Luận văn Chế độ hưu trí trong quy định luật bảo hiểm xã hội thực trạng tại Thành phố Hà Nội
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Chế độ hưu trí trong quy định luật bảo hiểm xã hội thực trạng tại Thành phố Hà Nội", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_che_do_huu_tri_trong_quy_dinh_luat_bao_hiem_xa_hoi.pdf
Nội dung text: Luận văn Chế độ hưu trí trong quy định luật bảo hiểm xã hội thực trạng tại Thành phố Hà Nội
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THẾ MỪNG CHẾ ĐỘ HƢU TRÍ TRONG QUY ĐỊNH LUẬT BẢO HIỂM XÃ HỘI THỰC TRẠNG TẠI THÀNH PHỐ HÀ NỘI LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Hà Nội – 2015
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THẾ MỪNG CHẾ ĐỘ HƢU TRÍ TRONG QUY ĐỊNH LUẬT BẢO HIỂM XÃ HỘI THỰC TRẠNG TẠI THÀNH PHỐ HÀ NỘI Chuyên ngành : Luật kinh tế Mã số : 60 38 01 07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Lê Thị Hoài Thu Hà Nội – 2015
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 CHƢƠNG 1KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HƢU TRÍ VÀ CHẾ ĐỘ HƢU TRÍ 6 1.1. Khái niệm về hƣu trí và sự cần thiết phải có bảo hiểm hƣu trí 6 1.1.1. Quan niệm về hưu trí 6 1.1.2. Sự cần thiết phải có bảo hiểm hưu trí 8 1.2. Khái niệm chế độ hƣu trí 10 1.2.1. Định nghĩa chế độ hưu trí 10 1.2.2. Nguyên tắc cơ bản của chế độ hưu trí 12 1.2.3. Vai trò của chế độ hưu trí 17 1.3. Chế độ hƣu trítrong pháp luật một số nƣớc trên thế giới và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam 19 1.3.1 Chế độ hưu trítrong pháp luật một số nước 19 1.3.2. Bài học kinh nghiệm dành cho Việt nam 30 CHƢƠNG 2THỰC TRẠNG CHẾ ĐỘ HƢU TRÍ TRONG LUẬT BẢO HIỂM XÃ HỘI HIỆN HÀNH VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI 33 2.1. Thực trạng các quy định pháp luật về chế độ hƣu trí 33 2.1.1 Về đối tượng hưởng 33 2.1.2. Về điều kiện hưởng 34 2.1.3. Về mức hưởng 38 2.1.4. Về quỹ hưu trí 43 2.1.5. Về hồ sơ hưởng chế độ hưu trí 47 2.2. Thực trạng áp dụng chế độ hƣu trí trên địa bàn thành phố Hà Nội 51 2.2.1. Kết quả đạt được 51 2.2.2. Những hạn chế, vướng mắc 56 2.2.3. Nguyên nhân của sự hạn chế 59
- 2.3. Một số điểm mới về chế độ hƣu trí trong Luật BHXH 2014 60 CHƢƠNG 3GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN CHẾ ĐỘ HƢU TRÍ TRONG LUẬT BẢO HIỂM XÃ HÔI TỪ THỰC TIỄN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI 64 3.1. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả thực hiện chế độ hƣu trí 64 3.2. Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chế độ hƣu trí 65 3.3. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chế độ hƣu trí từ thực tiển trên địa bàn thành phố Hà Nội 70 3.3.1. Về các quy định pháp luật 70 3.3.2. Về tổ chức thực hiện pháp luật 75 KẾT LUẬN 80 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 82
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của nghiên cứu đề tài Như chúng ta đã biếtbảo hiểm xã hội là sự bảo đảm bù đắp hoặc thay thế một phần thu nhập cho người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập từ nghề nghiệp do bị giảm hoặc mất khả năng lao động hay sức lao động không được sử dụng, thông qua việc hình thành và sử dụng một quỹ tài chính do sự đóng góp của các bên tham gia bảo hiểm xã hội và các nguồn thu hợp pháp khác, nhằm góp phần đảm bảo an toàn kinh tế cho người lao động và gia đình họ, đồng thời góp phần bảo đảm an toàn xã hội. Bảo hiểm xã hội đã trở thành một nhu cầu tất yếu khách quan, một trong những quyền cơ bản của con người, đúng như trong “Tuyên ngôn nhân quyền của Đại hội đồng Liên hợp quốc” đã nêu: “Mọi quốc gia trên thế giới không phân biệt chế độ chính trị, xã hội, không phân biệt giàu hay nghèo đều phải thực hiện các chế độ về bảo hiểm xã hội” [26]. Chế độ hưu trí là một trong những chế độ quan trọng nhấtcủa hệ thốngan sinh xã hội, góp phần quan trọng làm cho xã hội được ổn định.Qua một thời gian dài tổ chức thực hiện, chế đô ̣hưu trí cùng các ch ế độ bảo hiểm xã hội khác đã đảm bảo đời sống cho người lao động, tạo điều kiện cho họ yên tâm lao động sản xuất nâng cao chất lượng cuộc sống, giữ vững ổn định chính trị xã hội. Nhà nước ta đang từng bước hoàn thiện chính sách bảo hiểm xã hội nói chung và chế độ hưu trí nói riêngbằng việc ban hành các Văn bản, Nghị định, Thông tư và gần đây nhất là Luật bảo hiểm xã hội, Luật bảo hiểm y tế cùng các văn bản hướng dẫn thực hiện để phù h ợp với sự phát triển của đất nước và xu th ế hội nhập kinh tế thế giới. Ở Việt Nam, qua 40 năm thực hiện, chế độ hưu trí luôn có vị trí quan trọng đặc biệt đối với người tham gia bảo hiểm xã hội. Chế độ hưu trí cùng với các chế độ bảo hiểm xã hội khác đã góp phần rất to lớn vào việc ổn định đời sống của công nhân viên chức, lực lượng vũ trang và gia đình họ làm cho 1
- họ yên tâm lao động sản xuất, thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị của đất nước trong thời kỳhội nhập. Nhờ có chế độ hưu trí mà người lao động sau khi hết tuổi lao động hoặc sau một số năm công tác nhất định đã được nghỉ hưu và được nhận tiền hưu để ổn định cuộc sống. Tuy nhiên, do điều kiện lịch sử chế độ hưu trí thời kỳ bao cấp chưa thể hiện đúng bản chất của nó mà thể hiện tính ưu đãi bao cấp của Nhà nước cho một bộ phận dân cư là công nhân viên chức, lực lượng vũ trang. Nhưng trong thời kỳ đó chế độ hưu trí cũng đã góp phần rất lớn vào việc ổn định đời sống cho người lao động. Đến nay, khi nền kinh tế chuyển sang cơ chế thị trường -hàng hóa, nền kinh tế tăng trưởng, phát triển rộng đa ngành nghề, tạo công ăn, việc làm cho nhiều người lao động, dẫn đến nhu cầu về bảo hiểm xã hội đa dạng và ngày càng tăng, số lượng người về hưu cũng ngày càng nhiều thì đời sống của họ luôn luôn là mối quan tâm lớn của Đảng và nhà nước ta. Từ đó đặt ra yêu cầu là thực hiện bảo hiểm xã hội đối với người về hưu như thế nào để đạt được hiệu quả cao nhất, đồng thời phù hợp với hoàn cảnh đất nước trong thời kỳ đổi mới Để đáp ứng được yêu cầu này thì việc xây dựng và hoàn thiện chế độ hưu trí cho phù hợp với cơ chế quản lý mới là hết sức cần thiết. Thành phố Hà Nội là một đơn vị hành chính có dân sốđông thứ hai cả nước, là trung tâm kinh tế, chính trị văn hóa xã hội của cả nước. Với dân số đông, lực lượng lao động dồi dàonên vấn đề thực hiện các quy định của Luật bảo hiểm xã hộitrong đó có chế độ hưu trí là rất phức tạp, nhiều vướng mắc trong quá trình thực hiện phát sinh cần tìm được các phương án giải quyết. Từ những sự phân tích trên, tác giả quyết định chọn đề tài “Chế độ hưu trí trong Luật bảo hiểm xã hội -Thực trạng tại thành phố Hà Nội” làm đề tài luận văn thạc sĩ. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Chế độ hưu trí là một trong những chế độ quan trọng nhất trong Luật bảo hiểm xã hội của bất kỳ quốc gia nào. Nó xuất hiện từ giai đoạn đầu hình 2
- thành các chính sách bảo hiểm xã hội của các quốc gia. Ở Việt Nam nghiên cứu về chế độ hưu trí đã được quan tâm từ rất lâu. Vấn đề này được nghiên cứu dưới nhiều khía cạnh khác nhau. Có thể kể đến một số công trình sau: - Tác giả Bùi Ngọc Thanh với bài viết: “Kiến nghị sửa đổi chế độ hưu trí trong Luật bảo hiểm xã hội”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 19/2013; - Tác giả Nguyễn Thị Kim Phụng với bài viết: “Góp ý vào Dự thảo Luật Bảo hiểm xã hội: Hoàn thiện chế độ bảo hiểm hưu trí”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 8/2005. - Tác giả Đặng Như Lợi với bài viết: “Cải cách Luật bảo hiểm xã hội để mở rộng bảo hiểm hưu trí đối với người cao tuổi”, Tạp chí Lý luận chính trị, số 12/2014; Ngoài ra có thể kể đến một số công trình nghiên cứu ở cấp độ khóa luận tốt nghiệp nghiên cứu về vấn đề này như: - Tác giả Nguyễn Thị Hiên với công trình: Những điểm mới về chế độ bảo hiểm hưu trí của Luật bảo hiểm xã hội 2006, Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2007. - Tác giả Lê Ngọc Linh với công trình: Cải cách chế độ bảo hiểm hưu trí trên thế giới và một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2008. - Tác giả Trần Công Dũng với tác phẩm: “Góp phần hoàn thiện chế độ hưu trí trong pháp luật về bảo hiểm xã hội ở Việt Nam”, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2002. Tất cả những công trình trên đây đều tập trung nghiên cứu về vấn đề chế độ hưu trí trong Luật bảo hiểm xã hội các thời kỳ. Tuy nhiên, ở góc độ nào đó chưa có công trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện và sâu sắc về vấn đề chế độ hưu trí trong Luật bảo hiểm xã hội năm 2006, từ đó làm cơ sở để hoàn thiện hơn chế độ bảo hiểm hưu trí trong Luật bảo hiểm xã hội. Như vậy việc nghiên cứu đề tài “Chế độ hưu trí trong quy định của Luật bảo 3
- hiểm xã hội – Thực trạng tại thành phố Hà Nội” là cần thiết cả về vấn đề lý luận và thực tiễn. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu Đề tài làm rõ những vấn đề lý luận về nội dung, vai trò của chế độ bảo hiểm hưu trí. Ngoài ra, luận văn còn đánh giá thực trạng của các quy định pháp luật về chế độ hưu trí, chỉ ra những điểm hạn chế và nguyên nhân của sự bất cập để từ đó đưa ra giải pháp hoàn thiện các quy định về chế độ hưu trí ở nước ta hiện nay từ thực tế trên địa bàn thành phố Hà Nội. Từ mục đích trên đề tài đặt ra những nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể sau: Nghiên cứu đề ra định nghĩa, đặc điểm, vai trò của chế độ hưu trí trong chính sách bảo hiểm xã hội ở một quốc gia. Nghiên cứu so sánh một số chính sách về chế độ hưu trí trong luật bảo hiểm xã hội một số quốc gia trên thế giới từ đó rút ra bài học cho Việt Nam; Nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành về chế độ bảo hiểm hưu trí. Nghiên cứu thực tiễn thực hiện chế độ hưu trí tại thành phố Hà Nội, từ đó rút ra những vướng mắc, bất cập trong quy định của pháp luật về chế độ hưu trí và thực tiễn thực hiện chế độ hưu trí tại Hà Nội. Đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả hoạt động của Bảo hiểm xã hội về chế độ hưu trí. 4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu Luận văn nghiên cứu những vẫn đề lý luận về chế độ bảo hiểm hưu trí, về thực trạng các quy định của pháp luật về bảo hiểm hưu trí và thực trạng thực hiện chế độ bảo hiểm hưu trí trên địa bàn thành phố Hà Nội. Phạm vi nghiên cứu: Phạm vi nghiên cứu của luận văn là các quy định về bảo hiểm hưu trí trong Luật bảo hiểm xã hội năm 2006 và các văn bản hướng dẫn thi hành cũng như về thực trạng thực hiện chế độ bảo hiểm hưu trí của thành phố Hà Nội, đồng thời so sánh, đánh giá các điểm hạn chế của Luật bảo hiểm xã hội năm 2006 với Luật bảo hiểm xã hội năm 2014. 4
- 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: Phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về duy vật lịch sử và duy vật biện chứng, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật đặc biệt là về chính sách an sinh xã hội trong đó có chế độ bảo hiểm hưu trí. Ngoài ra, đề tài còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể của ngành luật học như: Các phương pháp tổng hợp, phân tích thống kê, điều tra xã hội học và phương pháp so sánh 6. Đóng góp của luận văn Góp phần làm rõ và hoàn thiện thêm những vấn đề lý luận và thực tiễn về hoạt động bảo hiểm xã hội nói chung và chế độ bảo hiểm hưu trí nói riêng. Làm rõ thực trạng thực hiện chế độ bảo hiểm hưu trí trên địa bàn thành phố Hà Nội trong những năm vừa qua. Đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về chế độ bảo hiểm hưu trí và giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chế độ bảo hiểm hưu trí ở Việt Nam hiện nay. Đề tài có thể làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu và học tập của sinh viên, học viên chuyên ngànhluật. Ngoài ra đề tài còn có thể tham khảo trong quá trình xây dựng chính sách về chế độ hưu trí và nâng cao hiệu quả thực hiện chế độ hưu trí tại thành phố Hà Nội. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài Mở đầu, Kết luận, và Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Khái quát chung về hưu trí và chế độ hưu trí Chương 2: Thực trạng chế độ hưu trí trong Luật bảo hiểm xã hội hiện hành và thực tiễn áp dụng trên địa bàn thành phố Hà Nội Chương 3: Giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chế độ hưu trí trên trong Luật bảo hiểm xã hội từ thực tiễn trên địa bàn thành phố Hà Nội 5
- CHƢƠNG 1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HƢU TRÍ VÀ CHẾ ĐỘ HƢU TRÍ 1.1. Khái niệm về hƣu trí và sự cần thiết phải có bảo hiểm hƣu trí 1.1.1. Quan niệm về hưu trí Hưu trí là khái niệm được dùng trong nhiều lĩnh vực khác nhau, nhưng đều được hiểu dưới khía cạnh thống nhất là giai đoạn tuổi già, người lao động đã hết tuổi lao động không tham gia vào các công việc lao động chính nữa. Hưu trí là tên gọi chỉ chung cho những người đã về hưu hoặc nghỉ hưu theo chế độ và được hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội. Hưu trí thường là người già, người có thâm niên công tác nhất định (ngoại trừ một số trường hợp nhà nước cho nghỉ mất sức vì thực hiện các công việc nặng nhọc, độc hại ) [29, tr.23]. Quan điểm về hưu trí thường xuất phát từ căn cứ về sức lao động của người lao động và căn cứ điều kiện kinh tế xã hội. Căn cứ về sức lao động của người lao động Theo thời gian khả năng của con người cũng sẽ giảm dần, không một ai có thể khoẻ mạnh để lao động sản xuất ra của cải vật chất suốt cả cuộc đời. Khi già yếu khoản thu nhập mà họ dùng để chi tiêu cho cuộc sống sẽ hoặc là do tích góp trong quá trình lao động hoặc do được con cháu chu cấp Những nguồn thu nhập này không thường xuyên và phụ thuộc vào điều kiện của từng người. Để đảm bảo lợi ích cho người lao động khi họ hết tuổi lao động và giúp họ có nguồn thu nhập thường xuyên, ổn định, Nhà nước đã thực hiện chế độ bảo hiểm hưu trí. Do vậy chế độ hưu trí là hình thức bảo đảm thu nhập cho người lao động khi đã hết tuổi lao động cho đến khi họ chết. Trong quá trình lao động, họ cống hiến sức lao động để xây dựng đất nước bằng cách tạo ra thu nhập cho xã hội và cho bản thân. Do đó đến khi họ không còn khả năng lao động nữa thì người lao động cần được sự quan tâm ngược lại từ phía xã hội. Đó chính là khoản tiền trợ cấp hưu trí hàng tháng phù hợp với số phí bảo hiểm xã 6
- hội mà họ đã đóng góp trong suốt quá trình lao động. Nguồn trợ cấp này tuy ít hơn so với lúc đang làm việc nhưng nó rất quan trọng và cần thiết giúp cho người lao động ổn định cả về mặt vật chất cũng như tinh thần trong cuộc sống sau khi đã nghỉ hưu. Căn cứ về điều kiện kinh tế-xã hội Cơ chế đóng góp hình thành nên quỹ hưu trí đó là người lao động chỉ cần trích ra một tỷ lệ % tiền lương tương đối nhỏ khi còn đang làm việc trong một khoảng thời gian nhất định để đóng góp để đến khi hết tuổi lao động họ sẽ được chế độ hưu trí chi trả lương hưu từ nguồn quỹ đó. Thế nhưng không phải từ chính những khoản mà họ đóng góp. Bởi lẽ những khoản mà họ đóng góp trong thời gian làm việc sẽ được dùng để chi trả cho những người đã về hưu trước đó, nên khi họ về hưu thì những khoản đóng góp của thế hệ sau sẽ được dùng để trợ cấp cho họ. Khi có chế độ hưu trí thì người lao động sẽ yên tâm hơn về cuộc sống sau này của mình, có được sự ổn định cuộc sống trong quá trình nghỉ hưu. Chính vì vậy họ sẽ làm việc lao động một cách chăm chỉ để đạt năng suất cao nên làm tăng nguồn thu nhập cho bản thân họ và cả cho xã hội. Qua đó góp phần làm cho nền kinh tế phát triển tăng trưởng đời sống của người dân cũng được nâng cao. Thu nhập của người lao động trong quá trình làm việc càng lớn thì lương hưu nhận được sau này càng cao.Như ta đã biết thì chế độ hưu trí là chế độ chi trả dài hạn cho nên nguồn quỹ nhàn rỗi sẽ rất lớn đây sẽ là nguồn vốn đầu tư lớn cho phát triển nền kinh tế và xã hội. Như vậy từ đó có thể hiểu chế độ hưu trí là một chế độ mang tính xã hội hóa cao được thực hiện một cách thường xuyên và đều đặn, kế tiếp từ thế hệ này sang thế hệ khác. Nói cách khác, chế độ hưu trí lấy đóng góp của thế hệ sau chi trả cho các thế hệ trước. Vì vậy, nó tạo ra sự ràng buộc và đoàn kết giữa các thế hệ, làm cho mọi người trong xã hội quan tâm và gắn bó với nhau hơn thể hiện mối quan tâm sâu sắc giữa người với người trong xã hội. 7
- 1.1.2. Sự cần thiết phải có bảo hiểm hưu trí Bảo hiểm xã hội là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập đối với người lao động khi họ gặp phải những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm trên cơ sở hình thành và sử dụng một quỹ tiền tệ tập trung nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động và gia đình họ, góp phần đảm bảo an toàn xã hội [39, tr.56]. Cùng với sự phát triển kinh tế xã hội đặc biệt là sự phát triển của lực lượng sản xuất trên thế giới, bảo hiểm xã hội ngày càng trở thành nhu cầu thường xuyên, tự nguyện và chính đáng của người lao động. Ngay từ thế kỷ XVI những người nông dân ở vùng Anper đã nhận thấy để trợ cấp cho trường hợp một số người bị ốm đau hay tai nạn. Họ đã thành lập hội tương hỗ với cách thức mỗi người đều trích ra một phần thu nhập để đóng góp chung vào một quỹ, phòng khi có ai bị đau ốm hay tai nạn thì dùng quỹ đó để giúp đỡ. Hình thức sơ khai này được bảo hiểm xã hội phát triển dần nên, phạm vi được mở rộng ra để có thêm nhiều người tham gia, mở thêm các loại trợ cấp bổ sung [27]. Nguyên tắc chung trong hoạt động bảo hiểm này là gắn liền quyền lợi được hưởng với nghĩa vụ đóng góp. Tuy vậy bảo hiểm xã hội chỉ thực sự trở thành một lĩnh vực hoạt động mang tính chất và ý nghĩa xã hội sâu sắc từ đầu thế kỷ 19. Quá trình đó gắn liền với sự phát triển sản xuất công nghiệp, của nền kinh tế thị trường và thị trường sức lao động mà trong đó có quan hệ chủ thợ trong lao động được trở nên phổ biến. Một bộ luật đầu tiên về chế độ bảo hiểm trong lịch sử được hình thành ở nước Anh vào năm 1819. Bộ luật này có tên là bộ luật nhà máy. Nội dung cơ bản trong luật này là bảo hiểm cho lao động trong các xưởng thợở một nước công nghiệp khác, nước Đức đã ban hành luật bảo hiểm ốm đau vào năm 1883, luật tai nạn lao động năm 1884 và luật bảo hiểm người già và người tàn tật do lao động vào năm 1889 [40, tr.45]. Sự ra đời các bộ luật chính thức đầu tiên đó phản ánh một yêu cầu tất yếu khách quan của bảo hiểm xã hội. 8
- Sang thế kỷ 20, hầu hết các nước trên thế giới mà trước hết là các nước công nghiệp phát triển ở một trình độ cao đều ban hành và thực hiện điều luật về bảo hiểm xã hội đối với người lao động. Với sự phát triển như vậy, bảo hiểm xã hội đã trở thành một lĩnh vực mang tính quốc tế rộng lớn. Hiện nay có hơn 160 quốc gia trên thế giới thực hiện bảo hiểm xã hội [25, tr.31]. Bảo hiểm hưu trí có vai trò rất quan trọng trong đời sống của mỗi người lao động, đó là phần tích lũy thu nhập của người lao động khi hết tuổi lao động không có khả năng lao động. Bảo hiểm hưu trí giúp đảm bảo đời sống cho người lao động khi họ về hưu do đó giúp cho xã hội ổn định và gắn bó. Ngày nay, tỷ lệ người già trong dân số càng tăng do đó ổn định đời sống cho bộ phận này là rất quan trọng. Mặt khác, khi nghỉ hưu người lao động được sống thoải mái hơn và an nhàn hơn. Đối với người có trình độ có khả năng họ lại tiếp tục cống hiến, truyền đạt kinh nghiệm cho thế hệ sau. Người lao động trong quá trình lao động họ có được sự bảo đảm chắc chắn về phần thu nhập khi họ nghỉ hưu, làm cho họ yên tâm chú ý, không lo nghĩ về điều kiện sống khi nghỉ hưu do đó có thể làm việc với năng suất và chất lượng cao hơn. Giúp người lao động tiết kiệm cho bản thân mình ngay trong quá trình lao động để bảo đảm đời sống khi nghỉ hưu, giảm bớt phần nào gánh nặng cho người thân, gia đình và xã hội. Như vậy, trong suốt thời kỳ lịch sử, một nhu cầu tất yếu của con người là an dưỡng tuổi già mà không có sự lo lắng về thu nhập và cuộc sống. Khi về già sức lao động bị giảm sút, họ không thể làm việc tạo ra thu nhập. Do đó, nhu cầu cần một khoản tài chính ổn định hàng tháng để trang trải các thu nhập. Khi mà mô hình tháp dân số chuyển sang mô hình dân số già thì nhu cầu này càng lớn hơn và gánh nặng lên xã hội càng nhiều. Chính vì vậy bảo hiểm hưu trí là cứu cánh cho các chính sách an sinh xã hội của bất kỳ quốc gia nào. 9
- 1.2. Khái niệm chế độ hƣu trí 1.2.1. Định nghĩachế độ hưu trí Để đáp ứng nhu cầu tồn tại và phát triển, con người phải lao động để tạo ra của cải vật chất. Nhưng cùng với thời gian, con người sẽ bị già đi, sức khoẻ của họ bị giảm sút không còn khả năng lao động, không còn khả năng tự đáp ứng nhu cầu cho cuộc sống.Lúc đó khoản thu nhập mà họ có thể sinh sống hoặc là do tích góp trong quá trình lao động hoặc do con cháu nuôi dưỡng Những nguồn thu nhập này không thường xuyên và phụ thuộc vào điều kiện của từng người. Đồng thời đảm bảo quyền và lợi ích cho người lao động khi họ hết tuổi lao động và giúp họ có nguồn thu nhập thường xuyên, ổn định đời sống, do đóNhà nước đã thực hiện chế độ bảo hiểm hưu trí. Như vậy, chế độ hưu trí là một chế độ mang tính xã hội hóa cao được thực hiện một cách thường xuyên và đều đặn, kế tiếp từ thế hệ này sang thế hệ khác. Nói cách khác, chế độ bảo hiểm hưu trílấy đóng góp của thế hệ sau chi trả cho các thế hệ trước. Vì vậy, nó tạo ra sự ràng buộc và đoàn kết giữa các thế hệ, làm cho mọi người trong xã hội quan tâm và gắn bó với nhau hơn thể hiện mối quan tâm sâu sắc giữa người với người trong xã hội. Hiện nay cũng có rất nhiều quan điểm khác nhau về chế độ hưu trí trong hệ thống các chính sách bảo hiểm xã hội. Có quan điểm cho rằng, chế độ hưu trí là chế độ bảo hiểmxã hội đảm bảo thu nhập cho người hết tuổi lao động hoặc không còn tham gia quan hệ lao động nữa [40, tr.79]. Dưới góc độ pháp luật về an sinh xã hội thì: "Chế độ hưu trí là tổng hợp các quy phạm pháp luật quy định về các điều kiện và mức trợ cấp cho những người tham gia bảo hiểm hưu trí, khi đã hết tuổi lao động hoặc không còn tham gia quan hệ lao động" [40, tr.80] Qua nghiên cứu các quan điểm khác nhau về chế độ hưu trí ta thấy, các tác giả đều cho rằng chế độ hưu trí là chế độ áp dụng cho người lao động khi họ đã hết tuổi lao động hoặc không còn tham gia quan hệ lao động nữa. Ngoài 10
- ra bản chất của chế độ hưu trí là sự đảm bảo thu nhập bằng việc trợ cấp của quỹ bảo hiểm hưu trí dành cho người tham gia sau khi họ hết tuổi lao động hoặc không tham gia quan hệ lao động nữa. Từ sự phân tích trên có thể đưa ra định nghĩachế độ hưu trí: Là tổng hợp các quy phạm pháp luật quy định về các điều kiện và mức trợ cấp cho những người tham gia bảo hiểm hưu trí, khi đã hết tuổi lao động hoặc không còn tham gia quan hệ lao động. Vậy chế độ hưu trí là chế độ bảo hiểm xã hội dài hạn nằm ngoài quá trình lao động nhưng lại được thể hiện ngay trong quá trình lao động. Người lao động tham gia đóng bảo hiểm xã hội trong một thời gian dài liên tục đến khi đủ về số lượng thời gian tham gia đóng bảo hiểm xã hội theo quy định thì mới đủ một trong những điều kiện để được hưởng bảo hiểm hưu trí. Người được hưởng bảo hiểm hưu trí phải đạt đến một độ tuổi nhất định nào đó hoặc được giảm tuổi trong một số trường hợp do nghề nghiệp hoặc môi trường lao động tuỳ theo quy định của mỗi nước và mỗi giai đoạn của lịch sử gắn với điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội. Khi đã đủ các điều kiện thì người lao động được hưởng trợ cấp hưu trí trong khoảng thời gian tính từ lúc về hưu cho đến khi người lao động chết. Quá trình hưởng dài hay ngắn tuỳ thuộc vào tuổi thọ của từng người. Tỷ lệ hưởng và mức hưởng được xác định trên cơ sở mức đóng và thời gian đóng bảo hiểm xã hội trong quá trình lao động. Chế độ hưu trí có sự tách biệt giữa đóng và hưởng, đồng thời là chế độ nằm ngoài quá trình lao động. Vì vậy, để được hưởng chế độ hưu trí thì người lao động phải tham gia đóng bảo hiểm xã hội ngay trong quá trình lao động, số tiền đóng góp vào quỹ bảo hiểm hưu trí trong quá trình lao động được tích luỹ và được dùng để chi trả lương hưu sau khi nghỉ việc, đồng thời quỹ bảo hiểm xã hội cũng dùng để chi trả cho những người thuộc thế hệ trước đang hưởng lương hưu. Như vậy có sự kế thừa giữa các thế hệ lao động trong 11
- việc hình thành quỹ bảo hiểm hưu trí. Đây là đặc trưng thể hiện nguyên tắc số đông bù số ít, đoàn kết, tương trợ của bảo hiểm hưu trí. Thể hiện mối quan hệ chặt chẽ giữa người lao động và người sử dụng lao động. Người sử dụng lao động muốn có sự phát triển sản xuất kinh doanh thì người việc tập trung thiết bị máy móc, họ cũng phải quan tâm đến cuộc sống người lao động. Phải tạo cho người lao động việc làm và cũng phải đảm bảo cuộc sống cho họ khi họ hết tuổi lao động. 1.2.2. Nguyên tắc cơ bản của chế độ hưu trí Thứ nhất, đảm bảo mọi thành viên trong xã hội (trong độ tuổi lao động và có khả năng lao động) có quyền tham gia và hưởng quyền lợi về bảo hiểm xã hội. Đảng và Nhà nước chúng ta hết sức coi trọng, chăm lo chính sách an sinh xã hội, trong đó bảo hiểm xã hội là một trụ cột, được thể hiện trong Cương lĩnh, trong văn kiện của các kỳ Đại hội Đảng, Nghị quyết, Kết luận của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị. Và gần đây nhất là Kết luận số 23-KL/TW, ngày 29.5.2012 và Nghị quyết số 15-NQ/TW, ngày 01.6.2012 của Hội nghị Trung ương 5; Kết luận số 63-KL/TW ngày 27.5.2013 của Hội nghị lần thứ Bảy, Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, đề cập khá cụ thể chính sách bảo hiểm xã hội với định hướng đa dạng hóa hình thức, mở rộng đối tượng tham gia, bảo đảm quyền lợi của người tham gia bảo hiểm, tuân thủ nguyên tắc đóng - hưởng, bảo đảm cân đối quỹ bảo hiểm xã hội, xây dựng chính sách khuyến khích nông dân, lao động trong khu vực phi chính phủ tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện. Phấn đấu đến năm 2020 có khoảng 50% lực lượng lao động tham gia bảo hiểm xã hội[52, tr.34]. Thứ hai, đảm bảo thực sự cho người lao động về mức thu nhập để có thể duy trì được cuộc sống khi bị mất sức lao động tạm thời cũng như khi tuổi già hết khả năng lao động. Trong cả cuộc đời của người lao động thương thời gian lao động dài hơn thời gian người lao động hết tuổi lao động đến lúc chết. Hơn nữa, không 12
- phải tất cả những người tham gia bảo hiểm cùng một lúc đều có nhu cầu bảo hiểm. Do vậy, nguyên tắc trước hết của bảo hiểm xã hội nói chung và bảo hiểm hưu trí nói riêng là lấy số đông bù số ít, lấy khoảng thời gian lao động có thu nhập để bảo hiểm cho người lao động khi hết khả năng lao động. Thứ ba,có sự phân biệt hợp lý chế độ hưởng bảo hiểm hưu trí giữa lao động nam và lao động nữ. Một mặt xuất phát từ truyền thống ưu đãi phụ nữ tồn tại từ lâu trong cộng đồng và được Nhà nước thừa nhận. Trong Luật bảo hiểm xã hội, ngoài các quy định chung về chế độ bảo hiểm xã hội đối với người lao động tham gia bảo hiểm xã hội, còn có các quy định riêng đối với lao động nữ. Vấn đề này được thể hiện khá rõ ràng trong quy định về chế độ thai sản và chế độ hưu trí. Về chế độ hưu trí, mức đóng và phương thức đóng vào quỹ hưu trí thì tử tuất là như nhau giữa lao động nam và lao động nữ. Tuy nhiên lại có sự khác nhau về độ tuổi được hưởng. Trong điều kiện làm việc bình thường, sức khỏe bình thường và có thời gian đóng bảo hiểm xã hội đủ 20 năm trở lên, độ tuổi nghỉ hưu của lao động nữ là 55 tuổi (lao động nam là 60 tuổi), một số trường hợp đặc biệt về điều kiện lao động hoặc bị suy giảm khả năng lao động, độ tuổi nghỉ hưu của lao động nữ cũng thấp hơn độ tuổi của lao động nam 5 tuổi. Mức bình quân tiền lương, tiền công tháng đóng bảo hiểm xã hội để tính hưởng lương hưu là như nhau, nhưng mức hưởng cũng có sự khác nhau về công thức tính. Mức lương hưu hàng tháng của người lao động đủ điều kiện theo quy định của Luật bảo hiểm xã hội được tính bằng 45% mức bình quân tiền lương, tiền công tháng đóng bảo hiểm xã hội tương ứng với 15 năm đóng bảo hiểm xã hội, sau đó cứ thêm mỗi năm đóng bảo hiểm xã hội được tính thêm 2% đối với nam và 3% đối với nữ, mức tối đa được hưởng bằng 75%. Như vậy, thời gian đóng bảo hiểm xã hội để hưởng lương hưu đủ 75% mức bình quân tiền lương, tiền công tháng làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội theo quy định của lao động nữ là 25 năm, của lao động nam là 30 năm. Mặc 13
- dù sự khác nhau này không hẳn đã đảm bảo được quyền bình đẳng giữa lao động nam và lao động nữ, trong một số trường hợp và với những nhóm đối tượng nhất định, độ tuổi nghỉ hưu của nữ có thể tăng dần và ngang bằng với nam như lao động trong các lĩnh vực nghiên cứu khoa học, giáo dục Vấn đề nêu trên không mang tính chất so sánh thiệt - hơn mà theo quan điểm ưu tiên bảo vệ lao động nữ. Việc thiết kế chế độ, điều kiện hưởng, mức hưởng và thời gian hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội của lao động nữ liên quan đến nhiều yếu tố như giới tính, thể chất, tâm sinh lý, văn hóa truyền thống đặc biệt là thiên chức của phụ nữ nói chung, lao động nữ nói riêng trong việc sinh con, nuôi con và giáo dục con cái, bởi vì tâm lý, tình cảm, tính cách, lối sống của con trẻ chịu ảnh hưởng rất lớn từ người mẹ - một trong những yếu tố cơ bản xây dựng nhân cách một con người. Chính vì vậy, chính sách bảo hiểm xã hội đối với lao động nữ nằm trong sự tương quan giữa các chính sách khác về phụ nữ như chính sách về sự tiến bộ của phụ nữ; chính sách về bảo vệ và chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em; chính sách bình đẳng giới. Thứ tư, giảm độ tuổi nghỉ hưu đối với một số ngành nghề, lĩnh vực nhất định. Nguyên tắc này quy định người lao động làm những công việc nặng nhọc độc hại, làm việc ở những vùng sâu vùng xa hoặc làm việc trong lực lượng vũ trang sẽ được nghỉ hưu sớm hơn nhưng không phải trừ tỷ lệ lương hưu. Theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội, người lao động được hưởng lương hưu khi nghỉ việc mà nam từ đủ 55 tuổi đến đủ 60, nữ từ đủ 50 đến đủ 55 tuổi và có 20 năm đóng bảo hiểm xã hội trở lên, trong đó có đủ 15 năm làm việc hoặc công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm thuộc danh mục do Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội và Bộ Y tế ban hành hoặc có đủ 15 năm làm việc ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số 0,7 trở lên. Trường hợp người lao động đã đủ điều kiện hưởng lương hưu theo quy định trên mà vẫn muốn tiếp tục làm việc và người sử dụng lao động vẫn 14
- có nhu cầu sử dụng thì người lao động vẫn tiếp tục làm việc và tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc theo quy định. Trường hợp người sử dụng lao động không có nhu cầu hoặc người lao động không muốn tiếp tục làm việc thì thủ tục hồ sơ giải quyết để người lao động hưởng lương hưu được quy định tại Điều 119, Điều 122 Luật Bảo hiểm xã hội. Theo đó người sử dụng lao động phải ra quyết định nghỉ việc và lập hồ sơ hưởng lương hưu đối với người đang đóng bảo hiểm xã hội gửi cơ quan bảo hiểm xã hội giải quyết theo quy định. Thứ năm,bảo đảm nguồn quỹ bảo hiểm xã hội. Bảo đảm an toàn, cân đối Quỹ Bảo hiểm xã hội được xem là một trong những mục tiêu chính trong của Luật BHXH (năm 2010). Tuy nhiên, với nhiều điểm mới được đưa ra, như: thay đổi công thức tính lương hưu, tăng thời gian đóng bảo hiểm xã hội, nâng tuổi về hưu có nhiều tranh luận khác nhau. Về công thức tính lương hưu, vẫn giữ nguyên tỷ lệ hưởng lương hưu tối đa là 75% nhưng thay đổi cách tính tỷ lệ hưởng lương hưu theo hướng có lộ trình tăng dần. Theo Ðiều 55 của Luật năm 2014,có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2016, số năm đóng bảo hiểm xã hội tương ứng với 45% mức bình quân tiền lương tháng để tính lương hưu cho người về hưu vào năm 2016 là 16 năm; năm 2017 là 17 năm; năm 2018 là 18 năm; năm 2019 là 19 năm và năm 2020 là 20 năm (thay vì cách tính hiện nay là 15 năm đóng bảo hiểm xã hội được hưởng 45%). Tăng tỷ lệ giảm trừ do về hưu trước tuổi từ 1% lên 2% tương ứng với mỗi năm về hưu trước tuổi. Thống kê của bảo hiểm xã hội Việt Nam cho thấy, từ năm 2010 đến nay hơn 70% số người hưởng lương hưu có hơn 30 năm đóng bảo hiểm (đối với nam) và 25 năm (đối với nữ). Ðiều này cho thấy tác động của việc điều chỉnh theo quy định mới sẽ chỉ ảnh hưởng nhiều tới khoảng 30% số người không đủ số năm đóng góp để được hưởng mức đóng tối đa. 15