoặc khả năng tiếp cận với các nguồn cung cấp tài chính; quyết định hành chính của cơ quan quản lý nhà nước; quy định về điều kiện kinh doanh, sử dụng hàng hóa, dịch vụ, các chuẩn mực nghề nghiệp; thuế nhập khẩu và hạn ngạch nhập khẩu; tập quán của người tiêu dùng [11]. * Xác định thị phần, thị phần kết hợp Theo Luật Cạnh tranh năm 2004: Thị phần của doanh nghiệp đối với một loại hàng hoá, dịch vụ nhất định là tỷ lệ phần trăm giữa doanh thu bán ra của doanh nghiệp này với tổng doanh thu của tất cả các doanh nghiệp kinh doanh loại hàng hoá, dịch vụ đó trên thị trường liên quan hoặc tỷ lệ phần trăm giữa doanh số 9
  15. mua vào của doanh nghiệp này với tổng doanh số mua vào của tất cả các doanh nghiệp kinh doanh loại hàng hoá, dịch vụ đó trên thị trường liên quan theo tháng, quý, năm [37, Điều 3, khoản 5]. Dưới góc độ pháp luật cạnh tranh, thị phần được đề cập đến khi xác định hành vi hạn chế cạnh tranh, đặc biệt là vị trí thống lĩnh thị trường và tập trung kinh tế. Bản thân thị phần chưa đủ để khẳng định một doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường, có khả năng gây hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể. Tuy nhiên, thị phần cũng là điều kiện cần thiết để xác định hành vi hạn chế cạnh tranh. Trong quá trình giải quyết các vụ việc cạnh tranh, bên cạnh xác định thị phần, thì xác định thị phần kết hợp cũng là vấn đề quan trọng. Nếu như thị phần chỉ tỷ lệ doanh thu của một doanh nghiệp so với tổng doanh thu của các doanh nghiệp trên thị trường liên quan, thì thị phần kết hợp là tỷ lệ doanh thu của hai hay nhiều doanh nghiệp trên thị trường liên quan. Khoản 6 Điều 3 Luật Cạnh tranh năm 2004 đã định nghĩa rằng: “Thị phần kết hợp là tổng thị phần trên thị trường liên quan của các doanh nghiệp tham gia vào thoả thuận hạn chế cạnh tranh hoặc tập trung kinh tế” [37]. Trong Luật Cạnh tranh, thị phần kết hợp thường được đề cập đến khi xác định các doanh nghiệp cùng nhau thực hiện các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh hoặc tập trung kinh tế. Thị phần kết hợp thể hiện năng lực cạnh tranh của một nhóm doanh nghiệp. Vì vậy, thông qua tỷ lệ thị phần kết hợp người ta xác định một nhóm doanh nghiệp có thuộc trường hợp bị kiểm soát hành vi hạn chế cạnh tranh hay không. Theo Luật Cạnh tranh 2004, trường hợp một số thỏa thuận hạn chế cạnh tranh chỉ bị cấm khi thị phần liên kết của họ vượt quá 30%, hoặc trường hợp tập trung kinh tế, nếu thị phần kết hợp từ 30% - 50% thì các doanh nghiệp phải báo cáo với cơ quan quản lý cạnh tranh, nếu thị phần kết hợp trên 50% thì hoạt động tập trung kinh tế đó sẽ bị cấm Bởi khi sở hữu tỷ lệ thị phần đó, các doanh nghiệp có thể gây hạn chế cạnh tranh một cách sâu sắc mà không phải do năng lực tự sản xuất, kinh doanh của họ. 1.1.1.3. Phân loại các nhóm hành vi hạn chế cạnh tranh Các hành vi hạn chế cạnh tranh tồn tại phổ biến dưới các dạng: thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí độc quyền, tập trung kinh tế. 10
  16. * Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh là hành vi cấu kết giữa hai hay nhiều doanh nghiệp để thủ tiêu sự cạnh tranh giữa chúng và ngăn cản việc tham gia thị trường của các đối thủ cạnh tranh khác cũng như sự nhập cuộc của các doanh nghiệp. Nội dung của thỏa thuận hạn chế cạnh tranh chính là sự thống nhất ý chí giữa các chủ thể dưới bất kì hình thức nào về cách thức, biện pháp nhằm hạn chế, thậm chí khống chế cạnh tranh trên thị trường liên quan. Luật Cạnh tranh Việt Nam không đưa ra khái niệm mà sử dụng phương pháp liệt kê các thỏa thuận bị coi là thỏa thuận hạn chế cạnh tranh tại Điều 8 Luật Cạnh tranh. Mặc dù thực tế các hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh rất đa dạng, tuy nhiên về bản chất pháp lý thì các hành vi này có đặc điểm chung đó là: - Về chủ thể, thỏa thuận hạn chế cạnh tranh diễn ra giữa các doanh nghiệp là đối thủ cạnh tranh của nhau. Để xác định dấu hiệu này, phải chứng minh được những điểm sau đây: các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận cùng trên thị trường liên quan; các doanh nghiệp phải hoạt động độc lập với nhau, không phải là những người liên quan của nhau theo pháp luật doanh nghiệp; không cùng trong một tập đoàn kinh doanh, không cùng là thành viên của tổng công ty. Ngoài ra, theo pháp luật Việt Nam, hiệp hội ngành nghề cũng có thể là chủ thể bị áp dụng, vì nơi đây là diễn đàn tập trung các doanh nghiệp thường là một hoặc một số hàng hóa trên thị trường liên quan. - Hình thức của thỏa thuận là sự thống nhất cùng hành động giữa các doanh nghiệp có thể công khai hoặc không công khai. - Nội dung của các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh thường tập trung vào các yếu tố cơ bản của quan hệ thị trường mà các doanh nghiệp đang cạnh tranh nhau như giá, thị trường, trình độ kỹ thuật, công nghệ, điều kiện ký kết hợp đồng và nội dung của hợp đồng. Để xác định được sự tồn tại của một thỏa thuận hạn chế cạnh tranh cần phải có bằng chứng về sự thống nhất ý chí giữa các doanh nghiệp; và nội dung của thỏa thuận là cùng nhau thực hiện hành vi hạn chế cạnh tranh. - Hậu quả của thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, dấu hiệu chung cho cả ba loại 11
  17. hành vi hạn chế cạnh tranh, là làm giảm, sai lệch và cản trở cạnh tranh trên thị trường. Sự thống nhất ý chí đã liên kết các doanh nghiệp độc lập với nhau nhằm tạo nên sức mạnh chung trong quan hệ với khách hàng hoặc trong quan hệ cạnh tranh với những doanh nghiệp không tham gia thỏa thuận. Thế nên hậu quả của thỏa thuận gây ra cho thị trường là xoá bỏ cạnh tranh giữa những doanh nghiệp tham gia. Khi nội dung thỏa thuận được hình thành, tạo ra những tiêu chuẩn chung về giá, về kỹ thuật, về công nghệ, về điều kiện giao kết hợp đồng các doanh nghiệp đang từ đối thủ cạnh tranh của nhau sẽ không còn cạnh tranh với nhau nữa. Bằng sức mạnh chung (nếu sự liên kết tạo nên sức mạnh thị trường) và bằng việc thực hiện hành vi hạn chế cạnh tranh, các doanh nghiệp tham gia có thể gây thiệt hại cho khách hàng khi đặt ra các điều kiện giao dịch bất lợi cho họ hoặc gây thiệt hại cho các doanh nghiệp không tham gia thỏa thuận. Hiện nay, thông thường các thỏa thuận này thường thể hiện dưới dạng các thỏa thuận ngầm hoặc cùng hành động để tránh bị phát hiện và xử lý. Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh có thể được hình thành theo chiều ngang hoặc chiều dọc của quá trình kinh doanh. Thỏa thuận ngang là thỏa thuận diễn ra giữa các doanh nghiệp ở cùng một ngành hàng nhằm hạn chế hoặc thủ tiêu cạnh tranh giữa họ với nhau hoặc trên toàn bộ thị trường. Chẳng hạn như các thỏa thuận ấn định giá, thỏa thuận thông đồng để một bên thắng thầu, thỏa thuận phân chia thị trường hay khách hàng, thỏa thuận tẩy chay hoặc cùng từ chối giao dịch mang tính tập thể. Thỏa thuận chiều dọc là thỏa thuận nhằm hạn chế hoặc thủ tiêu cạnh tranh giữa các doanh nghiệp ở các khâu khác nhau của quá trình sản xuất cho đến tiêu thụ. Thỏa thuận này thường liên quan đến các điều kiện, theo đó các bên mua, bán hay bán lại một số hàng hóa hoặc dịch vụ đối với bên thứ ba. Do đó thỏa thuận theo chiều dọc còn được gọi là thỏa thuận cung cấp - phân phối sản phẩm. Biểu hiện của những thỏa thuận này có thể là thỏa thuận loại bỏ khỏi thị trường những doanh nghiệp không phải là các bên của thỏa thuận, thỏa thuận duy trì giá bán lại, thỏa thuận ràng buộc * Lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường hoặc vị trí độc quyền Hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền những hành vi 12
  18. do doanh nghiệp hoặc nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường, doanh nghiệp có vị trí độc quyền thực hiện nhằm củng cố vị trí thống lĩnh, duy trì vị trí độc quyền bằng cách loại bỏ doanh nghiệp khác ra khỏi thị trường; ngăn cản, kìm hãm doanh nghiệp khác không cho gia nhập thị trường, phát triển kinh doanh hoặc nhằm thu lợi nhuận độc quyền bằng cách bóc lột khách hàng [52, tr.104]. Pháp luật của các nước đều thống nhất rằng nhóm hành vi này có: (i) Chủ thể thực hiện hành vi là doanh nghiệp hoặc nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh hoặc doanh nghiệp có vị trí độc quyền trên thị trường liên quan; (ii) Doanh nghiệp, nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh, doanh nghiệp độc quyền đã hoặc đang thực hiện hành vi hạn chế cạnh tranh được quy định trong Luật Cạnh tranh; (iii) Hậu quả của hành vi lạm dụng là làm sai lệch, cản trở hoặc giảm cạnh tranh trên thị trường liên quan. Việc xác định vị trí thống lĩnh thị trường hoặc vị trí độc quyền được thực hiện qua hai bước cơ bản: Xác định thị trường liên quan và xác định mức độ thống lĩnh hoặc độc quyền của doanh nghiệp trên thị trường. Điều 11 và Điều 12 Luật Cạnh tranh năm 2004 quy định về các căn cứ xác định vị trí thống lĩnh thị trường và vị trí độc quyền của doanh nghiệp, theo đó: Doanh nghiệp được coi là có vị trí thống lĩnh thị trường nếu có thị phần từ 30% trở lên trên thị trường liên quan hoặc có khả năng gây hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể; nhóm doanh nghiệp được coi là có vị trí thống lĩnh thị trường nếu cùng hành động nhằm gây hạn chế cạnh tranh và thuộc một trong các trường hợp sau: Hai doanh nghiệp có tổng thị phần từ 50% trở lên trên thị trường liên quan, ba doanh nghiệp có tổng thị phần từ 65% trở lên trên thị trường liên quan, bốn doanh nghiệp có tổng thị phần từ 75% trở lên trên thị trường liên quan; doanh nghiệp được coi là có vị trí độc quyền nếu không có doanh nghiệp nào cạnh tranh về hàng hoá, dịch vụ mà doanh nghiệp đó kinh doanh trên thị trường liên quan. Luật Cạnh tranh năm 2004 không đưa ra định nghĩa mà liệt cụ thể các hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền để hạn chế cạnh tranh. Theo đó, chỉ khi doanh nghiệp, nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường, doanh nghiệp có vị trí độc quyền thực hiện những hành vi được quy định tại 13
  19. Điều 13 và Điều 14 Luật Cạnh tranh mới bị coi là lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền để hạn chế cạnh tranh. * Tập trung kinh tế Khái niệm hành vi tập trung kinh tế được bình luận ở nhiều góc độ khác nhau trong kinh tế học và trong khoa học pháp lý. Tập trung kinh tế được hiểu: Là các thỏa thuận tài chính theo đó hai hay nhiều doanh nghiệp độc lập quyết định kết hợp sức mạnh kinh tế của họ với nhau thành một tổ chức duy nhất thông qua phương thức mua lại, sáp nhập hoặc liên doanh làm ảnh hưởng tiêu cực đến cấu trúc của thị trường, hay để tạo lập, củng cố vị trí thống lĩnh thị trường gây hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể [30, tr.7]. Dưới góc độ pháp lý, theo Điều L430-1, Bộ luật Thương mại Pháp, tập trung kinh tế là “một hoặc nhiều người đã nắm quyền kiểm soát ít nhất một doanh nghiệp hoặc nhiều doanh nghiệp có được quyền kiểm soát đối với toàn bộ hoặc một phần doanh nghiệp khác một cách trực tiếp hoặc gián tiếp, bằng cách góp vốn mua cổ phần, giao kết hợp đồng hoặc mọi hình thức khác” [26, tr.20]. Luật Cạnh tranh Việt Nam năm 2004 không đưa ra khái niệm cụ thể mà quy định theo cách liệt kê các hành vi được coi là tập trung kinh tế. Theo đó, khoản 3 Điều 3 khẳng định tập trung kinh tế là hành vi hạn chế cạnh tranh, Điều 16 quy định tập trung kinh tế là hành vi của doanh nghiệp bao gồm: sáp nhập doanh nghiệp; hợp nhất doanh nghiệp; mua lại doanh nghiệp; liên doanh giữa các doanh nghiệp; các hành vi tập trung khác theo quy định của pháp luật [37]. Từ đó, hành vi tập trung kinh tế có những đặc trưng: chủ thể của tập trung kinh tế là các doanh nghiệp hoạt động trên thị trường; sáp nhập, hợp nhất, mua lại và liên doanh giữa các doanh nghiệp; hậu quả của tập trung kinh tế là việc hình thành các tập đoàn kinh tế, thay đổi cấu trúc thị trường và tương quan cạnh tranh trên thị trường. Quá trình tập trung kinh tế có thể được diễn ra theo những cách sau: + Liên kết ngang là hình thức liên kết giữa các doanh nghiệp cùng ngành nghề, cùng lĩnh vực kinh doanh; + Liên kết dọc là hình thức liên kết giữa các doanh nghiệp theo các khâu, các công đoạn của quá trình sản xuất kinh doanh; 14