Luận văn Chế độ tiền lương tối thiểu ở Việt Nam
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Chế độ tiền lương tối thiểu ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_che_do_tien_luong_toi_thieu_o_viet_nam.pdf
Nội dung text: Luận văn Chế độ tiền lương tối thiểu ở Việt Nam
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT VŨ THỊ LÀ CHẾ ĐỘ TIỀN LƯƠNG TỐI THIỂU Ở VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Hà nội – 2009
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT VŨ THỊ LÀ CHẾ ĐỘ TIỀN LƯƠNG TỐI THIỂU Ở VIỆT NAM Chuyên ngành : Luật Kinh tế Mã số : 603850 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. LÊ THỊ HOÀI THU Hà nội – 2009
- MỤC LỤC Trang Bìa Luận văn Bìa phụ của Luận văn Lời cam đoan Mục lục 1 Mở đầu 3 Chƣơng 1: Khái quát chung về tiền lƣơng, tiền lƣơng tối thiểu 7 1.1 Khái quát chung về tiền lƣơng 7 1.1.1 Khái niệm, bản chất, vai trò và chức năng của tiền lƣơng 7 1.1.2 Các nguyên tắc cơ bản của tiền lƣơng 11 1.2 Khái quát chung về tiền lƣơng tối thiểu 13 1.2.1 Khái niệm tiền lƣơng tối thiểu 13 1.2.2 Ý nghĩa của tiền lƣơng tối thiểu 16 1.2.3 Căn cứ xác định tiền lƣơng tối thiểu 18 1.2.4 Hệ thống tiền lƣơng tối thiểu 23 1.2.5 Các mối quan hệ kinh tế - xã hội của tiền lƣơng tối thiểu 24 trong nền kinh tế thị trƣờng 1.3 Kinh nghiệm thực hiện tiền lƣơng tối thiểu ở một số nƣớc trên 26 thế giới và bài học cho Việt Nam 1.3.1. Tiền lƣơng tối thiểu của Trung Quốc 28 1.3.2. Tiền lƣơng tối thiểu của Thái Lan 31 1.3.3. Tiền lƣơng tối thiểu của Hàn Quốc 33 Chƣơng 2: Chế độ tiền lƣơng tối thiểu trong pháp luật lao 37 động Việt Nam và thực tiễn áp dụng 2.1 Lƣợc sử hình thành và phát triển chế độ tiền lƣơng tối thiểu ở 37 Việt Nam 2.1.1 Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1959 37 2.1.2 Giai đoạn từ năm 1960 đến năm 1985 40 2.1.3 Giai đoạn từ năm 1985 đến 1993 42 2.1.4 Giai đoạn từ 4/1993 đến năm 2004 44 1
- 2.1.5 Giai đoạn từ năm 2004 đến nay 47 2.2 Quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về tiền lƣơng tối 49 thiểu 2.2.1 Tiền lƣơng tối thiểu chung 50 2.2.2 Tiền lƣơng tối thiểu vùng 51 2.2.3 Xử lý vi phạm pháp luật về chế độ tiền lƣơng tối thiểu 54 2.3 Thực tiễn áp dụng chế độ tiền lƣơng tối thiểu ở Việt Nam 55 2.3.1 Tình hình thực hiện chế độ tiền lƣơng tối thiểu chung 55 2.3.2 Tình hình thực hiện chế độ tiền lƣơng tối thiểu vùng 59 2.3.3 Tình hình thực hiện chế độ tiền lƣơng tối thiểu ngành 63 Chƣơng 3: Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả tiền 65 lƣơng tối thiểu ở Việt Nam 3.1 Một số nhận xét chung về chế độ tiền lƣơng tối thiểu ở Việt 65 Nam 3.1.1 Ƣu điểm 65 3.1.2 Hạn chế 67 3.2 Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả của tiền lƣơng tối 69 thiểu 3.2.1 Quan điểm về pháp luật tiền lƣơng tối thiểu trong nền kinh tế 69 thị trƣờng 3.2.2 Cơ chế ba bên trong việc thực hiện tiền lƣơng tối thiểu 72 3.2.3 Xây dựng Luật Tiền lƣơng tối thiểu 74 Kết Luận 85 Tài liệu tham khảo 86 Phần phụ lục 2
- LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài: Tiền lƣơng không chỉ là phạm trù kinh tế mà còn là yếu tố hàng đầu của các chính sách xã hội liên quan trực tiếp tới đời sống của ngƣời lao động. Tiền lƣơng là nguồn sống chủ yếu của ngƣời lao động và gia đình họ. Tiền lƣơng kích thích ngƣời lao động nâng cao năng lực làm việc, phát huy mọi khả năng vốn có để tạo ra năng suất lao động, góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển. Tiền lƣơng còn tác động tích cực đến việc quản lý kinh tế, tài chính, quản lý lao động, kích thích sản xuất. Nhƣ vậy, tiền lƣơng có một vai trò rất lớn không chỉ đối với riêng bản thân ngƣời lao động mà còn đối với cả nền kinh tế đất. Trải qua các thời kỳ, chính sách về tiền lƣơng của Nhà nƣớc đã có những sự thay đổi cho phù hợp. Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay, tình hình lạm phát đang ở mức cao, chính sách tiền lƣơng đang thể hiện nhiều bất cập, đời sống của ngƣời lao động gặp nhiều khó khăn. Đó là nguyên nhân chính dẫn đến hàng loạt các cuộc đình công trong khu vực doanh nghiệp và hiện tƣợng chảy máu chất xám trong khu vực các cơ quan hành chính, sự nghiệp của Nhà nƣớc. Mặt khác, để thực hiện cam kết khi gia nhập WTO nền kinh tế nƣớc ta phải đƣợc vận hành theo nguyên tắc thị trƣờng và không phân biệt đối xử, trong đó chính sách tiền lƣơng phải điều chỉnh cho phù hợp với nguyên tắc này. Tiền lƣơng tối thiểu là một trong các chế độ tiền lƣơng, có vị trí hết sức quan trọng trong hệ thống tiền lƣơng, có ảnh hƣởng tới toàn bộ chính sách tiền lƣơng. Tiền lƣơng tối thiểu không chỉ áp dụng cho lao động giản đơn mà nó còn là khung pháp lý quan trọng, là cơ sở để trả công lao động toàn xã hội. Việc quy định mức lƣơng tối thiểu có ý nghĩa đặc biệt quan trọng không chỉ đối với Nhà nƣớc, các đơn vị sử dụng lao động trong lĩnh vực quản lý, sử dụng lao động mà cả đối với đời sống của ngƣời lao động. Tuy nhiên, trƣớc biến động của tình hình giá cả nhƣ hiện nay, mức tiền lƣơng tối thiểu quy định hiện tại là quá thấp. Mặc dù Nhà nƣớc đã điều chỉnh mức tiền lƣơng tối thiểu hàng năm, song nó vẫn chƣa thực sự phù 3
- hợp với tình hình thực tế, chƣa thực hiện đƣợc chức năng bảo đảm cho ngƣời lao động ở mức sống tối thiểu. Chính vì thế tác giả lựa chọn đề tài “Chế độ tiền lƣơng tối thiểu ở Việt Nam” nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về tiền lƣơng tối thiểu cũng nhƣ thực tiễn áp dụng chế độ tiền lƣơng này, đồng thời luận văn cũng chỉ ra những điểm bất cập của pháp luật cũng nhƣ đƣa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về tiền lƣơng tối thiểu trong hệ thống pháp luật lao động Việt Nam. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài: Tiền lƣơng là một vấn đề rất phức tạp trên thế giới cũng nhƣ ở Việt Nam. Trong thời gian qua, dƣ luận trong nhân dân cũng nhƣ giới nghiên cứu, các nhà lãnh đạo, các nhà quản lý, hoạch định chính sách đã bàn nhiều về vấn đề tiền lƣơng nói chung cũng nhƣ tiền lƣơng tối thiểu nói riêng. Tuy nhiên, các đề tài nghiên cứu về tiền lƣơng hay tiền lƣơng tối thiểu lại chủ yếu đi sâu vào các lĩnh vực cụ thể và dƣới góc độ kinh tế. Chẳng hạn có các đề tài, bài báo sau: + Lê Vĩnh Điển (2005) “Cải cách chế độ tiền lƣơng trong khu vực hành chính của Việt Nam”, Luận án Tiến sỹ kinh tế. + Bộ Lao động, Thƣơng binh và Xã hội (1997) “Xác định Tiền lƣơng tối thiểu chung, tiền lƣơng tối thiểu vùng giai đoạn 1996-2000”, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ. + Viện Khoa học Lao động và Xã hội (2005) “Đánh giá tình hình áp dụng mức tiền lƣơng tối thiểu trong các doanh nghiệp có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài và các giải pháp điều chỉnh”, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ Lao động, Thƣơng binh và Xã hội. + Vụ Tiền lƣơng - Tiền công (2007) “Nghiên cứu hoàn thiện hệ thống văn bản pháp quy về tiền lƣơng đáp ứng yêu cầu hội nhập”, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ Lao động, Thƣơng binh và Xã hội. 4
- + Vụ Tiền lƣơng - Tiền công (2007) “Các nội dung khung làm tiền đề xây dựng Luật Tiền lƣơng tối thiểu”, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ Lao động, Thƣơng binh và Xã hội. + TS. Lê Thanh Hà (2009) “Cần thiết lập cơ chế quản lý tiền lƣơng trong các doanh nghiệp”, Tạp chí Lao động – Xã hội số 361 + Trần Thu Hƣơng (2004) “Tiền lƣơng tối thiểu: Thực trạng và Giải pháp”, Tạp chí Lao động và Xã hội số 247 + PGS.TS.Nguyễn Tiệp (2008) “Tiếp tục hoàn thiện chính sách tiền lƣơng dƣới tác động của WTO và hội nhập quốc tế tầm nhìn đến 2020”, Tạp chí Lao động và Xã hội số 349 Các đề tài và bài báo nói trên đã nêu lên đƣợc thực trạng chế độ tiền lƣơng và tiền lƣơng tối thiểu và đã đƣa ra một số giải pháp nhằm khắc phục những tồn tại, yếu kém trong việc thực hiện chế độ tiền lƣơng hiện hành. Tuy nhiên, các giải pháp này chủ yếu đƣợc đặt ra để giải quyết các vấn đề dƣới góc độ kinh tế. Các công trình nghiên cứu chuyên sâu dƣới góc độ luật học lại rất ít và có thể nói là hầu nhƣ chƣa có. 3. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của luận văn nhằm: - Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về tiền lƣơng tối thiểu - Nghiên cứu, đánh giá các quy định về chế độ tiền lƣơng tối thiểu qua từng thời kỳ lịch sử của Việt Nam và một số nƣớc trên thế giới - Nêu lên những định hƣớng, kiến nghị, các giải pháp cụ thể để nâng cao hiệu quả thực hiện Tiền lƣơng tối thiểu trong thời gian tới. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Đề tài này chủ yếu nghiên cứu các vấn đề liên quan đến chế độ tiền lƣơng tối thiểu nhƣ nghiên cứu lý luận về chế độ tiền lƣơng tối thiểu, lƣợc sử hình thành, đánh giá mặt tích cực và hạn chế đối với các quy định của pháp luật và trong quá trình tổ chức thực hiện tiền lƣơng tối thiểu, nghiên cứu các quy định 5
- của các nƣớc trên thế giới về tiền lƣơng tối thiểu, đƣa ra các định hƣớng, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả của chế độ tiền lƣơng tối thiểu ở Việt Nam. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu: Để đạt đƣợc những mục đích nêu trên, luận văn chủ yếu dựa trên cơ sở phƣơng pháp luận của Triết học Mác –Lê nin, của lý luận chung về nhà nƣớc và pháp luật, đặc biệt là quan điểm, vai trò quyết định của kinh tế đối với pháp luật và vai trò định hƣớng của pháp luật đối với vấn đề tiền lƣơng. Ngoài ra, những phƣơng pháp nghiên cứu cụ thể: logic, lịch sử, phân tích, tổng hợp, so sánh và thống kê đƣợc sử dụng phù hợp với từng mặt, từng lĩnh vực của đề tài. 6. Đóng góp mới của luận văn: Thứ nhất: nghiên cứu, làm rõ những vấn đề lý luận về chế độ tiền lƣơng nói chung và chế độ tiền lƣơng tối thiểu nói riêng Thứ hai: chỉ ra thực trạng, những ƣu nhƣợc điểm của chế độ tiền lƣơng tối thiểu hiện hành, những kinh nghiệm của một số nƣớc trong việc thực hiện tiền lƣơng tối thiểu và rút ra bài học cho Việt Nam Thứ ba: Đƣa ra đƣợc những quan điểm, định hƣớng nhằm hoàn thiện chế độ tiền lƣơng tối thiểu ở Việt Nam. 7. Kết cấu của luận văn: Ngoài mục lục, lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, Luận văn gồm 3 chƣơng: Chƣơng 1: Khái quát chung về chế độ tiền lƣơng, tiền lƣơng tối thiểu Chƣơng 2: Chế độ Tiền lƣơng tối thiểu trong pháp luật lao động Việt Nam và thực tiễn áp dụng Chƣơng 3: Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả tiền lƣơng tối thiểu ở Việt Nam 6
- CHƢƠNG 1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TIỀN LƢƠNG, TIỀN LƢƠNG TỐI THIỂU 1.1 Khái quát chung về tiền lƣơng 1.1.1 Khái niệm, bản chất, vai trò và chức năng của tiền lƣơng 1.1.1.1 Khái niệm và bản chất của tiền lƣơng Tiền lƣơng không chỉ là phạm trù kinh tế mà còn là yếu tố hàng đầu của các chính sách xã hội có liên quan trực tiếp tới đời sống của ngƣời lao động. Khái niệm “tiền lƣơng” xuất hiện khi có sự sử dụng sức lao động của một bộ phận dân cƣ trong xã hội một cách có tổ chức và đều đặn bởi một bộ phận dân cƣ khác. Theo lý thuyết kinh tế của Adam Smith 14: Cơ sở tiền lƣơng là giá trị tƣ liệu sinh hoạt cần thiết để nuôi sống ngƣời công nhân và gia đình họ. Adam Smith đã chỉ ra các yếu tố ảnh hƣởng tới tiền lƣơng là trình độ phát triển kinh tế xã hội của mỗi đất nƣớc, đặc điểm lao động của con ngƣời, điều kiện làm việc, tính chất công việc, trình độ chuyên môn, nghề nghiệp. Theo lý thuyết tiền lƣơng của David Ricardo 14: Ông coi lao động là hàng hóa. Tiền lƣơng đƣợc xác định trên giá cả tự nhiên và xoay quanh nó. Giá cả tự nhiên của hàng hóa lao động là giá trị những tƣ liệu sinh hoạt nuôi sống ngƣời công nhân và gia đình họ. Trong lý thuyết tiền lƣơng của Adam Smith và các nhà kinh tế học tƣ sản đều cho rằng tiền lƣơng là giá cả của lao động. Điều đó có nghĩa là nó chịu sự tác động của kinh tế thị trƣờng. Theo quan niệm của C. Mac trong Quyển I Tập II Phần IV về Tiền công: Tiền công là giá cả của hàng hóa - sức lao động, biểu hiện ra bên ngoài nhƣ là giá cả của lao động. Đã là hàng hóa thì hàng hóa sức lao động cũng có giá trị và giá trị sử dụng. Giá trị sức lao động, xét về mặt cơ cấu, gồm ba bộ phận: Chi phí (giá trị các tƣ liệu sinh hoạt) để có thể nuôi sống và duy trì khả năng hoạt động 7
- của bản thân ngƣời công nhân; Chi phí để nuôi sống gia đình ngƣời công nhân; Chi phí để đào tạo, nâng cao trình độ cho công nhân. Tuy nhiên những quan niệm trên về tiền lƣơng của các nhà kinh tế học tƣ sản và của Mac mới chỉ dừng lại ở chủ nghĩ tƣ bản, trong nền kinh tế thị trƣờng. Trong Xã hội chủ nghĩa (XHCN), giai đoạn đầu chúng ta chƣa hoàn toàn quan niệm sức lao động là hàng hóa, ngƣời lao động chƣa đƣợc hoàn toàn tự do bán sức lao động của mình mà phụ thuộc vào việc sử dụng có kế hoạch của Nhà nƣớc. Trong nền kinh tế XHCN, tiền lƣơng đƣợc Nhà nƣớc phân phối cho ngƣời lao động một cách có kế hoạch theo số lƣợng và chất lƣợng lao động mà mỗi ngƣời cống hiến. Nhƣ vậy, tiền lƣơng chịu sự tác động của quy luật phát triển cân đối, có kế hoạch cũng nhƣ phân phối theo lao động. Nền kinh tế XHCN là nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung và chịu sự chi phối trực tiếp của Nhà nƣớc nên thang, bảng lƣơng, mức lƣơng và các chế độ chính sách đối với ngƣời lao động đều do nhà nƣớc thống nhất quản lý, ban hành. Chính chính sách tiền lƣơng đó đã không tạo đƣợc động lực cho ngƣời lao động phát huy khả năng và sức sáng tạo trong lao động, làm cho nền kinh tế kém phát triển, đời sống của ngƣời lao động không đƣợc nâng cao. Nhận thức đƣợc những bất cập của nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, Đảng và Nhà nƣớc ta đã có những chuyển đổi theo cơ chế mới – kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa. Chính sách tiền lƣơng cũng có sự thay đổi theo cơ chế mới này. Những năm gần đây, việc sử dụng lao động đã đƣợc thực hiện bằng các hợp đồng lao động (tức là có sự thỏa thuận của hai bên về vấn đề sử dụng lao động và mức trả công). Nhƣ vậy có nghĩa là phạm trù hàng hóa sức lao động đã đƣợc công nhận, tiền lƣơng không chỉ là phạm trù phân phối mà còn là phạm trù trao đổi, phạm trù giá trị. Sức lao động là một loại hàng hóa đặc biệt, có giá trị đặc biệt bởi vì lao động của con ngƣời là một trong những yếu tố quan trọng nhất và giữ vai trò quyết định trong quá trình sản xuất. Vì vậy trong khi hoạch định chính sách tiền lƣơng cần đánh giá đúng vai trò quyết định của con ngƣời. 8
- Trong nền kinh tế thị trƣờng, tiền lƣơng là biểu hiện bằng tiền giá trị sức lao động, là giá cả sức lao động. Cũng nhƣ các thị trƣờng khác, thị trƣờng sức lao động hoạt động theo quy luật cung cầu. Mọi cá nhân, tổ chức có quyền thuê mƣớn, sử dụng và trả công phù hợp với giá trị sức lao động theo đúng pháp luật của nhà nƣớc. Nhƣ vậy tiền lƣơng đƣợc hiểu là số lƣợng tiền tệ mà ngƣời sử dụng lao động trả cho ngƣời lao động khi họ hoàn thành công việc theo chức năng, nhiệm vụ đƣợc pháp luật quy định hoặc hai bên đã thỏa thuận trong hợp đồng lao động. Từ khái niệm trên cho thấy bản chất của tiền lƣơng là giá cả sức lao động, đƣợc hình thành trên cơ sở giá trị sức lao động, thông qua sự thỏa thuận giữa ngƣời có sức lao động và ngƣời thuê mƣớn, sử dụng sức lao động đồng thời chịu sự chi phối của các quy luật kinh tế trong đó có quy luật cung cầu. Tuy nhiên, thực tế ở nƣớc ta hiện nay, sự thỏa thuận giữa ngƣời lao động và ngƣời sử dụng lao động về tiền lƣơng vẫn chỉ là tƣơng đối. Tiền lƣơng chƣa phản ánh đúng bản chất là giá cả của một loại hàng hóa đặc biệt và chịu sự tác động của các quy luật kinh tế. Chính thực trạng thị trƣờng lao động của nƣớc ta hiện nay cung lao động luôn lớn hơn cầu đã đẩy ngƣời lao động ở vào thế yếu hơn so với ngƣời sử dụng lao động và tiền lƣơng phần lớn phụ thuộc vào quyết định của ngƣời sử dụng lao động. 1.1.1.2 Vai trò của tiền lƣơng Tiền lƣơng có một vai trò rất lớn không chỉ đối với riêng bản thân ngƣời lao động mà còn đối với cả nền kinh tế đất nƣớc. Vai trò đó đƣợc thể hiện ở những điểm sau: Thứ nhất, tiền lƣơng luôn gắn liền với ngƣời lao động, là nguồn sống chủ yếu của bản thân và gia đình ngƣời lao động. Tiền lƣơng không chỉ giúp họ tái sản xuất sức lao động đã bị tiêu hao trong quá trình lao động mà còn giúp ngƣời lao động nuôi sống gia đình họ, trang trải những chi phí phát sinh do gặp rủi ro 9
- trong cuộc sống. Mặt khác, tiền lƣơng còn giúp ngƣời lao động có thể nâng cao đƣợc trình độ (kỹ năng nghề nghiệp, trình độ ngoại ngữ) để đáp ứng tốt hơn cho quá trình lao động. Tiền lƣơng kích thích ngƣời lao động nâng cao năng lực làm việc của mình, phát huy mọi khả năng vốn có để tạo ra năng suất lao động, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế. Thứ hai, tiền lƣơng tác động tích cực đến việc quản lý kinh tế, tài chính, quản lý lao động, kích thích sản xuất, ở cả cấp vĩ mô (nhà nƣớc) và cấp vi mô (doanh nghiệp, cá nhân, hộ gia đình ). Nếu chính sách tiền lƣơng đúng đắn, hợp lý sẽ tạo đƣợc tâm lý yên tâm, ổn định, phấn khởi của ngƣời lao động và do đó sẽ kích thích đƣợc họ phát huy khả năng lao động, sáng tạo, phát triển sản xuất. Tiền lƣơng còn là một trong những công cụ kinh tế để Nhà nƣớc quản lý kinh tế, tài chính và bình ổn xã hội. 1.1.1.3 Chức năng của tiền lƣơng Chức năng thước đo giá trị sức lao động: Tiền lƣơng biểu thị giá cả sức lao động, là thƣớc đo để xác định mức tiền công các loại lao động, là căn cứ để thuê mƣớn lao động, là cơ sở để xác định đơn giá sản phẩm Chức năng tái sản xuất sức lao động: Thu nhập của ngƣời lao động dƣới hình thức tiền lƣơng đƣợc sử dụng một phần đáng kể vào việc tái sản xuất giản đơn sức lao động mà chính bản thân họ đã bỏ ra cho quá trình lao động nhằm mục đích duy trì năng lực làm việc lâu dài, có hiệu quả cho các quá trình làm việc sau và phần còn lại đảm bảo cho các nhu cầu thiết yếu của các thành viên trong gia đình ngƣời lao động. Đời sống của bản thân và gia đình ngƣời lao động chịu sự tác động của các thay đổi về các điều kiện kinh tế và sự biến động trên các lĩnh vực hàng hóa, giá cả. Do vậy, tiền lƣơng trả cho ngƣời lao động phải đủ bù đắp những hao phí sức lao động tính cả trƣớc, trong và sau quá trình lao động cũng nhƣ những biến động về giá cả trong sinh hoạt, những rủi ro hoặc các chi phí khác phục vụ cho việc nâng cao trình độ ngành nghề của ngƣời lao động. 10
- Chức năng kích thích: Khi ngƣời lao động làm việc có năng suất cao, hiệu quả rõ rệt thì chủ sử dụng lao động làm cần quan tâm tới tiền lƣơng để kích thích ngƣời lao động. Ngoài ra, ngƣời sử dụng lao động cần áp dụng các biện pháp thƣởng. Số tiền này bổ sung cho tiền lƣơng, mang tính chất nhất thời, không ổn định nhƣng lại có tác động mạnh mẽ tới năng suất, chất lƣợng và hiệu quả lao động. Chức năng tích lũy: Tiền lƣơng trả cho ngƣời lao động phải đảm bảo duy trì đƣợc cuộc sống hàng ngày trong thời gian làm việc và còn dự phòng cho cuộc sống lâu dài khi họ hết khả năng lao động hay gặp rủi ro. 1.1.2 Các nguyên tắc cơ bản của tiền lƣơng Thứ nhất, nguyên tắc trả lương trên cơ sở chất lượng và hiệu quả lao động Lao động là hàng hóa có giá trị sử dụng đặc biệt. Thuộc tính đặc biệt của hàng hóa sức lao động khác với hàng hóa tƣ liệu sản xuất và tƣ liệu tiêu dùng ở chỗ khi sử dụng - tạo ra một giá trị mới lớn hơn giá trị của chính bản thân nó. Chính vì vậy, khi phân phối phải trên cơ sở lao động hao phí. Thƣớc đo số lƣợng và chất lƣợng lao động tiêu hao là thời gian lao động và trình độ nghề nghiệp của mỗi ngƣời, hoặc số lƣợng và chất lƣợng sản phẩm đƣợc sản xuất ra. Nhƣ vậy, những lao động có trình độ nghề nghiệp cao, thành thạo và chất lƣợng cao, làm việc nhiều thì đƣợc trả công cao và ngƣợc lại. Những lao động ngang nhau phải trả công ngang nhau. Phân phối theo lao động không có nghĩa là lao động tạo ra bao nhiêu giá trị, mức hƣởng thụ của họ tùy thuộc vào kết quả sản xuất đƣa lại, không cần tính đến giá trị sức lao động bỏ ra, không tính đến sự tham gia của các yếu tố vốn và các yếu tố khách quan tác động vào. Phân phối theo lao động là căn cứ vào lƣợng lao động tiêu hao để phân phối lƣợng giá trị mới sáng tạo ra tƣơng ứng với giá trị sức lao động đã hao phí. Tuy nhiên, trong quan hệ hợp đồng lao động, tiền lƣơng do hai bên thỏa thuận, do vậy, để thực hiện nguyên tắc này là điều không đơn giản mà còn cần 11
- sự hỗ trợ của nhiều thiết chế, công cụ pháp lý khác nhƣ: thỏa ƣớc lao động tập thể, hệ thống thang bảng lƣơng, chế độ phụ cấp Mặt khác, nguyên tắc này không đồng nghĩa với quan niệm cho rằng mọi ngƣời đều là chủ của quá trình sản xuất mà còn phải tính đến sự tham gia của các yếu tố khác nhƣ vốn, năng lực quản lý, giá trị doanh nghiệp và các yếu tố khách quan tác động vào. Do đó, việc thực hiện nguyên tắc trả lƣơng theo số lƣợng, chất lƣợng và hiệu quả lao động còn phải đặt trong mối tƣơng quan với các nguyên tắc và nội dung khác của luật lao động. Thứ hai, nguyên tắc trả lương phải căn cứ vào điều kiện lao động cụ thể Trong quá trình thực hiện công việc hay nhiệm vụ, ngoài đòi hỏi có trình độ lành nghề nhất định, còn đòi hỏi ngƣời lao động có sự cố gắng về mặt sức lực, cơ bắp, thần kinh, tâm lý ở mức độ cần thiết. Đòi hỏi thứ hai này đƣợc phản ánh qua tiêu hao lao động trong quá trình làm việc cần đƣợc bù đắp lại ở mức tƣơng ứng. Mức tiêu hao lao động trong quá trình lao động tùy thuộc vào điều kiện và môi trƣờng lao động cụ thể. Còn điều kiện và môi trƣờng lao động lại quy định bởi mức độ nặng nhọc của công việc hay nhiệm vụ, đó là sự tác động tổng hợp của hàng loạt các yếu tố vệ sinh môi trƣờng lao động và tâm sinh lý lao động có ảnh hƣởng đến trạng thái, chức năng cơ thể con ngƣời, đến khả năng làm việc, sức khỏe, năng suất và hiệu quả lao động. Việc nghiên cứu, xác định và phân loại các yếu tố về môi trƣờng và điều kiện lao động một cách khoa học là cơ sở để quy định chế độ tiền lƣơng, thông qua chế độ phụ cấp nhằm bù đắp hao phí lao động cho ngƣời lao động. Chính vì vậy cần quan tâm tới thu nhập của ngƣời lao động làm việc trong các ngành nghề nặng nhọc, độc hại; quan tâm đến đời sống của họ khi làm việc, sinh sống ở những vùng có điều kiện khó khăn, khí hậu khắc nghiệt nhằm điều chỉnh kịp thời để đảm bảo lợi ích của ngƣời lao động, khi có những biến động làm ảnh hƣởng tới thu nhập và đời sống của họ. Thứ ba, nguyên tắc trả lương phải trên cơ sở năng suất lao động 12
- Năng suất lao động là yếu tố quyết định sự tăng trƣởng và ổn định nền kinh tế quốc dân và vì vậy đây là yếu tố quyết định quá trình tích lũy và tái sản xuất mở rộng. Tiền lƣơng là một bộ phận thu nhập quốc dân, là công cụ và hình thức cơ bản để thực hiện phân phối theo lao động. Điều đó cũng có nghĩa xét ở tầm vĩ mô chỉ đƣợc phép phân phối và tiêu dùng trong phạm vi thu nhập quốc dân. Chính vì vậy, mức độ tăng tiền lƣơng không đƣợc tăng cao hơn năng suất lao động. Nếu việc trả công cao hơn năng suất lao động sẽ cản trở quá trình tích lũy và tái sản xuất. Ngƣợc lại, coi trọng tích lũy sẽ ảnh hƣởng tới đời sống của ngƣời lao động. Nhƣ vậy, trong phạm vi quốc gia cũng nhƣ trong từng đơn vị sử dụng lao động thì giữa tốc độ thay đổi về tiền lƣơng và tốc độ thay đổi năng suất lao động cần đảm bảo mối quan hệ tỷ lệ thuận với nhau, điều này cho phép vừa bảo vệ đƣợc quyền lợi của ngƣời lao động, lợi ích của ngƣời sử dụng lao động, của xã hội. Song, trong thực tế cho thấy để giải quyết hài hòa các nội dung nói trên là điều không đơn giản, vì vậy bên cạnh những quy định cứng của Nhà nƣớc rất cần có sự điều chỉnh linh hoạt, mềm dẻo giữa các chủ thể trong quan hệ lao động nhằm thực hiện nguyên tắc trên. 1.2 Khái quát chung về tiền lƣơng tối thiểu 1.2.1 Khái niệm tiền lƣơng tối thiểu Tiền lƣơng tối thiểu có nguồc gốc xa xƣa vào những năm 1792-1750 trƣớc công nguyên, thời vua Namurabi của Babilon đã định ra tiền lƣơng và quy định nó thành một điều trong Bộ luật. Sau chiến tranh thế giới lần thứ II, tiền lƣơng tối thiểu đƣợc thể chế hóa thành đạo luật ở nhiều nƣớc nhƣ Hà Lan (6/1945); Ấn Độ (1948); Pháp (1950) và vấn đề này đƣợc tổ chức lao động quốc tế (ILO) sớm khẳng định và ghi nhận trong nhiều Công ƣớc và Khuyến nghị. Tại Điều 3 Khoản 3 Công ƣớc số 26 ngày 30/5/1928 của Tổ chức lao động quốc tế (ILO) về thiết lập những phƣơng pháp ấn định lƣơng tối thiểu quy định nhƣ sau: “Các mức lương tối thiểu được ấn định là bắt buộc với những 13
- người sử dụng lao động và những người lao động hữu quan, những mức lương tối thiểu đó không thể bị hạ thấp bởi những người được sử dụng lao động và những người lao động dù là bằng thỏa thuận cá nhân hay bằng hợp đồng tập thể, trừ khi nhà chức trách có thẩm quyền cho phép chung hoặc cho phép đặc biệt”. Theo Công ƣớc 131 về ấn định tiền lƣơng tối thiểu do ILO ban hành năm 1970 và Khuyến nghị kèm theo số 135 đã xác định “bảo đảm cho những người làm công ăn lương một sự bảo đảm xã hội cần thiết dưới dạng mức tiền lương tối thiểu đủ sống”. Hay nói cách khác mức lƣơng tối thiểu là mức tiền lƣơng duy trì cuộc sống ở mức tối thiểu cho ngƣời lao động làm công ăn lƣơng. Trong tuyên bố Chƣơng trình hành động tại hội nghị thế giới ba bên năm 1976 về việc làm, phân phối thu nhập và tiến bộ xã hội, ILO đã khuyến nghị: “Đảm bảo mức sống tối thiểu là một trong những nội dung cơ bản trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội và chính sách tiền lương của mỗi nước”. Điều 56 Bộ luật Lao động ban hành ngày 05 tháng 7 năm 1994 quy định: “Mức lương tối thiểu được ấn định theo giá sinh hoạt, bảo đảm cho người lao động làm công việc giản đơn nhất trong điều kiện lao động bình thường bù đắp sức lao động giản đơn và một phần tích luỹ tái sản xuất sức lao động mở rộng và được dùng làm căn cứ để tính các mức lương cho các loại lao động khác”. Trong giáo trình Luật Lao động Việt Nam đã đƣa ra khái niệm về tiền lƣơng tối thiểu nhƣ sau: “Tiền lương tối thiểu được hiểu là số tiền nhất định trả cho người lao động tương ứng với trình độ lao động giản đơn nhất, cường độ lao động nhẹ nhàng nhất diễn ra trong điều kiện lao động bình thường, số tiền đó đảm bảo nhu cầu tiêu dùng các tư liệu sinh hoạt ở mức tối thiểu cần thiết để tái sản xuất sức lao động của bản thân người người lao động”16. Bản thân cụm từ “tiền lương tối thiểu” đã thể hiện nó là mức tiền công thấp nhất, có thể là mức tiền công thấp nhất trong nƣớc, mức tiền công thấp nhất trong vùng hay mức tiền công thấp nhất trong ngành, lĩnh vực. Tuy nhiên, dù ở phạm vi nào thì 14
- cá nhân, tổ chức sử dụng lao động cũng không thể trả thấp hơn mức tiền công tối thiểu mà Nhà nƣớc đã quy định. Trong khái niệm trên “Tiền lƣơng tối thiểu được hiểu là số tiền nhất định” chƣa thể hiện rõ đƣợc đặc trƣng thấp đến mức không thể thấp hơn của tiền lƣơng tối thiểu. Nhƣ vậy, tiền lƣơng tối thiểu đƣợc hiểu là mức trả công lao động thấp nhất trả cho ngƣời lao động tƣơng ứng với trình độ lao động giản đơn nhất, cƣờng độ lao động nhẹ nhàng nhất diễn ra trong điều kiện lao động bình thƣờng nhằm đảm bảo cuộc sống tối thiểu cho ngƣời lao động phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội. Từ khái niệm trên cho thấy tiền lƣơng tối thiểu có những dấu hiệu đặc trƣng sau: - Tiền lƣơng tối thiểu đƣợc xác định tƣơng ứng với trình độ lao động giản đơn nhất, chƣa qua đào tạo nghề. - Tiền lƣơng tối thiểu tƣơng ứng với cƣờng độ lao động nhẹ nhàng nhất, không đòi hỏi tiêu hao nhiều năng lƣợng thần kinh, cơ bắp. - Tiền lƣơng tối thiểu đƣợc tính tƣơng ứng với môi trƣờng và điều kiện lao động bình thƣờng, không có tác động xấu của các yếu tố điều kiện lao động. - Tiền lƣơng tối thiểu đƣợc tính tƣơng ứng với nhu cầu tiêu dùng ở mức độ tối thiểu cần thiết. - Tiền lƣơng tối thiểu phải tƣơng ứng với mức giá tƣ liệu sinh hoạt chủ yếu cở vùng có mức giá trung bình. - Tiền lƣơng tối thiểu phải phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Nhƣ vậy, tiền lƣơng tối thiểu không chỉ áp dụng cho lao động giản đơn mà còn là khung pháp lý quan trọng, là cơ sở để trả công cho ngƣời lao động toàn xã hội, là mức lƣơng mang tính bắt buộc ngƣời sử dụng lao động phải trả ít nhất là bằng chứ không đƣợc thấp hơn. Bởi mức tiền lƣơng tối thiểu do Nhà nƣớc quy định là số tiền công rất thấp, chỉ đảm bảo cho ngƣời lao động ở mức 15
- sống tối thiểu, mà “nếu trả ít hơn nữa thì công nhân phải chịu sự túng thiếu, không thích hợp với phẩm cách con người”9. Trong kết cấu tiền lƣơng tối thiểu không bao gồm tiền lƣơng làm thêm giờ, phụ cấp làm việc ban đêm, phụ cấp trách nhiệm hay chức vụ, tiền ăn giữa ca và các khoản tiền lƣơng khác ngoài tiền lƣơng thông thƣờng hàng tháng do Chính phủ quy định. Mức lƣơng tối thiểu chung là căn cứ và nền thấp nhất để xây dựng các mức tiền lƣơng tối thiểu vùng, ngành. Tiền lƣơng tối thiểu có thể đƣợc quy định theo giờ, theo tuần, theo tháng. Các nƣớc Châu Âu và Mỹ thƣờng quy định mức lƣơng tối thiểu theo giờ, mức lƣơng tối thiểu theo tuần. Các nƣớc khu vực Châu Á thƣờng quy định mức lƣơng tối thiểu tháng gồm mức lƣơng tối thiểu chung, mức lƣơng tối thiểu vùng, mức lƣơng tối thiểu ngành. Ở nƣớc ta hiện nay mức lƣơng tối thiểu đƣợc quy định theo tháng. 1.2.2 Ý nghĩa của tiền lƣơng tối thiểu Thứ nhất, đối với người lao động Tiền lƣơng tối thiểu là sự đảm bảo có tính pháp lý của Nhà nƣớc đối với ngƣời lao động trong mọi ngành nghề, khu vực có tồn tại quan hệ lao động, bảo đảm đời sống tối thiểu cho họ phù hợp với khả năng của nền kinh tế. Mục tiêu của chính sách tiền lƣơng tối thiểu là nhằm bảo vệ ngƣời lao động, bảo đảm cho ngƣời lao động tái sản xuất sức lao động. Điều đó không chỉ có ý nghĩa đối với việc đảm bảo sức khỏe cho ngƣời lao động mà còn đảm bảo khả năng cống hiến, lao động trong tƣơng lai của ngƣời lao động. Chính sách tiền lƣơng tối thiểu còn có ý nghĩa trong việc loại trừ khả năng bóc lột có thể xảy ra đối với ngƣời lao động trƣớc sức ép của thị trƣờng. Khi cung lao động vƣợt cầu lao động (thị trƣờng lao động của Việt Nam luôn ở trong tình trạng này) nếu không có “lƣới an toàn” là tiền lƣơng tối thiểu do Nhà nƣớc quy định và đảm bảo thực hiện thì ngƣời sử dụng lao động có thể lợi dụng, gây sức ép nhằm trả công theo ý muốn. 16
- Tuy nhiên, vai trò của tiền lƣơng tối thiểu chỉ thực sự đạt đƣợc khi Nhà nƣớc có chính sách lƣơng tối thiểu hợp lý. Nếu Nhà nƣớc quy định lƣơng tối thiểu quá thấp thì sẽ không đảm bảo đƣợc mức sống tối thiểu của ngƣời lao động, tình trạng nghèo đói, bần cùng sẽ gia tăng. Nếu Nhà nƣớc quy định mức lƣơng tối thiểu quá cao, không thích ứng với nền kinh tế kém phát triển thì sẽ gây khó khăn cho các cá nhân, tổ chức sử dụng lao động và mặt khác còn có thể dẫn đến tình trạng thất nghiệp gia tăng. Bởi tiền lƣơng tối thiểu là cơ sở để tính các loại tiền lƣơng, tiền thƣởng, phụ cấp. Vì vậy, nếu tiền lƣơng tối thiểu quá cao, để đảm bảo cho lợi nhuận của mình, các doanh nghiệp sẽ hạn chế tối đa sự sử dụng nhân công. Do đó mục đích bảo vệ ngƣời lao động của chính sách tiền lƣơng tối thiểu sẽ không đạt đƣợc. Thứ hai, đối với nền kinh tế Lƣơng tối thiểu là công cụ điều tiết của Nhà nƣớc trên phạm vi toàn xã hội và trong từng cơ sở kinh tế nhằm: - Bảo vệ sức mua cho các mức tiền lƣơng trƣớc sự gia tăng của lạm phát và các yếu tố kinh tế khác. Bởi vậy, Nhà nƣớc phải phải căn cứ vào điều kiện kinh tế, biến động giá cả để điều chỉnh tiền lƣơng tối thiểu cho phù hợp với mức sống tối thiểu thực tế của ngƣời lao động. - Loại bỏ sự cạnh tranh không công bằng của thị trƣờng lao động. Vì tiền lƣơng là một yếu tố cấu thành sản phẩm, do đó, nó cũng là một yếu tố để giảm giá thành sản phẩm. Chính vì thế, thông qua tiền lƣơng tối thiểu buộc các nhà sản xuất phải tìm cách khác để giảm giá thành sản phẩm. - Phòng ngừa những cuộc xung đột trong các ngành nghề sản xuất kinh doanh. Sự xác định thỏa đáng các mức tiền lƣơng tối thiểu có thể xóa bỏ một trong những nguyên nhân gây nên xung đột giữa ngƣời sử dụng lao động và ngƣời lao động, góp phần ổn định chính trị - xã hội, thúc đẩy kinh tế phát triển. - Thiết lập mối quan hệ ràng buộc kinh tế trong lĩnh vực sử dụng lao động, tăng cƣờng trách nhiệm của các bên trong quản lý và sử dụng lao động. 17