Luận văn Chế tài đối với các hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo pháp luật Việt Nam
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Chế tài đối với các hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo pháp luật Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_che_tai_doi_voi_cac_hanh_vi_canh_tranh_khong_lanh_m.pdf
Nội dung text: Luận văn Chế tài đối với các hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo pháp luật Việt Nam
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT QUÁCH THỊ HƯƠNG GIANG CHẾ TÀI ĐỐI VỚI CÁC HÀNH VI CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2011
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT QUÁCH THỊ HƯƠNG GIANG CHẾ TÀI ĐỐI VỚI CÁC HÀNH VI CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM Chuyên ngành : Luật kinh tế Mã số : 60 38 50 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Ngô Huy Cương HÀ NỘI - 2011
- MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục MỞ ĐẦU 1 Chương 1: KHÁI LUẬN VỀ CHẾ TÀI ĐỐI VỚI HÀNH VI CẠNH 6 TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH 1.1. Khái niệm chế tài đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh 6 1.1.1. Khái niệm hành vi cạnh tranh không lành mạnh 6 1.1.2. Khái niệm, vai trò của chế tài đối với hành vi cạnh tranh 13 không lành mạnh 1.2. Căn cứ áp dụng chế tài đối với hành vi cạnh tranh không 20 lành mạnh 1.2.1. Hành vi cạnh tranh không lành mạnh 20 1.2.2. Thiệt hại trong cạnh tranh không lành mạnh 21 1.2.3. Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi cạnh tranh không lành 22 mạnh và thiệt hại 1.2.4. Lỗi trong cạnh tranh không lành mạnh 23 1.3. Các hình thức chế tài đối với hành vi cạnh tranh không 25 lành mạnh 1.3.1. Chế tài hành chính 25 1.3.2. Chế tài hình sự 27 1.3.3. Chế tài dân sự 32 1.3.4. Mối quan hệ giữa các hình thức chế tài 36
- Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ CHẾ TÀI 41 ĐỐI VỚI CÁC HÀNH VI CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH 2.1. Nguồn của pháp luật về chế tài đối với hành vi cạnh tranh 41 không lành mạnh 2.1.1. Luật Cạnh tranh 41 2.1.2. Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính 42 2.1.3. Bộ luật Dân sự 43 2.1.4. Bộ luật Hình sự 43 2.2. Thực trạng áp dụng chế tài đối với hành vi cạnh tranh 48 không lành mạnh tại Việt Nam 2.2.1. Thực tiễn cạnh tranh không lành mạnh và vấn đề xử lý vi 49 phạm ở Việt Nam hiện nay 2.2.1.1. Thực tiễn cạnh tranh không lành mạnh trên thị trường Việt Nam 49 2.2.1.2. Thực tiễn áp dụng các chế tài xử lý hành vi cạnh tranh 74 không lành mạnh ở nước ta trong thời gian gần đây 2.2.2. Nguyên nhân của việc xử lý hành vi cạnh tranh không lành 80 mạnh còn kém hiệu quả ở nước ta hiện nay Chương 3: KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VIỆT NAM 89 VỀ CHẾ TÀI ĐỐI VỚI VỚI HÀNH VI CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH 3.1. Yêu cầu hoàn thiện và nâng cao hiệu quả của pháp luật 89 chống cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam 3.1.1. Yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa 89 3.1.2. Yêu cầu hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới 91 3.2. Những định hướng phát triển và hoàn thiện pháp luật về chế 94 tài đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam
- 3.2.1. Xu hướng pháp luật và việc sử dụng các chế tài đối với hành 94 vi cạnh tranh không lành mạnh của các nước trên thế giới 3.2.2. Định hướng hoàn thiện pháp luật về chế tài đối với những 98 hành vi cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam 3.3. Những kiến nghị cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật Việt 99 Nam về chế tài đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh 3.3.1. Hoàn thiện thể chế pháp lý, thiết lập chế tài đối với hành vi 99 cạnh tranh không lành mạnh một cách có hệ thống và đồng bộ 3.3.2. Nâng cao năng lực của Nhà nước trong việc quản lý hoạt 108 động cạnh tranh và thực thi pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh 3.3.3. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục nhằm nâng cao 109 văn hoá pháp lý cho các chủ thể tham gia cạnh tranh và người tiêu dùng KẾT LUẬN 110 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 113
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong bối cảnh hội nhập kinh tế thế giới, phát triển nền kinh tế thị trường, đòi hỏi pháp luật giữa các nước phải có những chuẩn mực tương đồng cần thiết để đảm bảo quyền tự do kinh doanh và trật tự kinh doanh trong giao lưu kinh tế quốc tế. Để đáp ứng yêu cầu hội nhập sâu vào nền kinh tế quốc tế, Việt Nam đang dần hoàn thiện thể chế pháp lý, tạo ra khung pháp lý cơ bản của thị trường, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp hợp tác và phát triển. Một trong những quy luật kinh tế khách quan tác động mạnh mẽ lên sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp là quy luật cạnh tranh. Đó cũng là đòn bẩy, là động lực thúc đẩy các doanh nghiệp khai thác và sử dụng tiềm năng, nội lực của mình cùng với các yếu tố của thị trường một cách có hiệu quả. Cạnh tranh trong kinh doanh là quyền cơ bản của các chủ thể kinh doanh trên thị trường và được pháp luật bảo hộ. Nhưng trong "cuộc chiến" tranh giành thị trường, không thể tránh khỏi tình trạng một số doanh nghiệp bị đào thải do không kịp thích ứng hoặc không thể đối phó. Vì thế, bên cạnh những "nghệ thuật" cạnh tranh, các doanh nghiệp cũng không loại trừ "thủ thuật". Hậu quả do các hành vi cạnh tranh không lành mạnh gây ra không chỉ ảnh hưởng đến lợi ích kinh tế của các chủ thể kinh doanh, mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi ích của người tiêu dùng và trật tự quản lý kinh tế của Nhà nước. Điều 28 Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 (sửa đổi) đã khẳng định: "Mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh bất hợp pháp, mọi hành vi phá hoại nền kinh tế quốc dân, làm thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể và của công dân đều bị xử lý nghiêm minh theo pháp luật. Nhà nước có chính sách bảo hộ quyền lợi của người sản xuất và người tiêu dùng". Ngày 03 tháng 12 năm 2004, Luật Cạnh tranh đã được Quốc hội thông qua và có hiệu lực từ ngày 01 tháng 6 năm 1
- 2005. Với tư cách là công cụ pháp lý được sử dụng để loại bỏ các biểu hiện không lành mạnh trên thị trường, điều chỉnh mặt trái của cạnh tranh, đạo luật này có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ sự lành mạnh và khả năng phát triển của nền kinh tế trong nước, bảo vệ quyền tự do kinh doanh, tạo lập môi trường kinh doanh bình đẳng, không phân biệt đối xử, khuyến khích các chủ thể kinh doanh cạnh tranh lành mạnh nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh và thúc đẩy tiến trình toàn cầu hoá diễn ra nhanh chóng, hiệu quả. Luật Cạnh tranh đã pháp điển hoá các quy định về hành vi cạnh tranh không lành mạnh và đã có những quy định xử lý vi phạm pháp luật về cạnh tranh. Tuy nhiên, sau hơn 5 năm thực hiện, Luật Cạnh tranh vẫn chưa đạt được hiệu quả như mong muốn. Với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, sự đa dạng hoá của các thành phần kinh tế cùng với việc hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế khu vực và thế giới, nhiều hành vi cạnh tranh không lành mạnh đã phát sinh mà chưa có biện pháp đấu tranh có hiệu quả. Các chế tài vẫn chưa đủ mạnh để kiểm soát và loại bỏ các hành vi cạnh tranh không lành mạnh của các chủ thể kinh doanh. Luật Cạnh tranh năm 2004 được đánh giá là một đạo luật thiếu chế tài đối với từng hành vi vi phạm cụ thể. Chế tài xử lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh vẫn nằm rải rác ở các văn bản pháp luật khác nhau, kể cả các văn bản dưới Luật. Thực tế đó đã dẫn đến tình trạng cạnh tranh không lành mạnh vẫn biểu hiện ở khía cạnh này, khía cạnh khác, dưới dạng này, dạng khác, đã gây ra nhiều tranh chấp trong giới kinh doanh và ảnh hưởng đến trật tự quản lý kinh tế của Nhà nước. Vì thế, việc nghiên cứu và luận giải các hành vi cạnh tranh không lành mạnh cùng với các quy định về chế tài xử lý vi phạm là rất cần thiết, qua đó định hướng các giải pháp đảm bảo hoàn thiện pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh theo hướng thiết lập các chế tài phù hợp, đầy đủ, thống nhất và đủ tính nghiêm khắc. Đó cũng là lý do mà tôi lựa chọn đề tài "Chế tài đối với các hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo pháp luật Việt Nam" để nghiên cứu và làm luận văn thạc sỹ Luật học của mình. 2
- 2. Tình hình nghiên cứu Kể từ khi Luật Cạnh tranh năm 2004 được ban hành và có hiệu lực đến nay, đã hơn 5 năm thực hiện. Vì thế, sự quan tâm của các nhà nghiên cứu trong giới luật học và giới kinh doanh về vấn đề đó cũng không phải là ít. Đã có nhiều công trình nghiên cứu và nhiều bài viết về pháp luật cạnh tranh nói chung và chống cạnh trạnh không lành mạnh nói riêng như: Pháp luật cạnh tranh tại Việt Nam (Sách chuyên khảo) - NXB Tư pháp - TS. Lê Danh Vĩnh, Hoàng Xuân Bắc, ThS. Nguyễn Ngọc Sơn; Nâng cao năng lực cạnh tranh và bảo hộ sản xuất trong nước - NXB Lao động - PTS. Lê Đăng Doanh, ThS. Nguyễn Thị Kim Dung, PTS. Trần Hữu Hân; Pháp luật về chống cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam - NXB Chính trị Quốc gia - TS. Lê Anh Tuấn; Bình luận khoa học Luật Cạnh Tranh - NXB Chính trị Quốc gia - TS. Lê Hoàng Oanh; Luận văn thạc sỹ Luật học "Xây dựng pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam hiện nay", năm 2004 của Nguyễn Thị Thu Hiền Các bài đăng trên tạp chí như: "Thực thi pháp luật cạnh tranh trong viễn thông: Hiểu thế nào cho đúng?" của TS. Phan Thảo Nguyên, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 12(224)/2006; "Về thoả thuận hạn chế cạnh tranh" của tác giả Trần Thị Nguyệt, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 1(237)/2008; "Hoàn thiện các quy định pháp luật về cạnh tranh của các tổ chức có hoạt động ngân hàng trong bối cảnh hội nhập quốc tế nhìn từ góc độ những bất cập và yêu cầu đặt ra", của tác giả Viên Thế Giang, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 4(240)/2008; "Bàn về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước khi có hành vi gây thiệt hại cho môi trường cạnh tranh" của TS. Dương Anh Sơn và ThS. Nguyễn Ngọc Sơn, Tạp chí Khoa học pháp lý số 1(50)/2009 Tuy nhiên, các công trình và các bài viết nêu trên chỉ tiếp cận ở góc độ khái quát về khoa học pháp lý đối với quan hệ cạnh tranh nói chung và chống cạnh tranh không lành mạnh nói riêng, hoặc nghiên cứu quan hệ cạnh tranh trong từng lĩnh vực, dưới những góc độ khác nhau. Nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu một cách tổng thể và chuyên sâu về các chế tài xử lý vi phạm 3
- pháp luật cạnh tranh, đánh giá những bất cập của hệ thống các chế tài và cơ chế đảm bảo thực hiện để đề xuất các biện pháp hoàn thiện pháp luật nhằm ngăn chặn và xoá bỏ các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong các quan hệ kinh tế đang diễn ra trên thị trường Việt Nam hiện nay. Đề tài "Chế tài đối với các hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo quy định của pháp luật Việt Nam" có thể xem là công trình chuyên khảo đầu tiên, với cấp độ là Luận văn thạc sỹ Luật học. 3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu Luận văn đi sâu nghiên cứu các hành vi cạnh tranh không lành mạnh và các chế tài xử lý vi phạm pháp luật về cạnh tranh theo quy định của pháp luật Việt Nam, đánh giá thực tiễn thi hành pháp luật cạnh tranh và chống cạnh tranh không lành mạnh. Từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam về chế tài đối với các hành vi cạnh tranh không lành mạnh, góp phần đấu tranh chống vi phạm pháp luật trong hoạt động kinh doanh - thương mại. Với mục đích đó, đề tài xác định nhiệm vụ là: - Làm rõ lý luận về chế tài đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh nhằm xây dựng môi trường kinh doanh trong sạch, bình đẳng, bảo vệ quyền tự do kinh doanh và quyền lợi của người tiêu dùng. - Phân tích và đánh giá những quy định của pháp luật hiện hành về chế tài đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh; thực tiễn cạnh tranh không lành mạnh ở nước ta và vấn đề xử lý vi phạm. - Đề xuất phương hướng và những giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam về chế tài đối với các hành vi cạnh tranh không lành mạnh phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh thực tế của nước ta và xu thế hội nhập kinh tế quốc tế. Phạm vi nghiên cứu của Luận văn là những vấn đề lý luận và thực tiễn của khoa học pháp lý đối với các quan hệ cạnh tranh, đi sâu phân tích các 4
- hành vi cạnh tranh không lành mạnh và các chế tài xử lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trên thị trường Việt Nam, làm cơ sở để hoàn thiện pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh của nước ta. 4. Phương pháp nghiên cứu Đề tài được nghiên cứu dựa trên phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Ngoài ra, còn sử dụng phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp và đánh giá, kết hợp so sánh, đối chiếu với pháp luật cạnh tranh của một số nước trên thế giới để đưa ra kiến nghị và giải pháp mang tính thực tiễn và khả thi. 5. Đóng góp của đề tài Từ việc nghiên cứu lý luận và thực tiễn thi hành pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh ở nước ta, đánh giá về hiệu quả của các chế tài xử lý vi phạm pháp luật cạnh tranh trong quá trình áp dụng, so sánh với pháp luật một số nước trên thế giới, từ đó góp phần hoàn thiện pháp luật về chế tài xử lý vi phạm, các giải pháp hạn chế, tiến tới xoá bỏ các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trên thị trường Việt Nam, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, công bằng, đẩy nhanh tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Khái luận về chế tài đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Chương 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam về chế tài đối với các hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Chương 3: Kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam về chế tài đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh. 5
- Chương 1 KHÁI LUẬN VỀ CHẾ TÀI ĐỐI VỚI HÀNH VI CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH 1.1. KHÁI NIỆM CHẾ TÀI ĐỐI VỚI HÀNH VI CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH 1.1.1. Khái niệm hành vi cạnh tranh không lành mạnh Cạnh tranh là một hiện tượng xã hội diễn ra trên thị trường giữa các chủ thể kinh doanh với nhau, biểu hiện về mặt hình thức là sự ganh đua, kình địch giữa các doanh nghiệp nhằm mục đích tranh giành thị trường mua hoặc bán sản phẩm. Cạnh tranh là sức mạnh mà hầu hết các nền kinh tế thị trường dựa vào để đảm bảo rằng các doanh nghiệp thoả mãn được các nhu cầu và mong muốn của người tiêu dùng. Khi có cạnh tranh, không một chính phủ nào cần phải quy định các doanh nghiệp sản xuất mặt hàng gì, với số lượng, chất lượng và giá cả như thế nào. Quan hệ cạnh tranh trực tiếp quy định những vấn đề đó với các doanh nghiệp. Như vậy, cạnh tranh chỉ tồn tại trong nền kinh tế thị trường. Hành vi cạnh tranh được các doanh nghiệp thực hiện để đạt được một mục đích kinh tế đã xác định (thường là "cung" hàng hoá hoặc dịch vụ đáp ứng những nhu cầu tương tự hoặc gần nhau), thông qua việc lôi cuốn khách hàng của nhau. Nói cách khác, ý nghĩa của cạnh tranh là đảm bảo quyền chọn lựa của khách hàng. Dù là một nhà máy lọc dầu mua dầu thô, một dây chuyền các trạm xăng mua xăng hay một cá nhân người lái xe muốn đổ đầy bình xăng của mình, nếu học được cách chọn lựa các nhà cung cấp khác nhau thì họ sẽ có nhiều khả năng mua được những sản phẩm có chất lượng cao và giá cả hợp lý nhất. Vì vậy, yếu tố quan trọng khi xác định hành vi cạnh tranh là "khách hàng thường xuyên", đó là khách hàng chung của các doanh nghiệp cạnh tranh. Việc 6
- mất đi một khách hàng thường xuyên được coi là một dạng thiệt hại trong cạnh tranh, do đó các doanh nghiệp đã tìm mọi cách để hạn chế thiệt hại này. Tuy nhiên, việc lôi cuốn khách hàng của nhau bằng những biện pháp cạnh tranh bình đẳng, không phân biệt đối xử, mới được pháp luật thừa nhận và bảo hộ. Nói cách khác, các doanh nghiệp có quyền sử dụng tất cả các biện pháp mà pháp luật không cấm để thu hút, lôi kéo khách hàng về phía mình. Trong trường hợp đó, doanh nghiệp bị thiệt hại do mất đi một lượng khách hàng thường xuyên sẽ không có căn cứ pháp lý để khởi kiện đòi bồi thường thiệt hại đối với doanh nghiệp đối thủ. Luật Cạnh tranh của Việt Nam cũng ghi nhận quyền cạnh tranh trong kinh doanh phù hợp với quy định của Hiến pháp năm 1992 về quyền tự do kinh doanh và phù hợp với Luật Thương mại năm 2005 điều chỉnh trực tiếp các hoạt động thương mại trên thị trường Việt Nam. Để đảm bảo cho hoạt động cạnh tranh được diễn ra một cách khách quan trên thị trường nhưng trong khuôn khổ pháp luật, các Chính phủ chỉ tác động bằng các chính sách cạnh tranh cơ bản như: Các quy định về an toàn và sức khoẻ; Bảo vệ người tiêu dùng và chống cạnh tranh không công bằng, lừa dối hoặc thiếu đạo đức đối với người tiêu dùng; Bảo vệ quyền cạnh tranh, chống các hoạt động độc quyền để đảm bảo sự cạnh tranh thực sự giữa các doanh nghiệp Các quy định điều chỉnh hành vi cạnh tranh không lành mạnh là một nội dung quan trọng trong pháp luật cạnh tranh. Dưới góc độ pháp lý, cạnh tranh không lành mạnh được pháp luật quốc tế và pháp luật của các quốc gia định nghĩa khác nhau. Theo Công ước Paris về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp năm 1883 thì bất cứ hành vi cạnh tranh nào trái với hoạt động thực tiễn trung thực, thiện chí trong lĩnh vực công nghiệp và thương mại đều bị coi là hành vi cạnh tranh không lành mạnh (Điều 10bis - được bổ sung vào Công ước từ năm 1900 và được sửa đổi lần cuối theo văn bản Stockholm năm 1967). Như vậy, tiêu chí đánh giá tính lành mạnh hay không lành mạnh của Công ước về hành vi cạnh tranh là "hoạt động thực tiễn trung thực, thiện chí". 7
- Đó là một tiêu chí khó định lượng và có thể thay đổi, có những khác biệt giữa các quốc gia, phụ thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội, quan niệm, tập quán Tại Bỉ và Luxembourg, tiêu chí đó là "thông lệ thương mại trung thực"; tại Tây Ban Nha và Thuỵ Sĩ là "nguyên tắc ngay tình"; tại Italia là "tính chuyên nghiệp đúng đắn"; tại Đức, Hy Lạp và Ba Lan là "đạo đức kinh doanh". Luật Cạnh tranh của Mông Cổ quy định, hành vi cạnh tranh không lành mạnh bao gồm tất cả các hành vi xâm hại tới hoạt động cạnh tranh trên thị trường, xâm hại tới quyền tự do cạnh tranh công bằng của các doanh nghiệp. Luật Chống cạnh tranh không lành mạnh của Cộng hoà liên bang Đức năm 1909 (sửa đổi lần cuối cùng ngày 23/7/2002) lại quy định: "Người nào trong giao dịch kinh doanh vì mục đích cạnh tranh mà thực hiện các hành vi trái với thuần phong mỹ tục, thì có thể bị yêu cầu chấm dứt hành vi vi phạm và bồi thường thiệt hại". Luật chống cạnh tranh không lành mạnh của Trung Quốc xác định cạnh tranh không lành mạnh là các hoạt động của doanh nghiệp, của các chủ thể kinh doanh thực hiện trái pháp luật, gây thiệt hại cho quyền lợi chính đáng của doanh nghiệp khác, làm rối loạn trật tự kinh tế - xã hội. Luật Cạnh tranh của Việt Nam đưa ra định nghĩa: Hành vi cạnh tranh không lành mạnh là hành vi cạnh tranh của doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh trái với các chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh, gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác hoặc người tiêu dùng [42, Khoản 4, Điều 3]. Đó là dạng hành vi có tác động trực tiếp và gây hậu quả xấu đối với hoạt động kinh doanh bình thường của các doanh nghiệp và quyền lợi hợp pháp của người tiêu dùng. Tại Điều 39 của đạo luật này cũng đã liệt kê một số loại hành vi được coi là cạnh tranh không lành mạnh như: chỉ dẫn gây nhầm lẫn; xâm phạm bí mật kinh doanh; ép buộc trong kinh doanh; gièm pha doanh nghiệp khác; gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác; quảng cáo nhằm cạnh tranh 8
- không lành mạnh; khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh; phân biệt đối xử của hiệp hội; bán hàng đa cấp bất chính và các hành vi cạnh tranh không lành mạnh khác theo tiêu chí xác định tại Khoản 4, Điều 3 của Luật Cạnh tranh. Dựa vào các khái niệm về hành vi cạnh tranh không lành mạnh nói trên, có thể phân chia hành vi cạnh tranh không lành mạnh dưới góc độ xem xét lợi ích của chủ thể bị xâm hại, gồm: hành vi xâm hại lợi ích của đối thủ cạnh tranh và hành vi xâm phạm lợi ích của khách hàng. Cho dù có nhiều cách hiểu khác nhau nhưng bản chất pháp lý của hành vi cạnh tranh không lành mạnh là hành vi trái với các chuẩn mực trung thực, lành mạnh trong quan hệ thương mại, gây thiệt hại chủ yếu đến doanh nghiệp là đối thủ cạnh tranh trên thị trường liên quan. Dưới góc độ kinh tế, "bản chất của hành vi cạnh tranh không lành mạnh là các hành vi chiếm đoạt ưu thế cạnh tranh của doanh nghiệp khác một cách bất hợp pháp hoặc là hành vi huỷ hoại ưu thế cạnh tranh của doanh nghiệp khác hoặc là hành vi tạo ra ưu thế cạnh tranh giả tạo" [29]. Từ các khái niệm về hành vi cạnh tranh không lành mạnh, có thể thấy hành vi cạnh tranh không lành mạnh có một số đặc điểm cơ bản sau: Thứ nhất, chủ thể thực hiện hành vi cạnh tranh không lành mạnh là các chủ thể kinh doanh trên thương trường. Điều 2 của Luật Cạnh tranh đã xác định rõ đối tượng áp dụng của Luật này là các tổ chức, cá nhân kinh doanh (gọi chung là doanh nghiệp) thuộc mọi thành phần kinh tế khác nhau, bao gồm doanh nghiệp sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích, doanh nghiệp hoạt động trong các ngành, lĩnh vực thuộc độc quyền nhà nước và doanh nghiệp nước ngoài hoạt động ở Việt Nam cũng như các hiệp hội ngành nghề hoạt động ở Việt Nam. Đặc điểm này phản ánh phạm vi đối tượng thực hiện các hành vi cạnh tranh và cạnh tranh không lành mạnh, xảy ra trong mọi lĩnh vực kinh tế, trên tất cả các khâu, các công đoạn của quá trình sản xuất, kinh doanh. Trên thị trường cạnh tranh, hành vi kinh doanh của bất kỳ doanh nghiệp nào cũng là hành vi 9
- cạnh tranh trong mối quan hệ tương quan với doanh nghiệp khác. Mặt khác, hoạt động kinh doanh là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi và được thực hiện trên thị trường. Như vậy, hành vi cạnh tranh không lành mạnh phải là những hành vi được các doanh nghiệp thực hiện trên thị trường, trái với các chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh và được thực hiện nhằm mục đích sinh lợi. Tuy nhiên, quy định của Luật Cạnh tranh đã không có sự thống nhất. Như đã trích dẫn ở trên, chủ thể thực hiện các hành vi cạnh tranh không lành mạnh bao gồm các doanh nghiệp và các hiệp hội ngành nghề hoạt động ở Việt Nam. Nhưng định nghĩa về hành vi cạnh tranh không lành mạnh lại nêu: "Hành vi cạnh tranh không lành mạnh là hành vi cạnh tranh của doanh nghiệp", nghĩa là đã loại bỏ mất một đối tượng chủ thể của hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Trong khi đó, hành vi cạnh tranh không lành mạnh được liệt kê bao gồm cả hành vi phân biệt đối xử của hiệp hội. Thứ hai, hành vi cạnh tranh không lành mạnh là những hành vi trái với các chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh. Đặc điểm này cho thấy bản chất không lành mạnh của hành vi và dựa vào đó để làm cơ sở phân biệt giữa cạnh tranh lành mạnh với cạnh tranh không lành mạnh trên thị trường. Trong khái niệm về hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo quy định của Luật Cạnh tranh Việt Nam không nêu rõ biểu hiện khách quan của hành vi vì các thủ thuật cạnh tranh được các doanh nghiệp thực hiện trên thực tế rất đa dạng, tinh vi, có thể là những hành vi gây nhầm lẫn, gian dối, gièm pha, gây rối Nhưng lại trích dẫn một điều luật khác để liệt kê các hành vi được xác định là cạnh tranh không lành mạnh. Tuy nhiên, trong thực tiễn áp dụng, pháp luật cần phải có những quy định cụ thể để nhận diện từng hành vi. Để xác định một hành vi cạnh tranh là không lành mạnh, phải căn cứ vào "các chuẩn mực thông thường về đạo đức trong kinh doanh". Đạo đức kinh doanh là một phạm trù dùng để chỉ những yêu cầu, đòi hỏi còn cao hơn 10
- cả những vấn đề liên quan đến nghĩa vụ pháp lý. Những hành vi như trốn thuế, lừa đảo, làm hàng giả, gây thiệt hại cho doanh nghiệp khác bằng cách làm ăn gian dối không thuộc đối tượng điều chỉnh của đạo đức học kinh doanh, vì đó là những hành vi bất chính thuộc phạm vi kiểm soát và xử lý của pháp luật. Đạo đức kinh doanh là những quy tắc xử sự, những tập quán kinh doanh đã được thừa nhận rộng rãi trong đời sống kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, đây là một căn cứ khó định lượng, đòi hỏi pháp luật phải thường xuyên bổ sung, điều chỉnh cho phù hợp với sự vận động của đời sống xã hội, trong những điều kiện lịch sử cụ thể. Vì vậy, quan niệm về hành vi cạnh tranh không lành mạnh ở mỗi quốc gia có thể khác nhau, liên quan đến các phạm trù kinh tế, xã hội, đạo đức của một xã hội nhất định. Các nhà doanh nghiệp Mỹ tiếp cận các vấn đề đạo đức dựa trên nền tảng của các lý thuyết duy lợi (utilitarism) và thực dụng (pragmatism). Mục tiêu của đạo đức kinh doanh là chủ yếu tạo dựng hình ảnh uy tín của doanh nghiệp và đạt đến những hiệu quả cao hơn cho doanh nghiệp. Trong khi đó, ở Châu Âu, cách tiếp cận đối với vấn đề đạo đức và trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp thường nằm giữa thái độ lý tưởng và thái độ thực dụng, người ta coi đạo đức như là một vấn đề nằm ngay trong bản thân hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đối với nền kinh tế thị trường chưa phát triển như ở Việt Nam thì các thông lệ, tập quán thương mại chưa đủ thời gian và trình độ để tạo thành các chuẩn mực đạo đức kinh doanh, được chấp nhận và thực hiện thống nhất như những quy tắc có tính bắt buộc. Thứ ba, hành vi cạnh tranh không lành mạnh gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác hoặc của người tiêu dùng. Quyền tự do kinh doanh đã được Hiến pháp 1992 ghi nhận tại Điều 57 và cạnh tranh là một bộ phận cấu thành nên nội hàm của quyền tự do kinh 11
- doanh. Điều 4 Luật Cạnh tranh quy định: "Doanh nghiệp được tự do kinh doanh trong khuôn khổ pháp luật. Nhà nước bảo hộ quyền cạnh tranh hợp pháp trong kinh doanh". Tất nhiên, để được Nhà nước bảo hộ, việc cạnh tranh đó phải thực hiện trên nguyên tắc trung thực, không xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp, của người tiêu dùng và phải tuân theo các quy định của Luật Cạnh tranh. Như vậy, khi một hành vi cạnh tranh được thực hiện nhưng không theo nguyên tắc nói trên, xâm hại đến lợi ích của Nhà nước, của doanh nghiệp khác hoặc của người tiêu dùng, thì hành vi cạnh tranh đó được coi là không lành mạnh. Thiệt hại mà hành vi gây ra có thể là đã có thực và xác định được nhưng cũng có thể là thiệt hại có nguy cơ xảy ra (tiềm năng) nếu không có biện pháp ngăn chặn kịp thời. Pháp luật cạnh tranh của Đức cấm "các hành vi cạnh tranh không lành mạnh có thể gây ảnh hưởng đáng kể về cạnh tranh làm tổn hại đến đối thủ cạnh tranh, người tiêu dùng và các chủ thể tham gia thị trường khác" [8]. Pháp luật của Thái Lan cũng có quy định tương tự: "thương nhân không được tiến hành các hoạt động cạnh tranh không tự do và không bình đẳng, không được tiến hành các hoạt động gây thiệt hại, cản trở hoặc hạn chế đối với những hoạt động của những thương nhân khác " [7]. Đặc điểm này giúp chúng ta phân biệt giữa hành vi cạnh tranh không lành mạnh với các thoả thuận hạn chế cạnh tranh. Thoả thuận hạn chế cạnh tranh là sự thống nhất hành động của nhóm doanh nghiệp nhằm giảm bớt hoặc loại bỏ đối thủ cạnh tranh, hạn chế khả năng hành động độc lập của đối thủ cạnh tranh, làm thay đổi tình trạng và quy luật cạnh tranh trên thị trường. Theo pháp luật cạnh tranh của Cộng hoà Pháp, "các dạng thoả thuận minh bạch hoặc thoả thuận ngầm có nội dung gây hậu quả ngăn cản, hạn chế hoặc làm sai lệch quy luật cạnh tranh trên thị trường đều bị nghiêm cấm" [2]. Luật Cạnh tranh của Liên minh Châu Âu cũng có quy định: 12
- Mọi thoả thuận giữa các doanh nghiệp, mọi quyết định liên kết giữa các doanh nghiệp và mọi loại thoả thuận khác có khả năng điều chỉnh quan hệ thương mại giữa các quốc gia thành viên và có đối tượng hoặc hệ quả ngăn cản, hạn chế hoặc làm sai lệch quy luật cạnh tranh trên thị trường chung của liên minh, thì đều bị nghiêm cấm [1]. Đối với hành vi thoả thuận hạn chế cạnh tranh, không cần phải xác định chính xác đối tượng và mức độ thiệt hại vật chất cụ thể, chỉ cần phân tích bản chất và diễn biến của hành vi để kết luận về những tác động của nó đến tình hình cạnh tranh trên thị trường liên quan. 1.1.2. Khái niệm, vai trò của chế tài đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh Cạnh tranh là một trong những quy luật kinh tế cơ bản, khách quan của nền kinh tế thị trường. Những điều kiện đảm bảo cho cạnh tranh tự do, công bằng chính là những giải pháp quan trọng đảm bảo cho môi trường đầu tư kinh doanh lành mạnh, trật tự kỷ cương quản lý kinh tế của Nhà nước. Tuy nhiên, cạnh tranh luôn là chiến lược gây nhiều áp lực cho các doanh nghiệp trên thương trường. Không phải lúc nào doanh nghiệp cũng sử dụng các biện pháp công bằng, bình đẳng và lành mạnh để chống lại đối thủ cạnh tranh, thu hút hệ thống khách hàng, chiếm lĩnh thị trường, thu nhiều lợi nhuận, duy trì sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Trong thực tế kinh doanh, đã không ít doanh nghiệp sử dụng các thủ đoạn cạnh tranh bị coi là "chơi xấu", gây phương hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của các doanh nghiệp khác và tác động xấu đến trật tự quản lý kinh tế của Nhà nước. Trong những trường hợp đó, nếu các doanh nghiệp bị thiệt hại chứng minh được tổn thất của mình là do hành vi cạnh tranh không lành mạnh của đối thủ gây ra thì có thể yêu cầu cơ quan có thẩm quyền áp dụng các biện pháp chế tài đối với bên vi phạm. 13
- Luật Thương mại lành mạnh và những quy định về độc quyền của Hàn Quốc quy định cụ thể các chế tài áp dụng đối với từng hành vi vi phạm nhất định liên quan đến cạnh tranh, bao gồm: đình chỉ hành vi, công bố công khai về hành vi vi phạm, phạt tiền, bồi thường thiệt hại hoặc phạt tù. Theo Luật Cạnh tranh Thổ Nhĩ Kỳ, mọi thoả thuận, hành vi cấu kết của các doanh nghiệp, các quyết định và hành vi của các hiệp hội doanh nghiệp có tác động hoặc ảnh hưởng gây kìm hãm, bóp méo hoặc hạn chế cạnh tranh trên thị trường hàng hoá hoặc dịch vụ một cách trực tiếp hay gián tiếp, đều là bất hợp pháp và bị nghiêm cấm. Khi xảy ra hành vi vi phạm, cơ quan có thẩm quyền sẽ yêu cầu doanh nghiệp hoặc hiệp hội doanh nghiệp chấm dứt hành vi vi phạm, thông báo về các biện pháp tiến hành hay không tiến hành để duy trì cạnh tranh và khôi phục lại tình trạng như trước khi có hành vi vi phạm; buộc nộp phạt, bồi thường thiệt hại. Về vấn đề chống độc quyền và cạnh tranh tự do, Luật Cạnh tranh thương mại của Vương quốc Thái Lan quy định: Trong trường hợp thương nhân vi phạm các quy định của Luật này, cơ quan có thẩm quyền quản lý cạnh tranh có quyền ra lệnh bằng văn bản hướng dẫn thương nhân tạm hoãn, đình chỉ hoặc điều chỉnh lại các hoạt động; bị phạt tù không quá 3 năm và bị phạt tiền không quá 6 triệu baht hoặc cả hai, đối với những trường hợp vi phạm nhiều lần thì hình phạt nặng gấp đôi; người bị thiệt hại cũng có quyền yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại. Đối với các trường hợp tiết lộ thông tin số liệu liên quan đến thương nhân hoặc hoạt động của thương nhân bất hợp pháp, thì bị phạt tù không quá một năm hoặc phạt tiền không quá 100.000 baht, hoặc áp dụng cả hai hình thức chế tài đó. Liên quan đến trách nhiệm pháp lý, pháp luật của nhiều quốc gia còn mở rộng đối tượng áp dụng là các cá nhân có trách nhiệm lãnh đạo doanh nghiệp và không loại trừ trách nhiệm hình sự. Luật Chống cạnh tranh không lành mạnh của Nhật Bản quy định hình phạt tối đa đối với các cá nhân vi phạm có thể lên đến 10 năm tù và 10 triệu yªn tiền phạt. 14