Luận văn Chế độ bảo hiểm xã hội đối với tai nạn lao động theo pháp luật Việt Nam
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Chế độ bảo hiểm xã hội đối với tai nạn lao động theo pháp luật Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_che_do_bao_hiem_xa_hoi_doi_voi_tai_nan_lao_dong_the.pdf
Nội dung text: Luận văn Chế độ bảo hiểm xã hội đối với tai nạn lao động theo pháp luật Việt Nam
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI PHẠM ĐÀI TRANG CHẾ ĐỘ BẢO HIỂM XÃ HỘI ĐỐI VỚI TAI NẠN LAO ĐỘNG THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM Chuyên ngành: Luật Kinh tế Mã số: 60.38.01.07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN: PGS.TS. NGUYỄN HỮU CHÍ HÀ NỘI, 2017
- LỜI CAM ĐOAN Tôi cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu của bản thân tôi. Số liệu được thu thập trong quá trình khảo sát thực tế tại Bảo hiểm xã hội Việt Nam. Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm trước Học viện về tính trung thực của đề tài nghiên cứu. TP. Hà Nội, ngày 15 tháng 08 năm 2017 Phạm Đài Trang
- MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU 1 CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI VÀ CHẾ ĐỘ TAI NẠN LAO ĐỘNG 5 1.1. Khái quát chung về bảo hiểm xã hội 5 1.2. Khái quát chung về chế độ tai nạn lao động 8 1.3. Thực trạng tình hình TNLĐ hiện nay 11 1.4. Đặc trưng pháp lý bảo hiểm xã hội tai nạn lao động 12 1.5. Chế độ tai nạn lao động ở các nước ASEAN 12 1.6. Nhận xét và kinh nghiệm có thể áp dụng tại Việt Nam 15 CHƯƠNG 2 NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ CHẾ ĐỘ BẢO HIỂM XÃ HỘI TAI NẠN LAO ĐỘNG 18 2.1. Thực trạng quy định pháp luật Việt Nam về chế độ bảo hiểm xã hội đối với tai nạn lao động 18 2.2. Thực trạng về thực hiện quy định chế độ bảo hiểm xã hội đối với tai nạn lao động 48 2.3. Đánh giá thực trạng về pháp luật và thực hiện pháp luật đối với chế độ tai nạn lao động 58 CHƯƠNG 3 KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN CHẾ ĐỘ BẢO HIỂM XÃ HỘI TAI NẠN LAO ĐỘNG 68 3.1. Kiến nghị những nội dung cần bổ sung, sửa đổi ngay cho phù hợp với thực tế hiện nay của Việt Nam 68 KẾT LUẬN 75 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 76 PHỤ LỤC 77
- LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Chế độ tai nạn lao động (TNLĐ) là một trong 05 chế độ BHXH bắt buộc được quy định trong Luật Bảo hiểm xã hội. Tuy nhiên, ngày 25/6/2015 tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa 13 đã thông qua và thống nhất chế độ bảo hiểm TNLĐ được thiết kế quy định tại Luật An toàn, vệ sinh lao động (ATVSLĐ) số 84/2015/QH13 có hiệu lực thi hành từ 01/7/2016, theo đó các quy định về chế độ TNLĐ trong Luật BHXH sẽ hết hiệu lực kể từ khi Luật ATVSLĐ có hiệu lực thi hành. Một số nội dung về chế độ TNLĐ được sửa đổi, bổ sung, đây là cơ sở pháp lý quan trọng nhất để tất cả các bên tham gia bảo hiểm xã hội cũng như các cá nhân, tổ chức liên quan thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình. Tuy nhiên, chính sách bảo hiểm xã hội nói chung, chế độ tai nạn lao động nói riêng, trong quá thực hiện còn bộc lộ những hạn chế, bất cập, có nội dung quy định chưa đầy đủ hoặc không còn phù hợp với thực tế Để khắc phục những hạn chế, tồn tại, thể chế hóa được các quan điểm của Đảng và Nhà nước về chính sách bảo hiểm xã hội, phù hợp yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong tình hình mới, đáp ứng được nguyện vọng của người lao động, đảm bảo an sinh xã hội và hội nhập quốc tế trong thời gian tới và trong tương lai, cần nghiên cứu về chế độ tai nạn lao động để từng bước hoàn thiện về chính sách cũng như tổ chức thực hiện. Vì vậy, đề tài nghiên cứu về “Chế độ bảo hiểm xã hội đối với tai nạn lao động theo pháp luật Việt Nam” là hết sức cần thiết; là cơ sơ đảm bảo cho việc tiếp tục sửa đổi, bổ sung những nội dung hiện còn tồn taị, bất cập so với thực tế và là tiền đề định hướng việc hoàn thiện chính sách bảo hiểm xã hội, tổ chức thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội trong tương lai của nước ta. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Những năm qua, nhiều đề tài khoa học đã tập trung nghiên cứu các chế độ tai nạn lao động nhưng hiện nay trên thực tế, công trình khoa học nào nghiên 1
- cứu một cách toàn diện về chế độ bảo hiểm xã hội tai nạn lao động vẫn chưa nhiều. Chế độ này mới chỉ được nghiên cứu như là một thành tố nằm trong hệ thống các chế độ bảo hiểm xã hội như: luận văn thạc sĩ “Chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp trong luật bảo hiểm xã hội Việt Nam” của Lê Thị Nhàn; đề tài nghiên cứu khoa học “Thực trạng và giải pháp về chế độ chính sách bảo hiểm xã hội tai nạn lao động – bệnh nghề nghiệp đối với người tham gia bảo hiểm xã hội” chủ nhiệm Hà Văn Chi; Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Lan Hương “Pháp luật về bảo hiểm xã hội đối với lao động nữ ở Việt Nam hiện nay”; Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Hà “Pháp luật về Bảo hiểm xã hội ở Việt Nam hiện nay”; hoặc đề tài này mới chỉ được đề cập đến một số bài viết, chuyên đề của các nhà khoa học trên các tạp chí khoa học pháp lý chuyên ngành như Tạp chí Bảo hiểm xã hội, Tạp chí Luật học, Tạp chí Lao động – Xã hội, một số các báo cáo, chuyên đề tại các hội thảo chuyên ngành Lao động – Thương binh và Xã hội, Bảo hiểm xã hội Các bài báo, tạp chí, công trình nói trên mặc dù đã đề cập đến một số nội dung liên quan đến chế độ tai nạn lao động, nhưng nghiên cứu trên chỉ dừng lại ở những mức độ cơ bản, chưa toàn diện và thống nhất; chưa đưa ra được cách khái quát chung nhất về thực trạng của chế độ tai nạn lao động, chưa có những phương hướng giải pháp mang tính thực tiễn cao để điều chỉnh vấn đề tai nạn lao động. Do vậy, việc lựa chọn đề tài “Chế độ bảo hiểm xã hội đối với tai nạn lao động theo pháp luật Việt Nam” là một lựa chọn đúng đắn, phù hợp với lý luận và thực tiễn. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài 3.1. Mục đích nghiên cứu Hệ thống hóa các vấn đề mang tính lý luận về chế độ bảo hiểm xã hội đối với tai nạn lao động trong hệ thống quy định pháp luật; sự điều chỉnh của pháp luật về chế độ tai nạn lao động ở pháp luật quốc tế và bài học nhìn về thực tiễn nước ta. 2
- 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Đánh giá thực trạng các quy định pháp luật về chế độ tai nạn lao động, thực trạng thực hiện các quy định này trong thực tiễn, đưa ra một số nhận xét về chế độ tai nạn lao động. Từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện quy định pháp luật về chế độ tai nạn lao động, nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực hiện trong thực tiễn chế độ tai nạn lao động. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu quy định pháp luật về chế độ tai nạn lao động, tình hình thực hiện chế độ tai nạn lao động trong thực tiễn ở Việt Nam. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Luận văn tập trung vào các vấn đề lý luận của pháp luật về chế độ bảo hiểm xã hội đối với tai nạn lao động được quy định trong Luật An toàn vệ sinh lao động và các văn bản hướng dẫn. 5. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp luận chủ nghĩa duy vật lịch sử, chủ nghĩa duy vật biện chứng, phép biện chứng của chủ nghĩa Mác – Lênin. - Các phương pháp khác: trên cơ sở phương pháp luận, luận văn sử dụng các phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp thống kê và một số phương pháp khác để tiếp cận, nghiên cứu những vấn đề thuộc nội dung của đề tài. - Luận văn cũng kế thừa, tham khảo một số tài liệu, một số cuộc khảo sát, các báo cáo liên quan đến phạm vi nghiên cứu của đề tài từ năm 2010 đến năm 2014. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa luận văn Luận văn đã nghiên cứu một cách đầy đủ các vấn đề lý luận về chế độ tai nạn lao động như khái niệm, đặc điểm, nguyên tắc điều chỉnh của pháp luật đối 3
- với chế độ tai nạn lao động; nghiên cứu chế độ tai nạn lao động qua các thời kỳ và thực tiễn thực hiện bảo hiểm tai nạn lao động ở Việt Nam. Luận văn cũng đánh giá thực trạng các quy định của pháp luật về chế độ tai nạn lao động hiện nay, thực tiễn thực thi các quy định đó và từ đó đưa ra các đề xuất mới mang tính xây dựng, góp phần hoàn thiện, tăng cường đưa pháp luật về chế độ tai nạn lao động được thực thi tối đa trong thực tiễn, nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước và đảm bảo an ninh xã hội trong thời gian tới. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho tất cả cán bộ, công chức làm việc trong hệ thống cơ quan Bảo hiểm xã hội, ngành Lao động – Thương binh và Xã hội trên phạm vi toàn quốc. Luận văn cũng có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc giảng dạy, học tập, nghiên cứu hoặc bất kỳ ai quan tâm đến lĩnh vực này. 7. Cơ cấu của đề tài, gồm 3 chương Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ BHXH ĐỐI VÀ CHẾ ĐỘ TAI NẠN LAO ĐỘNG Chương 2: THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH VIỆT NAM VỀ CHẾ ĐỘ BẢO HIỂM XÃ HỘI ĐỐI VỚI TAI NẠN LAO ĐỘNG Chương 3: KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN CHẾ ĐỘ BẢO HIỂM XÃ HỘI TAI NẠN LAO ĐỘNG 4
- CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI VÀ CHẾ ĐỘ TAI NẠN LAO ĐỘNG 1.1. Khái quát chung về bảo hiểm xã hội 1.1.1. Sự tất yếu hình thành bảo hiểm xã hội Khi nền kinh tế ngày càng phát triển, năng suất lao động đòi hỏi cần được tăng lên, dẫn đến "rủi ro" lao động càng lớn. Lúc này giới thợ luôn mong muốn được bảo đảm nhiều hơn, còn ngược lại giới chủ lại mong muốn phải chi ít hơn, tức là phải đảm bảo cho giới thợ ít hơn, do đó việc tranh chấp về lợi ích lại xảy ra. Trước tình hình đó Nhà nước đã phải can thiệp và điều chỉnh, sự can thiệp đảm bảo bằng vai trò của Nhà nước trong việc phân định về trách nhiệm tham gia của các bên cho phù hợp, nếu cần có cả hỗ trợ của nhà nước nhằm thực hiện an sinh xã hội, ổn định xã hội để phát triển. Các nguồn đóng góp của giới chủ, thợ và sự hỗ trợ của Nhà nước đã hình thành nên Quỹ bảo hiểm xã hội tập trung có khả năng giải quyết các phát sinh của rủi ro cho tập hợp người lao động trong toàn xã hội. Để quản lý quỹ bảo hiểm xã hội, một tổ chức được hình thành để thực hiện việc thu - chi theo quy định. Quỹ bảo hiểm xã hội được hình thành chủ yếu từ sự đóng góp của các bên tham gia bảo hiểm xã hội gồm người chủ sử dụng lao động và người lao động, ngoài ra có sự hỗ trợ và được Nhà nước bảo trợ. 1.1.2. Khái niệm bảo hiểm xã hội Theo Luật Bảo hiểm xã hội Việt Nam 2014: “Bảo hiểm xã hội là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết, trên cơ sở đóng vào quỹ bảo hiểm xã hội”. 1.1.3. Cơ sở hình thành và vai trò của hệ thống các chế độ bảo hiểm xã hội Hệ thống bảo hiểm xã hội thường bao gồm nhiều chế độ khác nhau, số lượng các chế độ bảo hiểm xã hội được xây dựng và thực hiện phụ thuộc vào trình độ 5
- phát triển và mục tiêu cụ thể của hệ thống bảo hiểm xã hội trong từng thời kỳ của mỗi nước. Theo ILO, thì hiện nay các chế độ bảo hiểm xã hội cơ bản gồm: - Chăm sóc y tế: Mục đích của chăm sóc y tế là duy trì, phục hồi hay cải thiện sức khỏe và khả năng lao động của người được bảo hiểm. Chế độ ốm đau: Chế độ ốm đau được trả khi người lao động bị ngừng thu nhập do ốm đau hay tai nạn không liên quan đến nghề nghiệp đã được giám định. Chế độ thai sản: Chế độ thai sản là sự bảo vệ sức khỏe bà mẹ và trẻ sơ sinh bằng cách cung cấp chăm sóc y tế trước, trong và sau khi sinh con; nghỉ việc được hưởng chế độ bảo hiểm xã hội trả thay lương trong thời gian tối thiểu là 12 tuần, trong đó ít nhất 6 tuần là thời gian nghỉ trước khi sinh. Chế độ tai nạn lao động: Đây là một trong các chế độ phổ biến nhất của bảo hiểm xã hội, ở một vài nước người ta gọi là chế độ đền bù cho người lao động. Những quy định luật pháp ban đầu về trách nhiệm của người sử dụng lao động được đưa ra nhằm bảo vệ người lao động chân tay dựa trên một hệ thống không quy kết lỗi. Tai nạn lao động gồm những tai nạn và bệnh nghề nghiệp, làm mất khả năng lao động trong thời gian ngắn, tàn tật và các chế độ tử tuất. Việc xác định tai nạn lao động rất quan trọng vì sẽ được hưởng bằng chăm sóc y tế và bằng tiền. Chế độ chăm sóc y tế đối với tai nạn lao động thường được thả nổi tự do hơn mà không có sự chia sẻ chi phí và giới hạn về thời gian được chăm sóc y tế. Chế độ bảo hiểm xã hội cho tai nạn lao động thường được chi trả định kỳ theo mức độ tai nạn của người lao động, gồm: Mất sức lao động tạm thời; mất sức lao động vĩnh viễn; chết. Chế độ mất sức lao động tạm thời có thể cao hơn chế độ ốm đau và được chi trả bằng thời gian người lao động bị mất sức lao động tạm thời hoặc trả trong 6
- một năm, tuỳ theo cái gì đến trước. Mất sức lao động vĩnh viễn: mức độ mất sức được Hội đồng giám định y khoa xác định. Tỉ lệ chi trả chế độ theo danh mục bệnh và nghề. Có thể chi trả cho những người này chế độ dài hạn trừ phi họ bị mất sức lao động ở mức độ thấp (20-30%). Đối với những người chết do tai nạn lao động, thân nhân của họ có quyền được hưởng chế độ định kỳ bằng một phần trong thu nhập gần nhất của người chết. Chế độ bảo hiểm xã hội đối với tai nạn lao động có thể có liên quan chặt chẽ đến phòng chống tai nạn và phục hồi sức khỏe. Nhìn chung số lượng các chế độ bảo hiểm xã hội có mối quan hệ mật thiết với nền kinh tế. Những nước kinh tế mạnh thường có nhiều chế độ bảo hiểm xã hội hơn các nước nghèo. 1.1.4. Nguyên tắc Bảo hiểm xã hội Đảm bảo mọi thành viên trong xã hội có quyền tham gia và hưởng quyền lợi về bảo hiểm xã hội. Đảm bảo thực sự cho người lao động về mức thu nhập để có thể duy trì được cuộc sống khi bị mất sức lao động tạm thời cũng như khi tuổi già hết khả năng lao động. Vừa mang tính bắt buộc vừa mang tính tự nguyện, trong đó bảo hiểm xã hội bắt buộc là chủ yếu (vì mọi người tất yếu đến tuổi già). Bảo đảm sự thống nhất và liên tục của bảo hiểm xã hội. Đảm bảo công bằng trong bảo hiểm xã hội. Đây là nguyên tắc rất quan trọng nhưng cũng rất phức tạp trong xây dựng và thực hiện chính sách về bảo hiểm xã hội, nhất là khi cải cách về chính sách bảo hiểm xã hội và các nội dung có liên quan trực tiếp 7
- 1.2. Khái quát chung về chế độ tai nạn lao động 1.2.1 Sự cần thiết phải thực hiện chế độ bảo hiểm xã hội tai nạn lao động Trong các rủi ro bất thường, tai nạn lao động là loại rủi ro đặc trưng vì nó gây thiệt hại lớn về tài sản và sức khỏe, suy giảm khả năng lao động của một hoặc nhiều người; có nguyên nhân trực tiếp từ điều kiện lao động, môi trường làm việc và gắn liền với thực hiện công việc, nhiệm vụ lao động. Đây là hậu quả của hành vi vi phạm pháp luật về an toàn vệ sinh lao động và dẫn đến việc thay đổi quan hệ pháp luật lao động, thậm chí chấm dứt quan hệ pháp luật lao động nếu người bị tai nạn lao động chết hoặc không thể phục hổi khả năng lao động đủ để bố trí sắp xếp lại công việc phù hợp. Vì vậy pháp luật của nhiều nước buộc người sử dụng lao động phải có trách nhiệm chủ yếu khi xảy ra tai nạn lao động dù người lao động có lỗi hay không. Nên chế độ tai nạn lao động có sự khác biệt so với chế độ bảo hiểm xã hội khác về điều kiện, mức hưởng và thời gian hưởng. Khi tai nạn lao động xảy ra chưa có hệ thống bảo hiểm xã hội thì người sử dụng lao động thực hiện trách nhiệm đền bù của mình dựa vào hình thức bảo hiểm thương mại hoặc tự chịu rủi ro nên có sự bất đồng giữa người sử dụng lao động và người lao động bởi: Thứ nhất về xác định nguyên nhân tai nạn lao động: người lao động khó có thể xác minh được nguyên nhân rõ ràng theo ý chí của mình với người sử dụng lao động, khó có thể đền bù thỏa đáng nhất là phát sinh tranh chấp. Vấn đề trong nền kinh tế thị trường, ở các doanh nghiệp vừa và nhỏ có điều kiện lao động thường không đảm bảo an toàn, thiếu ổn định trong sản xuất kinh doanh, khi xảy ra tai nạn lao động trường hợp mất khả năng lao động vĩnh viễn hoặc chết thì người bị tai nạn chỉ được trợ cấp một lần hoặc người sử dụng lao động chấm dứt hoạt động sẽ gây khó khăn tới cuộc sống của người lao động. 8
- Thứ hai về chi phí đến bù tai nạn lao động đối với một doanh nghiệp là rất cao, nhất là tai nạn lao động xảy ra liên tiếp hoặc trên phạm vi rộng. Người sử dụng lao động muốn đảm bảo được trách nhiệm của mình mà không phải chịu rủi ro do phải trả những khoản tiền lớn mà không biết trước là bao nhiêu, người lao động thì muốn có một hệ thống công bằng đáng tin cậy. Để đảm bảo công bằng, ổn định và phát triển, nhà nước cần có một công cụ hữu hiệu đó là chế độ bảo hiểm xã hội về tai nạn lao động, đảm bảo phục hồi khả năng lao động của người lao động một cách an toàn diện lâu dài với mức chi phí vừa phải (thường không quá 1% quỹ lương) được hầu hết các nước áp dụng sớm và được sự ủng hộ của người lao động, người sử dụng lao động. Chế độ tai nạn lao động ở nước ta đã được thực hiện ngay từ ngày đầu khi BHXH mới ra đời, sau hơn 30 năm đi vào hoạt động, hệ thống bảo hiểm xã hội đã được sửa đổi, thực hiện Nghị định số 12/CP về Điều lệ bảo hiểm xã hội đối với người lao động ngày 26/01/1995 và Luật an toàn vệ sinh lao động ngày 01/7/2016 vẫn được duy trì thực hiện và ngày càng được hoàn thiện. Điều này chứng tỏ sự quan trọng lớn của chế độ trong hệ thống chính sách bảo hiểm xã hội của Nhà nước. 1.2.2. Khái niệm tai nạn lao động Mặc dù đã có nhiều biện pháp được thực hiện nhằm giảm thiểu tai nạn lao động như sử dụng máy móc thay thế, trang thiết bị phương tiện bảo hộ lao động nhưng tai nạn lao động vẫn có thể xảy ra ở mọi ngành, nghề, mọi quốc gia. ILO đã thông qua nhiều Công ước và Khuyến nghị quy định các tiêu chuẩn, các biện pháp nhằm ngăn ngừa và hạn chế tai nạn lao động cũng như trợ giúp cho người bị tai nạn lao động. Có nhiều khái niệm về tai nạn lao động: Theo Tổ chức lao động quốc tế (ILO): tai nạn lao động là tai nạn xảy ra gây tác hại đến cơ thể người lao động do tác động của yếu tố nguy hiểm và có hại trong sản xuất. 9
- Theo Điều 142 – Bộ Luật lao động sửa đổi, bổ sung 2012: tai nạn lao động là tai nạn gây tổn thương bất kỳ bộ phận, chức năng nào của cơ thể người lao động hoặc gây tử vong, xảy ra trong quá trình lao động, gắn liền với việc thực hiện công việc, nhiệm vụ lao động. Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam 2000: tai nạn lao động là tai nạn bất ngờ xảy ra do lao động hay trong quá trình lao động, có thể gây tử vong hoặc gây cho cơ thể một tổn thương hoặc một rối loạn chức năng vĩnh viễn hay tạm thời. Theo Luật an toàn vệ sinh lao động 2015: tai nạn lao động là tai nạn gây tổn thương cho bất kỳ bộ phận, chức năng nào của cơ thể hoặc gây tử vong cho người lao động, xảy ra trong quá trình lao động, gắn liền với việc thực hiện công việc, nhiệm vụ lao động. Các khái niệm đều có điểm chung, đó là tai nạn được xem là tai nạn lao động khi thỏa mãn cả ba điều kiện: Là tai nạn xảy ra bất ngờ; tai nạn xảy ra trong qua trình làm việc của người lao động, gắn với việc thực hiện nhiệm vụ lao động; tai nạn gây ra hậu quả cho người lao động, có thể là tử vong hoặc làm tổn thương đến một bộ phận, chức năng nào đó của cơ thể. Từ những phân tích trên, đề tài đưa ra khái niệm về tai nạn lao động như sau: “Tai nạn lao động là tai nạn xảy ra khi người lao động đang thực hiện nhiệm vụ lao động, gây tổn thương đến cơ thể hoặc gây ra tử vong cho người lao động.” Ngoài trường hợp bị tai nạn trong khi làm việc, còn quy định một số trường hợp tai nạn không xảy ra trong lúc làm việc, nhưng liên quan đến việc thực hiện công việc, cũng được coi là tai nạn lao động, chẳng hạn người lao động bị tai nạn trên đường đi đến nơi làm việc hoặc đi từ nơi làm việc về nhà, tai nạn khi đang nghỉ giữa ca làm việc đều được coi là phạm vi liên quan đến “thực hiện nhiệm vụ lao động” của người lao động. Việc đưa ra một khái niệm thống nhất về tai nạn lao động và chỉ ra phạm 10
- vi xác định tai nạn lao động là rất quan trọng trong việc xây dựng chính sách đối với người bị tai nạn lao động, đặc biệt là trong việc xác định trách nhiệm của bên liên quan. 1.3. Thực trạng tình hình TNLĐ hiện nay Theo số liệu thống kê, năm 2016 trên toàn quốc đã xảy ra 7.981 vụ TNLĐ làm 8.251 người bị nạn. Trong đó số vụ TNLĐ chết người là 799 vụ, số vụ TNLĐ có hai người bị nạn trở lên là 106 vụ, số người chết là 862 người, số người bị thương nặng là 1.952 người, nạn nhân là lao động nữ là 2.371 người. Những địa phương có số người chết vì tai nạn lao động nhiều nhất trong năm 2016 bao gồm cả khu vực có quan hệ lao động và khu vực người lao động làm việc không theo hợp đồng lao động là TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội, Thanh Hóa, Bình Dương, Quảng Ninh, Hải Dương, Đồng Nai, Quảng Nam, Thái Bình và Quảng Trị. Các địa phương trên có tống số người chết vì tai nạn lao động là 504 người, chiếm 59,2% tổng số người chết vì TNLĐ trên toàn quốc. Xét theo loại hình doanh nghiệp, công ty TNHH có tỷ lệ xảy ra tai nạn lao động cao nhất, chiếm 37,1% số vụ tai nạn chết người và 37% số người chết. Kế tiếp là loại hình công ty cổ phần, chiếm 34,2% số vụ tai nạn chết người và 34,3% số người chết. Doanh nghiệp nhà nước, đơn vị hành chính sự nghiệp chiếm 20,8% số vụ tai nạn chết và doanh nghiệp tư nhân, hộ kinh doanh cá thế chiếm 3,5% số vụ tai nạn. Những lĩnh vực sản xuất kinh doanh xảy ra nhiều tai nạn lao động chết người là xây dựng, khai thác khoảng sản, sản xuất vật liệu xây dựng, cơ khí chế tạo, dịch vụ Các yếu tố chấn thương chủ yếu làm chết người nhiều nhất là ngã từ trên cao, điện giật, vật rơi, đổ sập, máy thiết bị cán, kẹp Các nguyên nhân chủ yếu để xảy ra tai nạn lao động chết người gồm: người sử dụng lao động không xây dựng quy trình, biện pháp làm việc an toàn; thiết bị không đảm bảo an toàn lao động người sử dụng lao động không huấn luyện an toàn lao động hoặc huấn luyện an toàn lao động chưa đầy đủ cho người 11
- lao động; người sử dụng lao động không trang bị phương tiện bảo vệ cá nhân trong lao động. So với năm 2015, năm 2016 trong khu vực có quan hệ lao động số vụ TNLĐ giảm 0,42% nhưng tổng số nạn nhân tăng 0,27%, số người chết tăng 6,75%, số người bị thương nặng tăng 8,86%. Tuy nhiên, số vụ TNLĐ nêu trên chưa thống kê được tuyệt đối so với thực tế bởi có nhiều trường hợp, người chủ sử dụng lao động thoả thuận bồi thường với phía gia đình người bị nạn để không khiếu kiện hoặc thông báo với cơ quan chức năng. Trước thực trạng TNLĐ ngày càng gia tăng về số vụ tai nạn nghiêm trọng, vai trò pháp lý của BHXH TNLĐ ngày càng phải phát huy và không ngừng hoàn thiện cho phù hợp. 1.4. Đặc trưng pháp lý bảo hiểm xã hội tai nạn lao động Trách nhiệm pháp lý của người sử dụng lao động: Cùng với sự tăng cường pháp lý của Nhà nước đối với bảo hiểm xã hội, các điều khoản về trách nhiệm pháp lý của chủ sử dụng lao động đối với người lao động được đưa vào các điều luật về bảo hiểm xã hội. Trách nhiệm pháp lý của chủ sử dụng lao động thể hiện ở chỗ phải trợ cấp, đền bù, điều trị, hoặc các chi phí khác liên quan đến hậu quả rủi ro đem lại. Điểm nổi bật ở đây là giữa pháp luật các nước đều có một điểm chung là khi tai nạn xảy ra, thì không xét đến nguyên nhân do đâu, chủ sử dụng đều phải chịu trách nhiệm xử lý và giải quyết. 1.5. Chế độ tai nạn lao động ở các nước ASEAN a) Hàn Quốc: Cơ sở pháp lý: Pháp luật bảo hiểm bồi thường tai nạn công nghiệp năm 1953 và sửa đổi mới nhất năm 2005; Tổ chức thực hiện: Bộ Lao động thực hiện giám sát chung; Tổ chức dịch vụ bồi thường và phúc lợi Hàn Quốc thực hiện thu, chi trả trợ cấp, và quản lý chương trình thông qua các Viện chăm sóc y tế. 12
- Đối tượng tham gia: người lao động làm việc trong các cơ sở kinh doanh có ít nhất 01 lao động, quy định tham gia tự nguyện cho người lao động trong nông nghiệp, lâm nghiệp, săn bắn và các doanh nghiệp thủy sản có ít hơn 05 lao động thợ điện, người lao động làm việc trong lĩnh vực viễn thông, lực lượng dịch vụ chữa cháy, người tự tạo việc làm, lao động giúp việc gia đình và có hệ thống đặc biệt cho công chức, lực lượng vũ trang, lao động làm việc trong trường tư thục và thủy thủ ; Nguồn quỹ: Do người sử dụng lao động hoặc người tự tạo việc làm đóng bằng từ 0,7% đến 48,9% quỹ lương hàng năm. Điều kiện hưởng: không quy định điều kiện về thời gian tối thiểu tham gia đóng; Mức hưởng: Gồm trợ cấp thương tật tạm thời bằng 70% mức tiền lương bình quân ngày trong 3 tháng trước khi bị thương tật; trợ cấp thương tật vĩnh viễn tùy theo mức độ đánh giá thương tật, theo thứ tự giảm dần mức độ nghiêm trọng. Mức trợ cấp hàng năm bằng tiền lương bình quân ngày của người tham gia bảo hiểm trong 3 tháng trước khi bị thương tật nhân với từ 138 đến 329 tùy theo đánh giá mức độ thương tật. Ngoài ra quy định trợ cấp điều dưỡng trả cho các dịch vụ điều dưỡng đối với người tham gia bảo hiểm bị thương tật mãn tính sau khi đã được điều trị y tế. Trường hợp nếu bị chết thì thân nhân được trợ cấp tiền tuất, mai táng. Mức trợ cấp tối thiểu và tối đa được điều chỉnh hàng năm theo những thay đổi về tiền lương. b) Nhật Bản: Cơ sở pháp lý: Pháp luật bảo hiểm bồi thường tai nạn cho người lao động năm 1947 và sửa đổi mới nhất năm 2005; Tổ chức thực hiện: Bộ Y tế, Lao động và Trợ cấp chịu trách nhiệm giám sát và quản lý chung; Vụ Bồi thường tai nạn lao động thuộc Bộ Y tế, Lao động và Trợ cấp, Cục Tiêu chuẩn Lao động quản lý chương trình thông qua các Sở 13
- Lao động và Văn phòng Giám sát Tiêu chuẩn Lao động địa phương. Đối tượng tham gia: Tất cả các lao động tại nơi làm việc không thuộc bảo hiểm tự nguyện hoặc các hệ thống đặc biệt. Nguồn quỹ: Từ đóng góp của người sử dụng lao động bằng 0,45% đến 11,8% quỹ lương dựa theo tỉ lệ tai nạn trong 3 năm; Chính phủ cung cấp các khoản trợ cấp, quy định trong giới hạn của ngân sách nhà nước. Điều kiện hưởng: Không quy định điều kiện thời gian tham gia tối thiểu; Mức hưởng: gồm trợ cấp thương tật tạm thời bằng 60% lương trung bình ngày trong 3 tháng trước đó cộng với trợ cấp mất sức lao động tạm thời bằng 20% lương bình quân ngày. Trợ cấp được chi trả sau thời gian 3 ngày chờ đợi cho đến khi hồi phục (người sử dụng lao động trả 60% lương bình quân ngày cho 3 ngày đầu tiên); trợ cấp thương tật vĩnh viễn tùy theo mức độ đánh giá thương tật. Trợ cấp được chi trả hàng tháng và điều chỉnh tự động hàng năm dựa theo những thay đổi về tiền lương. Ngoài ra quy định chăm sóc Y tế bao gồm khám chữa y tế, mổ, nội trú, điều dưỡng, chăm sóc nha khoa, thuốc, dụng cụ và vận chuyển. Trường hợp nếu bị chết thì thân nhân được trợ cấp tiền tuất, mai táng. c) Thái Lan: Cơ sở pháp lý: Pháp luật về bồi thường cho người lao động năm 1994. Tổ chức thực hiện: Bộ Lao động thực hiện quản lý nhà nước; Cơ quan An sinh xã hội quản lý chương trình thông qua văn phòng Quỹ bồi thường tai nạn lao động thu những khoản đóng và chi trả trợ cấp. Chăm sóc y tế được thanh toán bởi bệnh viện dưới hợp đồng với cơ quan An sinh xã hội và đáp ứng các yêu cầu của văn phòng Quỹ bồi thường tai nạn lao động. Đối tượng tham gia: người lao động trong các doanh nghiệp công nghiệp và thương mại. Nguồn quỹ: Do người sử dụng lao động đóng từ 0,2% đến 1% tổng quỹ lương hàng năm tùy theo mức độ rủi ro. Không quy định mức lương tối thiểu 14
- hàng tháng để tính đóng, quy định tối đa tính đóng là 240.000 baht. Điều kiện hưởng: Không có điều kiện thời gian tối thiểu. Mức hưởng: Gồm trợ cấp thương tật tạm thời bằng 60% mức lương hàng tháng từ sau 3 ngày và cho tối đa 1 năm; trợ cấp thương tật vĩnh viễn hàng tháng căn cứ mức suy giảm khả năng lao động để hưởng, đối với mất khả năng lao động hoàn toàn được trả bằng 60% tiền lương hàng tháng và được trả tối đa là 15 năm, đối với mất khả năng lao động một phần được trả tối thiểu là 2 tháng cho đến tối đa là 10 năm, theo khung quy định của luật. Trong một số trường hợp, các khoản trợ cấp có thể được trả một lần. Mức độ thương tật được đánh giá hàng năm bởi cán bộ y tế của cơ quan An sinh xã hội. Trợ cấp được điều chỉnh trên cơ sở đặc biệt. Ngoài ra quy định chăm sóc Y tế, phục hồi chức năng. Trường hợp nếu bị chết thì thân nhân được trợ cấp tiền tuất, mai táng. 1.6. Nhận xét và kinh nghiệm có thể áp dụng tại Việt Nam 1.6.1. Nhận xét Với chế độ bảo hiểm xã hội tai nạn lao động của một số nước ASEAN nêu trên, có nhận xét như sau: Cơ sở pháp lý: Các bộ luật được xây dựng và luôn sửa đổi, bổ sung cho hoàn thiện, phù hợp. Tổ chức thực hiện: Bộ Lao động thực hiện quản lý nhà nước; Cơ quan An sinh xã hội quản lý chương trình thông qua văn phòng Quỹ bồi thường tai nạn lao động hoặc cơ quan bảo hiểm xã hội thu những khoản đóng và chi trả trợ cấp. Chăm sóc y tế được thanh toán bởi bệnh viện dưới hợp đồng với cơ quan An sinh xã hội hoặc cơ quan bảo hiểm xã hội. Đối tượng tham gia: Chủ yếu là người lao động trong các doanh nghiệp. Không thực hiện với bảo hiểm tự nguyện, người tự tạo việc làm và công chức, viên chức nhà nước, tổ chức chính trị và lực lương vũ trang có hệ thống chính sách đặc biệt áp dụng riêng. 15
- Nguồn quỹ: Do người sử dụng lao động đóng và có thể có hỗ trợ của Nhà nước khi thâm hụt; Điều kiện hưởng: Đa số không quy định điều kiện thời gian tham gia tối thiểu để được hưởng chế độ. Mức hưởng: Đa số quy định được chi trả từ quỹ trợ cấp thương tật tạm thời (tiền lương trong thời gian điều trị), chi phí khám chưa bệnh trong thời gian điều trị (từ quỹ bảo hiểm y tế); quy định được hưởng trợ cấp thương tật vĩnh viễn hàng tháng hoặc một lần với tỉ lệ tùy theo mức suy giảm khả năng lao động một phần hoặc toàn bộ và hưởng hàng tháng cho đến cuối đời; quy định được chăm sóc Y tế, phục hồi chức năng và thân nhân được trợ cấp tiền tuất, tiền mai táng nếu người bị tai nạn lao động chết. 1.6.2. Kinh nghiệm rút ra Một số kinh nghiệm rút ra có thể áp dụng với Việt Nam: Cơ sở pháp lý: Các bộ luật luôn sửa đổi, bổ sung cho hoàn thiện, phù hợp; Tổ chức thực hiện: cơ quan quản lý Nhà nước là Bộ và tổ chức thực hiện là cơ quan BHXH; quy định người sử dụng lao động có trách nhiệm thực hiện trả trợ cấp cho người lao động; Đối tượng tham gia: Thực hiện đối với người làm công ăn lương; Nguồn quỹ: Chủ yếu từ đóng góp của người lao động, Nhà nước có hỗ trợ khi thâm hụt. Mức đóng tùy thuộc vào quy định của mức chi trả. Điều kiện hưởng tai nạn lao động: Không cần có thời gian tham gia tối thiểu; Mức hưởng tai nạn lao động: Quy định được chi trả từ quỹ trợ cấp thương tật tạm thời (tiền lương trong thời gian điều trị), chi phí khám chưa bệnh trong thời gian điều trị (từ quỹ bảo hiểm y tế); được hưởng trợ cấp thương tật vĩnh viễn hàng tháng hoặc một lần với tỉ lệ tùy theo mức suy giảm khả năng lao động một phần hoặc toàn bộ và hưởng hàng tháng cho đến cuối đời; được chăm sóc Y tế, phục hồi chức năng và thân nhân được trợ cấp tiền tuất, tiền mai táng nếu người bị tai nạn lao động chết. 16
- KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 Chế độ tai nạn lao động là một trong những chế độ bảo hiểm xã hội được Nhà nước bảo đảm để thân nhân của người lao động đang tham gia lao động hoặc đã tham gia quan hệ lao động, đang hưởng bảo hiểm, đang chờ hưởng bảo hiểm mà bị tai nạn trong quá trình lao động. Bảo hiểm tai nạn lao động có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với người lao động nói riêng và đối với xã hội nói chung, góp phần phát triển bền vững các chế độ an ninh xã hội. Nếu ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, mất việc làm là những sự kiện rủi ro có thể hoặc không thể xảy ra với người lao động thì ngược lại, tuổi già là một quy luật tất yếu của tuổi già. Pháp luật điều chỉnh về chế độ tai nạn lao động bao gồm tổng thể các quy phạm pháp luật quy định về đối tượng tham gia, các chế độ được hưởng tạo ra hành lang pháp lý quan trọng trong việc hình thành và phát triển chế độ bảo biểm xã hội này. 17