Luận văn Chế độ ốm đau trong Luật Bảo hiểm xã hội Việt Nam hiện hành
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Chế độ ốm đau trong Luật Bảo hiểm xã hội Việt Nam hiện hành", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_che_do_om_dau_trong_luat_bao_hiem_xa_hoi_viet_nam_h.pdf
Nội dung text: Luận văn Chế độ ốm đau trong Luật Bảo hiểm xã hội Việt Nam hiện hành
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT o0o NGUYỄN THỊ HỒNG VINH CHÕ §é èM §AU TRONG LUËT B¶O HIÓM X· HéI VIÖT NAM HIÖN HµNH LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Hà Nội - 2014
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT \ NGUYỄN THỊ HỒNG VINH CHÕ §é èM §AU TRONG LUËT B¶O HIÓM X· HéI VIÖT NAM HIÖN HµNH Chuyên ngành: Luật Kinh tế Mã số: 60 38 50 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Lê Thị Hoài Thu Hà Nội – 2014
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Nguyễn Thị Hồng Vinh
- MỤC LỤC Lời cam đoan Mục lục Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt Danh mục các bảng Danh mục các hình vẽ, đồ thị MỞ ĐẦU 1 Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ ỐM ĐAU VÀ BẢO HIỂM ỐM ĐAU 6 1.1. Khái niệm về ốm đau và sự cần thiết phải có bảo hiểm ốm đau 6 1.1.1. Quan niệm về ốm đau 6 1.1.2. Quan niệm về bảo hiểm ốm đau và sự cần thiết phải có bảo hiểm ốm đau 8 1.2. Bảo hiểm ốm đau 10 1.2.1. Khái niệm bảo hiểm ốm đau 10 1.2.2. Nguyên tắc bảo hiểm ốm đau 12 1.2.3. Nội dung bảo hiểm ốm đau 15 1.3.Ý nghĩa của bảo hiểm ốm đau 23 1.3.1. Đối với bản thân và gia đình người lao động 23 1.3.2. Đối với người sử dụng lao động 24 1.3.3. Đối với Nhà nước và xã hội 25 Chương 2: THỰC TRẠNG BẢO HIỂM ỐM ĐAU TRONG LUẬT BHXH HIỆN HÀNH VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG Ở VIỆT NAM 27 2.1. Về đối tượng hưởng 27 2.2. Về điều kiện hưởng 28 2.3. Về thời gian hưởng và mức hưởng 33 2.4. Dưỡng sức, phục hồi sức khỏe sau ốm đau 41 2.5. Về chi trả bảo hiểm ốm đau 43
- 2.6. Một số nhận xét về thực trạng áp dụng bảo hiểm ốm đau ở Việt Nam 48 2.6.1. Kết quả đạt được 48 2.6.2. Những hạn chế, vướng mắc 53 2.6.3. Nguyên nhân 56 Chương 3: GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN BẢO HIỂM Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 61 3.1. Sự cần thiết nâng cao hiệu quả thực hiện bảo hiểm ốm đau ở Việt Nam hiện nay 61 3.2. Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện bảo hiểm ốm đau ở Việt Nam hiện nay 64 3.3. Một số kiến nghị 67 3.3.1. Về các quy định pháp luật 67 3.3.2. Về tổ chức thực hiện 77 KẾT LUẬN 83 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 85
- DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT Viết tắt Viết đầy đủ ASXH An sinh xã hội BHXH Bảo hiểm xã hội ILO Tổ chức Lao động Quốc tế NSNN Ngân sách nhà nước NLĐ Người lao động NSDLĐ Người sử dụng lao động Luật BHXH Luật Bảo hiểm xã hội năm 2006
- DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 1.1. Thời gian không trợ cấp ốm đau của một số quốc gia trên Thế giới 19 Bảng 2.1. Tổng hợp chi bảo hiểm ốm đau, thai sản (2005-2009) 49 Bảng 2.2. Tình hình chi trả trợ cấp ốm đau từ 2007 đến 2009 51 DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ Biểu đồ 2.1. Số lượt người hưởng bảo hiểm ốm đau (2007-2012) 49
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Bảo hiểm xã hội đã xuất hiện cách đây hàng trăm năm trên thế giới, và cho tới nay, bảo hiểm xã hội đã trở thành công cụ hữu hiệu mang tính nhân văn sâu sắc để giúp con người vượt qua những khó khăn, rủi ro phát sinh trong cuộc sống cũng như trong quá trình lao động. Vì vậy, bảo hiểm xã hội ngày càng trở thành nền tảng cơ bản cho an sinh xã hội của mỗi quốc gia, của mọi thể chế Nhà nước và được thực hiện ở hầu hết các nước. Ở Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta luôn coi con người là vốn quý của xã hội, là lực luợng tạo ra của cải vật chất cho xã hội và là nhân tố quan trọng trong quá trình Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước. Cũng vì lẽ đó, BHXH ở nước ta là một trong những chính sách quan trọng hàng đầu của Đảng và Nhà nước. Bản chất của bảo hiểm xã hội chính là sự tương trợ cộng đồng, đoàn kết đùm bọc chia sẻ rủi ro cho nhau, mang tính nhân văn, nhân đạo sâu sắc. Trong quá trình thực hiện các chế độ, chính sách về bảo hiểm xã hội không ngừng được bổ sung, sửa đổi để phù hợp với từng thời kỳ và từng điều kiện hoàn cảnh cụ thể của đất nước nhằm đảm bảo quyền lợi cho người tham gia bảo hiểm xã hội. Nếu như sau cách mạng tháng 8 thành công, Chính phủ đã ban hành một số Sắc lệnh quy định một số chế độ trợ cấp ốm đau, tai nạn, hưu trí cho công nhân viên chức Nhà nước: Sắc lệnh số 54 ngày 03/11/1945, Sắc lệnh số 105 ngày 14/6/1946, Sắc lệnh 29/SL ngày 12/3/1947 thì phải đến tháng 7/2006 vừa qua, chúng ta mới có được Luật Bảo hiểm xã hội. Luật Bảo hiểm xã hội đã quy định cụ thể về đối tượng, điều kiện, mức hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội; quỹ bảo hiểm xã hội; thủ tục thực hiện bảo hiểm xã hội Theo đó, thời gian qua, công tác chi trả các chế độ BHXH cho người lao động tham gia bảo hiểm xã hội đã được thực hiện tương đối hiệu quả, giúp người lao 1
- động ổn định thu nhập, từ đó góp phần đảm bảo an sinh xã hội, như: chế độ ốm đau, thai sản, hưu trí, tử tuất Ốm đau là một trong năm chế độ bảo hiểm xã hội của nước ta, thuộc nhóm chế độ bảo hiểm xã hội bắt buộc, được giải quyết thường xuyên liên tục bởi bất cứ người lao động nào cũng có thể bị ốm đau hoặc gặp tai nạn rủi ro. Trong những năm gần đây, cả nước có gần 5 triệu lượt người hưởng chế độ ốm đau. Hàng năm, các cơ quan bảo hiểm xã hội đã chi trả trợ cấp cho hàng nghìn người lao động giúp cho cuộc sống của họ và gia đình giảm bớt được phần nào khó khăn khi phải nghỉ việc vì gặp rủi ro về sức khỏe, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động có thể tái gia nhập vào lực luợng sản xuất xã hội. Trong những năm qua, Quốc hội, Chính phủ, Bảo hiểm xã hội Việt Nam, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật và văn bản hướng dẫn việc thực hiện chế độ ốm đau trên thực tế. Tuy nhiên, qua thực tế triển khai thực hiện, một số quy định của pháp luật bảo hiểm xã hội Việt Nam hiện hành còn bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập, kéo theo đó là việc thực hiện công tác chi trả bảo hiểm ốm đau cũng gặp một số khó khăn, vướng mắc. Cùng với sự phát triển kinh tế, đất nước ta đang có những bước chuyển mình mạnh mẽ và nhu cầu của con người cũng ngày càng tăng nên một số quy định về bảo hiểm ốm đau hiện nay vẫn chưa thỏa mãn nhu cầu, nguyện vọng của người lao động. Chính vì vậy, việc đánh giá các quy định về chế độ bảo hiểm ốm đau trong Luật Bảo hiểm xã hội Việt Nam hiện hành, thực trạng áp dụng chế độ này trên thực tế nhằm tìm ra những hạn chế, bất cập và nguyên nhân, từ đó có những giải pháp để triển khai hiệu quả hơn chế độ này cho người lao động là vấn đề hết sức cấp thiết. Xuất phát từ những lý do đó, tôi đã tìm hiểu, nghiên cứu và quyết định lựa chọn “Chế độ ốm đau trong Luật Bảo hiểm xã hội Việt Nam hiện hành” làm đề tài nghiên cứu của mình. 2
- 2. Tình hình nghiên cứu Vấn đề thực hiện pháp luật bảo hiểm xã hội nói chung và pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc ở nước ta nói riêng đã được các nhà khoa học nghiên cứu ở nhiều góc độ khác nhau, từ góc độ lý luận chung đến góc độ thực tiễn áp dụng. Các công trình này đã làm phong phú thêm lý luận về các lĩnh vực bảo hiểm xã hội, giải quyết những vấn đề của thực tiễn liên quan đến việc triển khai thực hiện các chế độ bảo hiểm xã hội, cụ thể như: - Hoàn thiện pháp luật bảo hiểm xã hội ở Việt Nam - Lý luận và thực tiễn, Luận án Phó Tiến sỹ khoa học Luật học của tác giả Nguyễn Huy Ban, năm 1996. - Pháp luật về bảo hiểm xã hội ở Việt Nam hiện nay, Luận văn Thạc sĩ Luật học của tác giả Nguyễn Thị Hà, năm 2013. - Pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc và thực tiễn thực hiện trên địa bàn tỉnh Phú Thọ, Luận văn Thạc sĩ Luật học của tác giả Phạm Lan Hương, năm 2012. - Đề tài Nghiên cứu khoa học cấp Trường năm 2006: “Hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm xã hội ở Việt Nam”, Đại học Luật Hà Nội (Nguyễn Thị Kim Phụng làm chủ nhiệm đề tài). Bên cạnh các công trình nghiên cứu về lý luận và thực tiễn áp dụng pháp luật của chế độ bảo hiểm xã hội nói chung, có công trình tác giả chỉ đề cập đến việc thực hiện pháp luật trong giải quyết một số chế độ bảo hiểm xã hội cụ thể, như: Luận văn Thạc sỹ Luật học của tác giả Đàm Thị Nhàn về “Thực hiện pháp luật trong giải quyết chế độ ốm đau, thai sản trên địa bàn tỉnh Ninh Bình” (năm 2013). Tuy nhiên, công trình này nghiên cứu về việc thực hiện pháp luật trong giải quyết 02 chế độ bảo hiểm xã hội, đó là chế độ ốm đau và thai sản; mặt khác, phạm vi nghiên cứu của tác giả chỉ giới hạn trên một địa bàn cụ thể, 3
- đó là tỉnh Ninh Bình. Do đó, cho đến nay chưa có công trình nghiên cứu cụ thể về chế độ bảo hiểm ốm đau trong Luật Bảo hiểm xã hội Việt Nam hiện hành, nhằm phân tích những ưu điểm, hạn chế của quy định pháp luật về chế độ này, thực trạng triển khai thực hiện trên cả nước và kiến nghị những giải pháp nâng cao hiệu quả của việc thực hiện bảo hiểm ốm đau. Chính vì vậy, đề tài “Chế độ ốm đau trong Luật Bảo hiểm xã hội Việt Nam hiện hành” sẽ là đề tài nghiên cứu có tính chuyên sâu và toàn diện về chế độ bảo hiểm ốm đau và thực trạng áp dụng chế độ bảo hiểm này trên phạm vi cả nước. 3. Mục tiêu nghiên cứu Mục tiêu nghiên cứu của Luận văn là làm sáng tỏ một cách có hệ thống những vấn đề lý luận và thực tiễn về bảo hiểm ốm đau ở Việt Nam; chỉ ra những điểm chưa phù hợp trong các quy định của pháp luật bảo hiểm xã hội Việt Nam hiện nay về bảo hiểm ốm đau, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam về vấn đề này và nâng cao hiệu quả việc thực hiện bảo hiểm ốm đau cho người lao động trên thực tế. Để đạt được mục tiêu trên, Luận văn tập trung vào các nhiệm vụ cơ bản sau: - Làm rõ khái niệm và phân tích ý nghĩa của bảo hiểm ốm đau; - Phân tích những quy định của pháp luật Bảo hiểm xã hội hiện hành liên quan đến bảo hiểm ốm đau; - Phân tích thực trạng áp dụng bảo hiểm ốm đau; đánh giá những kết quả đã đạt được và hạn chế, bất cập trong tổ chức thực hiện bảo hiểm này; - Tìm ra nguyên nhân và kiến nghị những giải pháp cụ thể, thiết thực nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về bảo hiểm ốm đau và nâng cao hiệu quả trong tổ chức thực hiện bảo hiểm ốm đau. 4
- 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Luận văn đi sâu vào nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn áp dụng của chế độ bảo hiểm ốm đau ở nước ta hiện nay của người lao động, người sử dụng lao động và các cán bộ, cơ quan bảo hiểm xã hội - chủ thể của hoạt động thực hiện pháp luật bảo hiểm xã hội. Phạm vi nghiên cứu của luận văn là các quy định của pháp luật Bảo hiểm xã hội ở Việt Nam (Luật, Nghị định, Thông tư ), pháp luật ở một số quốc gia trên thế giới về vấn đề chế độ ốm đau và việc thực hiện chế độ ốm đau. Tác giả lựa chọn thành phố Hà Nội làm địa điểm để nghiên cứu Luận văn, bởi nơi đây nơi tập trung nhiều cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp và người lao động. Do đó, tác giả sẽ có nhiều cơ hội để tìm hiểu tình hình thực hiện bảo hiểm ốm đau trong thực tiễn. 5. Phương pháp nghiên cứu Các phương pháp chủ yếu được sử dụng để nghiên cứu nhằm làm sáng tỏ nội dung đề tài bao gồm: Phương pháp phân tích tổng hợp, phương pháp so sánh đối chiếu, phương pháp thống kê, lịch sử. 6. Kết cấu của Luận văn Kết cấu của Luận văn được chia thành 3 phần chính, cụ thể: Chương 1 - Khái quát chung về ốm đau và bảo hiểm ốm đau Chương 2 - Thực trạng bảo hiểm ốm đau trong Luật Bảo hiểm xã hội Việt Nam hiện hành Chương 3 - Giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện bảo hiểm ốm đau ở Việt Nam hiện nay 5
- Chương 1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ ỐM ĐAU VÀ BẢO HIỂM ỐM ĐAU 1.1. Khái niệm về ốm đau và sự cần thiết phải có bảo hiểm ốm đau 1.1.1. Quan niệm về ốm đau Ốm đau là một hiện tượng phổ biến liên quan đến tất cả mọi người, là một khái niệm không còn xa lạ với mỗi chúng ta bởi trong cuộc đời con người không ai là chưa từng mắc phải, đặc biệt là trong điều kiện ô nhiễm môi trường và các bệnh truyền nhiễm có tốc độ lây lan nhanh như hiện nay. Thông thường một người bị ốm thường kèm theo bị đau và khi bị đau thì cũng được cho là ốm. Do đó, ốm hay đau là hai trạng thái có liên hệ mật thiết với nhau, có thể dùng chung trong một khái niệm, phản ánh sức khỏe của con người đang bị giảm sút so với bình thường. Theo Đại từ điển Tiếng việt của NXB Văn hóa - Thông tin thì “ốm đau” có thể được hiểu với các nghĩa như: nhức nhối, khó chịu do bị tổn thương ở chỗ nào đó trên cơ thể; bứt rứt, nhức nhối trong lòng vì quá thương cảm, quá xúc động, hoặc do sức khỏe yếu, có bệnh, thường xuyên đau ốm [30, tr 597]. Như vậy, ốm đau là một trạng thái không bình thường do bị tổn thương ở bộ phận nào đó trên cơ thể, thay đổi về cảm xúc, tâm lý hoặc là tình trạng sức khỏe bị giảm sút so với sức khỏe thông thường. Về phương diện y học, “ốm đau” và “bệnh tật” là khái niệm tập hợp chỉ tình trạng sức khỏe không bình thường nói chung. Khái niệm “bệnh tật” đề cập đến tình trạng sức khoẻ dựa trên ý kiến của các nhà chuyên môn y với các lý giải mang tính khoa học và các đo lường khách quan. Ngược lại, “ốm đau” đề cập đến quan điểm của bản thân người bệnh đối về sức khoẻ của họ. Dĩ nhiên, “ốm đau” với “bệnh tật” có thể dùng thay thế cho nhau trong một số ngữ cảnh mà nghĩa vẫn không thay đổi. Ngày nay, nhiều người không thể 6
- phân biệt được rõ ràng giữa “ốm đau” và “bệnh tật” vì các bệnh lý của chúng thể hiện cũng gần giống nhau. Tuy nhiên, theo ngôn ngữ hàng ngày, “ốm đau” là khái niệm rộng hơn, có thể được dùng chung cho cả “bệnh tật”. Mặc dù có nhiều cách giải thích khác nhau, chúng ta cũng đều phải công nhận rằng, ốm đau là hiện tượng hầu như không thể tránh khỏi trong suốt cuộc đời mỗi người. Tùy theo mức độ, con người có thể tự cảm nhận được sức khỏe bình thường của bản thân đang bị giảm xuống, hoặc nặng hơn, có thể có những triệu chứng khác cần có sự can thiệp, điều trị của y, bác sỹ. Những lúc như vậy, nhu cầu của con người thay đổi một cách cơ bản, kèm theo là sự tăng lên đáng kể về chi phí, bao gồm chi phí ăn uống, thuốc thang, điều trị tại bệnh viện Như vậy, ốm đau không chỉ tác động đến sức khỏe, đời sống sinh hoạt mà còn là nguyên nhân khiến sức lao động của con người bị ảnh hưởng. Khi ốm đau ở mức độ nhẹ, một số trường hợp vẫn có thể tham gia lao động, nhưng hiệu suất và chất lượng công việc sẽ bị giảm sút. Trường hợp nặng hơn, không đủ sức khỏe để lao động, người bị ốm đau phải nghỉ việc, ảnh hưởng đến thu nhập của bản thân và của cơ quan, tổ chức là NSDLĐ. Dù lý giải thế nào đi chăng nữa, chúng ta cũng phải thừa nhận một điều rằng ốm đau là một hiện tượng rủi ro phổ biến mà con người không hề mong muốn. Ốm đau làm con người cảm thấy nhức nhối, khó chịu, mệt mỏi khiến không thể làm việc được. Họ phải nghỉ việc, ở nhà nghỉ ngơi hoặc đến các bệnh viện, cơ sở y tế để chữa trị. Do phải nghỉ việc, nên thu nhập trong khoảng thời gian này của NLĐ không được đảm bảo. Không những thế, họ lại phải trang trải chi phí thuốc men, khám, chữa bệnh, nếu bệnh nặng thì lại cần có người thân chăm sóc, ảnh hưởng đến thời gian, thu nhập của người thân trong gia đình. 7
- 1.1.2. Quan niệm về bảo hiểm ốm đau và sự cần thiết phải có bảo hiểm ốm đau Với mong muốn đảm bảo thu nhập cho NLĐ (tham gia BHXH) khi phải tạm thời nghỉ việc vì ốm đau, tai nạn (do nguyên nhân khách quan và không phải là tai nạn lao động) hoặc chăm sóc con ốm, các nhà làm luật đã tìm ra giải pháp, đó là xác lập chế độ bảo hiểm ốm đau. Bảo hiểm ốm đau sẽ bù đắp phần nào thu nhập bị mất hoặc bị giảm trong thời gian người tham gia BHXH gặp rủi ro ốm đau, nhằm chia sẻ những khó khăn, thiệt thòi của NLĐ trong thời gian bị ốm đau, tai nạn hoặc chăm sóc con ốm. Bảo hiểm ốm đau là một trong các chế độ BHXH ra đời sớm nhất trong lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật BHXH. Ở nước Đức, ngay từ những năm 50 của thế kỷ XIX (1850) nhiều chính quyền bang đã quan tâm tới việc quy định và bắt buộc thực hiện chế độ trợ cấp ốm đau đối với NLĐ. Đối tượng tham gia chế độ bảo hiểm ốm đau ngày càng được mở rộng vào năm 1883 dưới thời Tể tướng Bismark. Sau đó, nhiều nước châu Âu cũng đã cho ra đời các đạo luật của mình có quy định về vấn đề bảo hiểm ốm đau. Đến đầu thế kỷ XX, bảo hiểm ốm đau đã mở rộng ra nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là các nước Mỹ La tinh, Hoa Kỳ, Canada và một số nước khác [46, tr 331]. Năm 1952, Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) đã thông qua Công ước số 102 với những quy phạm tối thiểu về BHXH. Theo khuyến nghị của ILO tại Công ước này, BHXH gồm: Chăm sóc y tế; Trợ cấp ốm đau; Trợ cấp thất nghiệp; Trợ cấp tuổi già; Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp; Trợ cấp gia đình; Trợ cấp sinh sản; Trợ cấp tàn phế; Trợ cấp cho người bị mất người nuôi dưỡng. Trong đó, Điều 14 Công ước số 102 quy định chế độ trợ cấp ốm đau được áp dụng đối với các trường hợp bị mất khả năng lao động do đau ốm gây ra và dẫn đến gián đoạn thu nhập như pháp luật hoặc quy định quốc gia quy định. Có thể nói, đối tượng áp dụng bảo hiểm ốm đau chính là 8
- những NLĐ bị mất khả năng lao động do ốm đau, bệnh tật, phải nghỉ việc dẫn đến thu nhập bị gián đoạn. Do bảo hiểm ốm đau là một chế độ BHXH, nên dưới góc độ tài chính có thể hiểu bảo hiểm ốm đau là quá trình san sẻ rủi ro, san sẻ tài chính giữa các bên tham gia theo quy định thống nhất pháp luật của nhà nước. Dưới góc độ pháp lý, bảo hiểm ốm đau là một chế độ pháp định bảo vệ cho NLĐ và gia đình họ thông qua việc sử dụng tiền đóng góp của NLĐ và NSDLĐ được nhà nước bảo trợ để trợ cấp vật chất cho NLĐ tham gia bảo hiểm và gia đình họ khi NLĐ gặp rủi ro ốm đau, bệnh tật. Có thể nói, đảm bảo thu nhập cho NLĐ tạm thời bị gián đoạn do bị ốm đau là việc làm vô cùng cần thiết và việc xác lập chế độ bảo hiểm ốm đau là một quyết định đúng đắn của các nhà làm luật, bởi trong cuộc sống của con người, ốm đau, tai nạn là điều có thể xảy ra, gây ra nhiều khó khăn về vật chất và tinh thần cho con người. Những lúc như vậy, nhu cầu của con người thay đổi một cách cơ bản, kèm theo là sự tăng lên đáng kể về chi phí. Đối với NLĐ, sự kiện này được coi là một loại rủi ro trong lao động mà họ gặp phải, biểu hiện rõ nhất ở chỗ NLĐ bị mất thu nhập (tạm thời) từ lao động. Nếu NLĐ là trụ cột kinh tế chính trong gia đình, việc bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau có thể khiến những người trong gia đình mất chỗ dựa, khó khăn về cơm ăn, áo mặc, con cái không thể tiếp tục đến trường Chưa kể, khi ốm đau, bản thân NLĐ sẽ cần có những chi phí thuốc thang, chăm sóc y tế. Trường hợp người bị ốm đau là con còn nhỏ, NLĐ buộc phải nghỉ việc để chăm sóc con ốm, cũng khiến cho thu nhập từ lao động không được đảm bảo. Trong những trường hợp như vậy, nếu nhà nước không có chính sách hỗ trợ phần nào thu nhập cho NLĐ, trước mắt họ sẽ gặp nhiều khó khăn về tài chính do thời gian này NLĐ không thể đi làm và không được trả lương. Kéo theo đó là tâm lý của NLĐ cũng sẽ bị ảnh hưởng. Bên cạnh việc sức khỏe bị giảm sút, 9
- tinh thần mệt mỏi, chi tiêu gia đình bị co hẹp, NLĐ sẽ dần mất đi niềm tin vào xã hội, vào chính sách pháp luật của nhà nước và không muốn gắn bó với công việc Nếu để tình trạng đó tồn tại, về lâu dài sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Nhìn chung, dù ở góc độ nào, bảo hiểm ốm đau cũng là một chính sách quan trọng không thể thiếu trong hệ thống BHXH của mỗi quốc gia và được thể hiện ở các nội dung cơ bản như: Bảo hiểm ốm đau ra đời nhằm bảo đảm thu nhập cho NLĐ tham gia BHXH tạm thời nghỉ việc do ốm đau, tai nạn rủi ro; các trường hợp bị ốm đau, tai nạn do tính chất công việc gây ra (bệnh nghề nghiệp và tai nạn lao động) không phải là đối tượng của chế độ bảo hiểm ốm đau. 1.2. Bảo hiểm ốm đau 1.2.1. Khái niệm bảo hiểm ốm đau Bảo hiểm ốm đau, có thể hiểu như trợ cấp ốm đau, là sự bảo đảm hoặc thay thế về thu nhập cho NLĐ và gia đình họ khi NLĐ bị ốm đau, bệnh tật (không phải do công việc gây ra) làm mất khả năng làm việc dẫn đến mất hoặc giảm thu nhập trong một khoảng thời gian nhất định. Mục đích của chế độ này là bảo vệ sự mất khả năng lao động do ốm đau gây ra dẫn đến thu nhập bị gián đoạn. Chế độ bảo hiểm này giúp người tham gia BHXH nhanh chóng ổn định cuộc sống, từ đó góp phần đảm bảo an sinh xã hội. Quan niệm về bảo hiểm ốm đau cũng có sự khác nhau ở các quốc gia trên thế giới. Một số quốc gia duy trì chế độ trợ cấp thai sản riêng biệt với chế độ trợ cấp ốm đau (Phần Lan, Thụy Điển) trong khi tại hầu hết quốc gia, trợ cấp thai sản được thực hiện như một phần của chế độ ốm đau, như: Đức, Anh, Đan Mạch [50]. Sở dĩ các nước này đặt chung trợ cấp thai sản với trợ cấp ốm đau bởi trợ cấp ốm đau, thai sản cũng như việc chăm sóc sức khỏe được quản lý theo cùng một nhánh với ASXH, do đó thường được nhóm lại với 10
- nhau. Hai chế độ này cũng có nhiều điểm chung là được thiết kế để hỗ trợ trong việc cung cấp chăm sóc dài hạn, thường là tại nhà, được hỗ trợ nói chung bằng một sắc thuế đặc biệt; mức trợ cấp thường được xây dựng theo mức độ yêu cầu cung cấp; chế độ ốm đau cũng như thai sản có thể chi trả bằng tiền, dịch vụ chăm sóc y tế hoặc là sự kết hợp của cả hai. Ngoài ra, NLĐ nữ trước và sau khi sinh con là đối tượng thường xuyên bị ốm đau nên đây cũng là lý do khiến nhiều nước thực hiện chế độ thai sản như một phần của chế độ ốm đau. Đối với hầu hết các quốc gia, chế độ ốm đau bao gồm dịch vụ chăm sóc y tế hoặc trợ cấp bằng tiền. Tại Đức, người được bảo hiểm phải trả một phiếu điều hòa 12 DM mỗi ngày trong 15 ngày đầu nằm viện; 3,5 hoặc 7 DM cho thuốc theo mức hợp quy cách (chiếm khoảng 10% giá) cũng như sự chênh lệch giá của thuốc và giá quy chiếu; các thứ tiện nghi không được hoàn trả; những người nghèo nhất và trẻ em được miễn phiếu điều hòa. Nước này cũng quy định người được bảo hiểm có quyền được trợ cấp bằng tiền và bảo hiểm ốm đau cũng chi trả trợ cấp hằng ngày trong trường hợp nghỉ vì con ốm [50, tr 331, 332]. Ở Anh, phần lớn việc chăm sóc được cung cấp không mất tiền với hầu hết chăm sóc y tế, với điều kiện, đối với việc khám chuyên khoa và nằm viện đã được bác sĩ đa khoa chăm sóc người đó đăng ký trước đó. Tuy nhiên, người được bảo hiểm vẫn phải chi trả một phần chi phí nhất định cho tiền thuốc và pháp luật nước này cũng quy định những trường hợp được miễn tiền thuốc hoàn toàn [50, tr 358]. Đối với Thụy Điển, phần chi phí người được bảo hiểm phải trả không thể cao hơn mức tối đa trong thời gian 12 tháng. Ngoài ra, NLĐ làm công ăn lương ốm ngừng làm việc nếu đạt đủ điều kiện có quyền được hưởng trợ cấp ốm đau hàng ngày bằng tiền trợ cấp theo quy định của pháp luật [50, tr 433]. Mức trợ cấp này có sự khác nhau như vậy tùy thuộc vào điều kiện tài chính và chính sách ASXH của mỗi quốc gia. 11
- Ở Việt Nam, đã có nhiều tài liệu đưa ra khái niệm về bảo hiểm ốm đau. Trong Giáo trình Bảo hiểm xã hội của Trường Đại học Lao động - Xã hội có nêu: “Bảo hiểm ốm đau là chế độ BHXH nhằm đảm bảo thu nhập cho người lao động (người tham gia bảo hiểm xã hội) tạm thời bị gián đoạn do phải nghỉ việc vì ốm đau, tai nạn không liên quan đến nghề nghiệp hoặc nghỉ để chăm sóc con ốm” [46, tr 330]. Giáo trình Luật An sinh xã hội của Trường Đại học Luật cũng đưa ra khái niệm tương tự: “Bảo hiểm ốm đau là chế độ BHXH nhằm đảm bảo thu nhập cho người lao động (người tham gia bảo hiểm xã hội) tạm thời bị gián đoạn do phải nghỉ việc vì ốm đau, tai nạn, chăm sóc con ốm theo quy định của pháp luật” [47, tr 134]. Theo đó, ở Việt Nam, bảo hiểm ốm đau bao gồm sự đảm bảo thu nhập cho NLĐ tạm thời bị gián đoạn do phải nghỉ việc vì bị ốm đau hoặc nghỉ chăm sóc con ốm. Có thể nói, mặc dù mỗi quốc gia có quan niệm và định nghĩa khác nhau về bảo hiểm ốm đau, nhưng theo chúng tôi, bảo hiểm ốm đau là một chế độ BHXH nhằm hỗ trợ một phần thu nhập cho NLĐ khi họ bị ốm đau, bệnh tật phải nghỉ việc hoặc phải nghỉ việc để chăm sóc con ốm. Sự hỗ trợ này có thể là chăm sóc sức khỏe dưới dạng trợ cấp về y tế, điều trị, thuốc men hoặc trợ cấp bằng tiền mặt. 1.2.2. Nguyên tắc bảo hiểm ốm đau Thứ nhất, mọi NLĐ có tham gia BHXH trong mọi trường hợp bị giảm, mất khả năng lao động hoặc mất việc làm đều có quyền được hưởng bảo hiểm ốm đau. Được cộng đồng chia sẻ rủi ro là nhu cầu chính đáng của mọi người, vì vậy tham gia BHXH và hưởng bảo hiểm ốm đau khi ốm đau, bệnh tật dẫn đến bị giảm, mất khả năng lao động hoặc mất việc làm là nhu cầu chính đáng của mọi NLĐ. Đây cũng là một trong những biểu hiện cụ thể của quyền con người. Đó là một trong các phương thức đảm bảo quyền bình đẳng cho NLĐ trên 12
- phương diện xã hội, nhất là trong điều kiện BHXH có sự bảo trợ của Nhà nước. Khi xây dựng hệ thống BHXH thì Nhà nước phải tạo điều kiện và môi trường kinh tế - xã hội, về chính sách và luật pháp, về tổ chức và cơ chế quản lý cần thiết. Đồng thời, những NSDLĐ và NLĐ phải thực hiện đóng góp tài chính của mình. Thực hiện trách nhiệm đóng góp tài chính BHXH là điều kiện cơ bản nhất để NLĐ được hưởng quyền BHXH, trong đó có chế độ ốm đau. Quyền hưởng bảo hiểm ốm đau của NLĐ là việc họ được hưởng trợ cấp của Nhà nước khi gặp phải sự cố ốm đau, tai nạn, phải tạm thời nghỉ việc theo các chế độ xác định. Các chế độ bảo hiểm này gắn với các trường hợp NLĐ bị giảm, hoặc mất khả năng lao động do ốm đau, tai nạn. Mức hưởng còn căn cứ vào điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể của mỗi quốc gia trong từng giai đoạn phát triển của BHXH. Thứ hai, bảo hiểm ốm đau được thực hiện trên cơ sở số đông bù số ít. Bảo hiểm nói chung hoạt động trên cơ sở xác suất rủi ro theo quy luật số lớn, tức là lấy sự đóng góp của số đông người tham gia san sẻ cho số ít người không may gặp rủi ro. Trong số đông người tham gia đóng góp BHXH, chỉ những NLĐ mới là đối tượng hưởng trợ cấp và trong số những NLĐ lại chỉ những người ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thai sản hay tuổi già có đủ điều kiện cần thiết mới thực sự được hưởng trợ cấp. Trong số đó có những người tham gia đóng góp từ lâu, nhưng có nhiều người vừa mới tham gia đóng góp. Vì thế, mức trợ cấp mà họ nhận được lớn hơn rất nhiều so với số tiền đóng góp của họ. Muốn làm như vậy không có cách nào khác là phải lấy kết quả đóng góp của số đông người tham gia để bù cho số ít người được hưởng trợ cấp. Những NLĐ chưa đủ điều kiện để hưởng trợ cấp lúc này thì phần đóng góp của họ để người khác hưởng, nhưng cuộc đời làm việc, chắc chắn họ cũng cần được hưởng trợ cấp BHXH. Khi đó, trợ cấp mà họ 13
- được hưởng cũng do nhiều người khác đóng góp. Bảo hiểm ốm đau cũng được thực hiện trên nguyên tắc như vậy. Thứ ba, mức hưởng bảo hiểm ốm đau phải thấp hơn mức tiền lương lúc đang đi làm, nhưng thấp nhất cũng phải đảm bảo cuộc sống tối thiểu của NLĐ và gia đình họ. Đây là một nguyên tắc quan trọng khi quy định mức hưởng bảo hiểm ốm đau cho NLĐ. Trợ cấp chế độ ốm đau là loại trợ cấp thay thế tiền lương chứ không phải loại trợ cấp bù đắp hoặc trợ cấp BHXH khác. Tiền lương là khoản tiền người chủ sử dụng lao động trả cho NLĐ khi họ thực hiện công việc nhất định, có sức khỏe bình thường, làm việc bình thường. Khi NLĐ bị ốm đau hoặc có con nhỏ bị ốm đau, không thể thực hiện công việc nhất định hoặc không làm việc được mà trước đó đã tham gia BHXH thì chỉ được hưởng chế độ ốm đau nên mức hưởng đó không thể bằng tiền lương NLĐ được hưởng khi lao động bình thường được. Nếu mức hưởng chế độ ốm đau bằng hoặc cao hơn tiền lương thì không một NLĐ nào phải cố gắng có việc làm và tích cực làm việc để có lương mà ngược lại họ sẽ tìm mọi cách để được hưởng chế độ này. Hơn nữa, cách lập quỹ phương thức dàn trải rủi ro của BHXH cũng không cho phép trả chế độ ốm đau bằng tiền lương lúc đang đi làm. Vì trả trợ cấp bằng tiền lương thì chẳng khác gì NLĐ bị rủi ro đem rủi ro của mình dàn trải cho những người khác. Như vậy, mức hưởng bảo hiểm ốm đau phải thấp hơn mức tiền lương, tiền công lúc đang đi làm, tuy nhiên, do mục đích, bản chất và cách làm của BHXH thì mức trợ cấp ốm đau thấp nhất cũng không thể thấp hơn mức sống tối thiểu hàng ngày, nhằm đảm bảo bản thân NLĐ và gia đình họ vẫn duy trì được cuộc sống trong thời gian hưởng chế độ ốm đau. Điều này thể hiện vai trò trụ cột trong hệ thống ASXH của BHXH. 14
- Thứ tư, mức hưởng bảo hiểm ốm đau được tính trên cơ sở mức đóng, thời gian đóng BHXH. Bất cứ NLĐ nào tham gia BHXH cũng đều phải đóng góp tài chính nhất định vào quỹ BHXH. Quỹ này được sử dụng để chi trả các chế độ BHXH cho chính những NLĐ đã đóng BHXH khi họ bị ốm đau hoặc gặp những rủi ro khác. Tuy nhiên, để đảm bảo sự công bằng, nhà nước quy định thời gian hưởng và mức hưởng bảo hiểm ốm đau của mỗi NLĐ khác nhau tùy thuộc vào mức đóng và thời gian đóng BHXH của họ. NLĐ sẽ có thời gian hưởng chế độ ốm đau và mức hưởng chế độ ốm đau tương ứng với thời gian và mức đóng BHXH họ đã tham gia. Thứ năm, thực hiện chế độ bảo hiểm ốm đau phải đơn giản, dễ dàng, thuận tiện, bảo đảm kịp thời và đầy đủ quyền lợi của NLĐ tham gia BHXH. Khi gặp rủi ro như ốm đau hoặc có con nhỏ bị ốm đau, NLĐ đã rất mệt mỏi và gặp nhiều khó khăn (về sức khỏe, thời gian, tài chính ). Khi NLĐ phải nghỉ làm, điều họ cần nhất đó là thu nhập của họ vẫn được đảm bảo, nhằm hỗ trợ chi phí điều trị và động viên tinh thần NLĐ. Vì vậy, việc thực hiện chi trả bảo hiểm ốm đau cho NLĐ phải đảm bảo đơn giản, dễ dàng, thuận tiện, đồng thời bảo đảm tính kịp thời và đầy đủ cho NLĐ. Như vậy, BHXH nói chung và chế độ ốm đau nói riêng mới thực sự có ý nghĩa đối với bản thân NLĐ và gia đình họ. 1.2.3. Nội dung chế độ bảo hiểm ốm đau 1.2.3.1. Đối tượng hưởng bảo hiểm ốm đau Theo Điều 15 Công ước số 102 về quy phạm tối thiểu về an toàn xã hội năm 1952 của Tổ chức Lao động quốc tế, đối tượng được hưởng trợ cấp ốm đau bao gồm: “những người làm công ăn lương được quy định, tổng số ít nhất chiếm 50% toàn bộ những người làm công ăn lương; hoặc những loại được quy định trong dân số hoạt động kinh tế, tổng số ít nhất chiếm 20% toàn 15
- bộ những người thường trú; hoặc mọi người thường trú mà phương tiện sinh sống trong khi trường hợp bảo vệ xảy ra không vượt quá giới hạn quy định theo Điều 67 ” Qua đó có thể thấy, nguyên tắc chung của ILO là phải đối xử bình đẳng giữa mọi thành viên trong xã hội, kể cả người nước ngoài sinh sống và làm việc trên lãnh thổ quốc gia. Đối với mỗi quốc gia, tùy thuộc vào điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội và trình độ quản lý ở từng thời kỳ mà có quy định khác nhau về đối tượng hưởng bảo hiểm ốm đau. Ở Đức, do sự tồn tại và cạnh tranh giữa bảo hiểm tư nhân và bảo hiểm ốm đau theo pháp luật, nên những người không tham gia bảo hiểm ốm đau bắt buộc có quyền được chế độ ốm đau tự nguyện. Theo đó, pháp luật BHXH nước Đức chia đối tượng hưởng chế độ ốm đau làm 3 nhóm: những người thuộc bảo hiểm theo pháp luật; những người bảo hiểm tự nguyện bên cạnh bảo hiểm theo pháp luật; những người không gia nhập bảo hiểm theo pháp luật. Nhìn chung, đối tượng được hưởng chế độ ốm đau ở nước Đức khá rộng, không chỉ bao gồm người làm công ăn lương, mà còn có cả người học nghề được trả công; sinh viên; những người làm một số nghề độc lập (như nông dân, nghệ sỹ, nhà quảng cáo); trẻ em, con của những người có thu nhập quá lớn; những người làm công ăn lương trở về sau một thời gian dài ở nước ngoài [50, tr 322]. Tại nước Anh, NLĐ làm công ăn lương ốm ngừng làm việc, nếu đáp ứng các điều kiện, sau 3 ngày có quyền được hưởng trợ cấp ốm đau hàng ngày [50, tr 359]. Còn ở Đan Mạch, đối tượng hưởng trợ cấp ốm đau là những người làm công ăn lương cũng như người không phải làm công ăn lương theo tỷ lệ 100%, nhưng có giới hạn trần và trong vòng một năm. Sở dĩ, đối tượng hưởng chế độ ốm đau ở các nước này hẹp hơn là do ở Anh và Đan Mạch, việc 16