Luận văn Chế định cấp dưỡng trong pháp luật hôn nhân và gia đình năm 2000
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Chế định cấp dưỡng trong pháp luật hôn nhân và gia đình năm 2000", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_che_dinh_cap_duong_trong_phap_luat_hon_nhan_va_gia.pdf
Nội dung text: Luận văn Chế định cấp dưỡng trong pháp luật hôn nhân và gia đình năm 2000
- MỘT SỐ TỪ NGỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN BLDS BỘ LUẬT DÂN SỰ BLHĐ Bộ luật Hồng Đức BLGL BỘ LUẬT GIA LONG CNH – HĐH Công nghiệp hoá, hiện đại hoá CNTTLH Công nhận thuận tình ly hôn HN&GĐ HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH XHCN Xã hội chủ nghĩa TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI TANDTC CAO Tp. HCM Thành phố Hồ Chí Minh TR TRANG 4
- MỤC LỤC Trang LỜI MỞ ĐẦU 1 Chƣơng 1: Một số vấn đề lý luận chung về chế định cấp dƣỡng 6 trong Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 1.1. Khái niệm chung về chế định cấp dưỡng 6 1.2. Chế định cấp dưỡng trong pháp luật Việt Nam qua 15 các giai đoạn phát triển và sự cần thiết phải ban hành Luật HN&GĐ năm 2000, yêu cầu sự điều chỉnh của chế định cấp dưỡng Chƣơng 2: Nội dung của chế định cấp dƣỡng theo Luật Hôn 32 nhân và Gia đình năm 2000 2.1. Các qui định chung về cấp dưỡng 34 2.2. Các trường hợp cấp dưỡng cụ thể 58 2.3. Chế tài của Chế định cấp dưỡng 75 Chƣơng 3: Thực trạng thi hành và áp dụng pháp luật về cấp 79 dƣỡng và một số giải pháp hoàn thiện chế định cấp dƣỡng trong giai đoạn hiện nay 3.1. Thực trạng thi hành pháp luật về cấp dưỡng và những 79 nguyên nhân của nó 3.2. Một số giải pháp hoàn thiện chế định cấp dưỡng 92 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 104 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 106 5
- LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong bối cảnh hội nhập toàn cầu hoá, ở nước ta trong những năm qua với đường lối đổi mới của Đảng cùng với sự phát triển toàn diện về mọi mặt: Kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội Cùng với sự điều chỉnh của pháp luật đã tác động đến sự thay đổi trong đời sống hôn nhân và gia đình, quyền tự do dân chủ của nhân dân ta ngày càng được ghi nhận và đảm bảo, các thành viên sống trong gia đình có trách nhiệm với nhau hơn: Ông bà, cháu chắt thì thương yêu và tôn trọng lẫn nhau, cha mẹ thì chăm lo cho con cái, anh chị em thì quan tâm và giúp đỡ lẫn nhau. Song cũng do tác động từ những mặt trái của cơ chế thị trường ngoài những truyền thống văn hóa quí giá chúng ta cũng tiếp nhận các luồng văn hoá của nhiều nước khác nhau, và nó đã để lại cho chúng ta những hạn chế: một số cá nhân đã lợi dụng quyền tự do dân chủ để sống vượt quá cái gọi là “tự do cá nhân”, sống ích kỷ, vô trách nhiệm với những người thân trong gia đình. Vì vậy số vụ ly hôn ngày càng gia tăng. Đặc biệt là các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài. Như một sự phát triển theo tỷ lệ thuận nếu số vụ án ly hôn tăng thì số trẻ em lang thang cơ nhỡ, số người độc thân, số người tàn tật không nơi nương tựa cũng tăng lên nhanh chóng. Những người rơi vào hoàn cảnh khó khăn rất cần sự giúp đỡ về vật chất và tinh thần của xã hội nhưng đặc biệt và trước tiên là sự giúp đỡ của các thành viên trong gia đình. Nhưng từ trước đến nay vấn đề cấp dưỡng ở nước ta phần lớn được đặt ra dựa trên đạo đức truyền thống là chủ yếu. Vì vậy mà hiệu quả của vấn đề cấp dưỡng không cao. Do đó mà những số phận không may mắn vẫn chưa nhận được sự giúp đỡ khi những thành viên trong gia đình là người bạc bẽo hoặc không có điều kiện để thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cho người khác, và những gánh nặng đó lại đè nặng lên vai xã hội. Chúng tôi thiết nghĩ đã đến lúc chúng ta cần phải tạo ra một hành lang pháp lý hoàn thiện 6
- và đảm bảo cho nó được thực thi trong cuộc sống, nhằm điều chỉnh các quan hệ giữa các thành viên trong gia đình đặc biệt là quan hệ cấp dưỡng phát triển theo chính sách của Đảng và Nhà nước đã đặt ra, không ngừng thực hiện việc quản lý xã hội bằng pháp luật, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là cấn thiết và cấp bách đối với nước ta trong giai đoạn hiện nay. Chúng ta ngày càng phải hoàn thiện mình hơn để có thể sánh vai cùng các nước trong khu vực và thế giới, xây dựng xã hội văn minh ở đó không có tình trạng người già và trẻ em lang thang cơ nhỡ, mọi số phận hẩm hiu trong xã hội sẽ được gia đình và xã hội cưu mang. Xuất pháp từ những lý do nêu trên mà chúng tôi chọn đề tài: “Chế định cấp dưỡng trong pháp luật hôn nhân và gia đình năm 2000”. Nhằm nghiên cứu về lý luận và thực tiễn, chỉ rõ những bất cập và vướng mắc trong quá trình thực hiện chế độ cấp dưỡng và nêu ra những phương hướng góp phần vào công cuộc hoàn thiện pháp luật về cấp dưỡng nói riêng và pháp luật hôn nhân gia đình nói chung. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Luật hôn nhân và gia đình là một mảng đề tài hấp dẫn đối với các nhà nghiên cứu luật học. Đã có rất nhiều đề tài nghiên cứu về hôn nhân và gia đình, nhưng đối với đề tài cấp dưỡng thì vẫn ít người quan tâm nghiên cứu nó một cách sâu rộng và hoàn thiện. Đã có một số đề tài có đề cập đến vấn đề cấp dưỡng nhưng trong phạm vi hẹp như trong luận văn tốt nghiệp cử nhân luật của sinh viên Nguyễn Thị Hồng Oanh “ Hậu quả pháp lý của ly hôn” Khoa luật Đại học quốc gia Hà Nội, luận văn “ Chế độ tài sản của vợ chồng” của cử nhân Phí Thùy Linh, Khoa luật, Đại học quốc gia Hà Nội năm 1998. Đặc biệt trong thời gian này có luận án tiến sĩ của tác giả Nguyễn Văn Cừ, giảng viên đại học Luật Hà Nội với đề tài “Chế độ tài sản của vợ chồng”. Luận án thạc sĩ “ Ly hôn có yếu tố nước ngoài tại thành phố Hồ Chí Minh” của tác giả Lê Hồng Quang thuộc viện nghiên cứu nhà nước và pháp luật 1998. 7
- Cho đến nay vấn đề cấp dưỡng mới chỉ qui định một cách tương đối tập trung ở trong chương VI luật HN&GD năm 2000 và NĐ 70/2001/ NĐ CP có sửa đổi bổ sung 2004 - Luật bảo vệ và chăm sóc trẻ em. Đây là những cơ sở pháp lý quan trọng chủ yếu phục vụ cho công tác nghiên cứu chế độ cấp dưỡng, bên cạnh đó các giáo trình luật HNGĐ của các trường đại học: ĐH luật Hà Nội, Khoa luật trường ĐHQGHN, Khoa luật ĐH Huế, Trường ĐH luật TP HCM, cũng có đề cập đến những vấn đề này nhưng ở mức độ vĩ mô và đại cương. Ngoài ra còn có một số bài viết phân tích đánh giá về vấn đề cấp dưỡng giữa các thành viên trong gia đình trong một số tạp chí. Trong đó phải kể đến bài: “Vấn đề cấp dưỡng trong HNGĐ năm 2002” của tác giả Nguyễn Phương Lan - giảng viên tư pháp Trường Đại học luật Hà Nội đăng trên tạp chí Luật học số 01/2001 trang 34-39. Qua nghiên cứu cho thấy vấn đề cấp dưỡng là một nội dung nghiên cứu ở nhiều góc độ, khía cạnh và mức độ khác nhau. Song chưa có một công trình nghiên cứu nào nghiên cứu về vấn đề này một cách toàn diện và chuyên sâu. 3. Mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài 3.1. Mục tiêu: Tìm ra các luận cứ khoa học và thực tiễn, so sánh với các qui định cấp dưỡng của các nước khác trên thế giới nhằm nâng cao hiệu quả của việc thực hiện chế độ cấp dưỡng ở nước ta hiện nay. Từ đó chỉ ra một số giải pháp cho việc hoàn thiện các qui định pháp luật về cấp dưỡng nói riêng và hệ thống pháp luật nước ta nói chung nhằm gìn giữ và phát huy những truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta. 3.2. Nhiệm vụ: - Cơ sở lý luận về chế định cấp dưỡng, nghiên cứu một cách toàn diện lịch sử về vấn đề cấp dưỡng trong hệ thống pháp luật Việt Nam. 8
- - Đánh giá đúng đắn và toàn diện thực trạng của việc thực thi pháp luật về cấp dưỡng. - Phân tích nguyên nhân. - Xác định yêu cầu mới đặt ra với việc xây dựng pháp luật về cấp dưỡng trong giai đoạn hiện nay. - Đưa ra phương hướng, giải pháp và kiến nghị để hoàn thiện pháp luật về cấp dưỡng nhằm đáp ứng nhu cầu thực tiễn đặt ra. 4. Phạm vi nghiên cứu của luận án Đề tài “Chế định cấp dưỡng trong luật hôn nhân và gia đình năm 2000” vì vậy trong khuôn khổ luận văn thạc sĩ luật học tác giả chỉ tập trung nghiên cứu các qui định pháp luật về cấp dưỡng giữa các thành viên trong gia đình. Cơ sỡ lý luận, thực tiễn đánh giá thực trạng để từ đó nhận thức rõ yêu cầu cơ bản và đưa ra phương hướng giải quyết, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả của việc cấp dưỡng đồng thời hoàn thiện hơn pháp luật về cấp dưỡng trong giai đoạn hiện nay. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu của luận án - Phương pháp chính được sử dụng trong suốt quá trình nghiên cứu luận án là chủ nghĩa duy vật lịch sử, chủ nghĩa duy biện chứng, phép biện chứng của chủ nghĩa Mác- Lê, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và Pháp luật. - Ngoài ra luận án còn sử dụng các biện pháp cụ thể: phân tích, so sánh, thống kê, tổng hợp. 6. Ý nghĩa và điểm mới của luân án - Luận án đã nghiên cứu và phân tích một cách toàn diện về ý nghĩa, mục đính, các điều kiện của quan hệ cấp dưỡng giữa các thành viên trong gia đình. - Luận án còn đánh giá thực trạng thi hành các qui định pháp luật về cấp dưỡng, đưa ra một số kiên nghị sửa đổi, bổ sung các qui định pháp luật về 9
- cấp dưỡng từ đó góp phần củng cố mối quan hệ hôn nhân gia đình theo xu hướng bền vững trước sự tác động của cơ chế thị trường. 7. Cơ cấu của luân án Luận văn này gồm phần mở đầu, 3 chương và phần kết luận. Phần mở đầu giới thiệu về tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài, mục đích , ý nghĩa, phương pháp nghiên cứu của đề tài. Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về chế định cấp dưỡng trong luật hôn nhân gia đình năm 2000 Chương 2: Nội dung của chế định cấp dưỡng theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Chương 3: Thực trạng thi hành và áp dụng pháp luật về cấp dưỡng và một số giải pháp hoàn thiện chế định cấp dưỡng trong giai đoạn hiện nay. Phần kết luận: Tóm tắt lại quá trình nghiên cứu và đưa ra một số kiến nghị cho việc hoàn thiện chế định cấp dưỡng 10
- CHƢƠNG 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHẾ ĐỊNH CẤP DƢỠNG TRONG LUẬT HÔN NHÂN GIA ĐÌNH NĂM 2000 1.1 Khái niệm chung về chế định cấp dƣỡng 1.1.1. Khái niệm và đặc điểm quan hệ cấp dưỡng Quan hệ cấp dưỡng là quan hệ gia đình trước hết dựa trên cơ sở huyết thống, quan hệ huyết hệ tự nhiên và thông thường được thực hiện một cách tự nguyện giữa những người có nghĩa vụ phải nuôi dưỡng nhau mà không tự giác thực hiện hoặc vì nguyên nhân nào đó không trực tiếp nuôi dưỡng nhau thì phát sinh nghĩa vụ cấp dưỡng. Quan hệ cấp dưỡng là một quan hệ đặc trưng về hôn nhân và gia đình. Những quan hệ này được các qui phạm pháp luật HN&GĐ điều chỉnh thì trở thành quan hệ pháp luật. Quan hệ cấp dưỡng là một quan hệ xã hội phát sinh giữa các cá nhân với nhau trên cơ sở hôn nhân, huyết thống và nuôi dưỡng được các qui phạm pháp luật cấp dưỡng điều chỉnh. Quan hệ pháp luật cấp dưỡng bao gồm: Chủ thể quan hệ pháp luật cấp dưỡng, quyền và nghĩa vụ cấp dưỡng, khách thể của quan hệ cấp dưỡng Chủ thể của quan hệ cấp dưỡng bao gồm chủ thể có quyền được cấp dưỡng và chủ thể của nghĩa vụ cấp dưỡng Chủ thể của quyền được cấp dưỡng là cá nhân có quyền được nhận cấp dưỡng để đảm bảo cuộc sống. Đó là trẻ chưa thành niên, người đã thành niên 11
- mà không có hoặc hạn chế khả năng và không có tài sản hoặc có nhưng tài sản đó không đủ để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của cuộc sống. Chủ thể có nghĩa vụ cấp dưỡng là người phải chu cấp tiền hoặc hiện vật để đáp ứng nhu cầu thiết yếu cho người khác. Trên thực tế nếu là cấp dưỡng tự nguyện thì việc xem xét khả năng thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng hầu như không có ý nghĩa. Chỉ trong trường hợp cấp dưỡng theo qui định của Toà án thì vấn đề khả năng thực hiện nghĩa vụ của người có nghĩa vụ cấp dưỡng mới thực sự có ý nghĩa. Theo pháp luật Việt Nam thì một người chỉ trở thành chủ thể của nghĩa vụ cấp dưỡng khi người đó đã thành niên và có khả năng kinh tế để thực hiện nghĩa vụ. Quyền và nghĩa vụ cấp dưỡng là nội dung của quan hệ cấp dưỡng Quyền cấp dưỡng là quyền chủ thể trong quan hệ cấp dưỡng mà cụ thể là khả năng xử sự của bên có nghĩa vụ cấp dưỡng cũng như bên có quyền được cấp dưỡng theo qui định của pháp luật về cấp dưỡng và được pháp luật bảo vệ Nghĩa vụ cấp dưỡng là cách xử sự bắt buộc mà pháp luật qui định đối với người có nghĩa vụ nhằm đắp ứng nhu cầu cho người có quyền được cấp dưỡng. Như vậy quyền được cấp dưỡng là một mặt trong nội dung của quan hệ cấp dưỡng và nghĩa vụ cấp dưỡng là mặt thứ hai không thể thiểu trong quan hệ cấp dưỡng. Nếu quyền được cấp dưỡng là khả năng mà pháp luật qui định cho chủ thể hưởng thì nghĩa vụ cấp dưỡng là sự bắt buộc mà pháp luật đòi hỏi các chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật HN&GĐ phải thực hiện. Quyền được cấp dưỡng và nghĩa vụ cấp dưỡng là hai hiện tượng pháp lý không thể thiếu trong quan hệ cấp dưỡng. Không thể có quyền được cấp dưỡng nếu không có nghĩa vụ cấp dưỡng để đảm bảo cho quyền cấp dưỡng được thực hiện. Ngược lại sẽ không có nghĩa vụ cấp dưỡng nếu không có quyền được 12
- cấp dưỡng cần được đáp ứng. Quyền được cấp dưỡng và nghĩa vụ cấp dưỡng là hai mặt của một vấn đề. Khách thể của quan hệ cấp dưỡng là những lợi ích mà các chủ thể tham gia vào quan hệ cấp dưỡng hướng tới. Xuất phát từ đặc điểm riêng biệt của quan hệ pháp luật HN&GĐ nhằm thoả mãn những lợi ích vật chất và tinh thần. Cấp dưỡng là nhằm đảm bảo nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng nên trong quan hệ cấp dưỡng lợi ích chính mà các chủ thể hướng tới là vật chất. Với hoàn cảnh phát sinh nghĩa vụ cấp dưỡng thì vật chất là những gì thuộc về nhu cầu ăn, mặc, ở, đi lại, học hành, nói chung là nhu cầu thể xác của con người nên có thể là tiền hoặc lương thực bởi tiền và lương thực là yếu tố bảo đảm đáp ứng nhu cầu của cuộc sống cho chủ thể có quyền cấp dưỡng một cách hợp lý nhất và có hiệu quả nhất. Tuy nhiên trong quan hệ cấp dưỡng các chủ thể còn hướng tới lợi ích tinh thần vì khi hưởng các lợi ích vật chất chủ thể của quyền được cấp dưỡng còn cảm nhận được tình yêu thương, sự quan tâm, chăm sóc của chủ thể có nghĩa vụ cấp dưỡng dành cho mình. Để hiểu rõ hơn về chế định cấp dưỡng với tư cách là một loại quan hệ pháp luật dân sự, sau đây chúng ta đi tìm hiểu các đặc điểm của quan hệ pháp luật cấp dưỡng. - Quan hệ cấp dưỡng là một loại quan hệ tài sản đặc biệt phát sinh giữa giữa các cá nhân với nhau khi có những điều kiện nhất định do đó không thể thay thế bằng nghĩa vụ khác và không thể chuyển giao cho người khác vì nó gắn liền với nhân thân chủ thể (người cấp dưỡng và người được cấp dưỡng) mà người có nghĩa vụ cấp dưỡng phải tự mình thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng. Do tính chất của nghĩa vụ cấp dưỡng là đảm bảo cho người chưa thành niên, người đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động, không có tài sản tự nuôi mình được chăm sóc nuôi dưỡng, đảm bảo cho họ đủ điều kiện để tồn tại và phát triển. Vì vậy, nghĩa vụ cấp 13
- dưỡng là một trong các nghĩa vụ về tài sản nhưng mang tính chất đặc biệt là không thể được thay thế bằng nghĩa vụ khác và cũng không thể chuyển giao cho người khác. Bởi vì, nghĩa vụ cấp dưỡng là nghĩa vụ về tài sản. Trong quan hệ pháp luật HN&GĐ các quyền và nghĩa vụ về tài sản luôn phát, tồn tại và chấm dứt cùng với việc phát sinh, tồn tại và chấm dứt các quyền và nghĩa vụ về nhân thân. Vì vậy, nghĩa vụ cấp dưỡng giữa các chủ thể trong quan hệ pháp luật HN&GĐ phải gắn với các nghĩa vụ và quyền về nhân thân mà không thể chuyển giao cho người khác. Trong trường hợp người có nghĩa vụ cấp dưỡng không còn khả năng để thực hiện nghĩa vụ thì họ tạm thời không phải thực hiện nghĩa vụ và khi đó thì việc cấp dưỡng cho người cần được cấp dưỡng sẽ do người khác có đủ điều kiện thực hiện. Chỉ khi nào các chủ thể có mối quan hệ nhân thân với nhau thì khi đó giữa họ mới có nghĩa vụ cấp dưỡng cho nhau. Khi quan hệ nhân thân chấm dứt thì nghĩa vụ về cấp dưỡng cũng theo đó mà chấm dứt. Ví dụ: Cha mẹ phải cấp dưỡng cho con nhưng khi cha mẹ chết thì nghĩa vụ cấp dưỡng của họ đối với con chấm dứt (nghĩa vụ đó không thể chuyển giao cho người thừa kế). Tương tự như vậy, người được cấp dưỡng có quyền và nghĩa vụ nhận tiền hoặc hiện vật từ phía người có nghĩa vụ cấp dưỡng để đảm bảo cuộc sống mà không thể nhường quyền được cấp dưỡng cho người khác bởi lẽ quyền được cấp dưỡng thuộc về những người không có khả năng tự mình bảo đảm cuộc sống. Nếu chủ thể của quyền được cấp dưỡng nhượng quyền của mình cho người khác thì cũng đồng nghĩa với việc từ chối các điều kiện thiết yếu để duy trì sự sống. Đồng thời quyền và nghĩa vụ cấp dưỡng không mang tính chất hàng hoá nên cũng không thể là đối tượng trong các giao lưu dân sự. Nên quyền và nghĩa vụ cấp dưỡng không thể là đối tượng của một hợp đồng chuyển nhượng. Cần khẳng định rằng nguyên tắc không thể chuyển giao trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ cấp dưỡng khác với việc thực hiện quyền và nghĩa vụ 14
- cấp dưỡng thông qua người thứ ba. Các chủ thể tham gia quan hệ cấp dưỡng không thể chuyển giao quyền và nghĩa vụ của mình cho người khác nhưng lại có thể thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình thông qua người thứ ba. Trong thực tế có những trường hợp vì điều kiện và hoàn cảnh nào đó mà người có nghĩa vụ cấp dưỡng không thể trực tiếp thực hiện nghĩa vụ của mình thì họ có thể thông qua người khác để thực hiện nghĩa vụ của mình. Ví dụ: Người cha đang cư trú ở nước ngoài phải cấp dưỡng cho con sau ly hôn theo phương thức định kỳ hàng tháng thì người cha có thể gửi tiền về cho người thân của mình để hàng tháng người này chuyển tiền cấp dưỡng cho con. - Quan hệ cấp dưỡng chỉ phát sinh giữa các thành viên trong gia đình trên cơ sở hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng. Nghĩa vụ cấp dưỡng được thực hiện giữa cha me và con, anh chị em với nhau, giữa ông bà nội ngoại và các cháu, giữa vợ và chồng. - Quan hệ cấp dưỡng là quan hệ mang tính bền vững và lâu dài hơn các quan hệ HN&GĐ và các quan hệ dân sự. Nó chỉ chấm dứt khi có những sự kiện pháp lý nhất định: người được cấp dưỡng đã thành niên và có khả năng lao động, người được cấp dưỡng và người cấp dưỡng chết, người được cấp dưỡng được nhận làm con nuôi Khoảng thời gian từ khi quan hệ cấp dưỡng phát sinh tồn tại đến khi chấm dứt là một khoảng thời gian có thể là năm, mười năm và có thể lâu hơn nữa chứ không như quan hệ dân sự ( quan hệ mua bán). - Quan hệ cấp dưỡng mang tính bình đẳng và thoả thuận nhưng bao giờ cũng dựa trên cơ sở qui phạm pháp luật HN&GĐ chứ không giống thoả thuận trong quan hệ dân sự mang tính tự do ý chí của các bên. Bên cạnh đó sự bình đẳng trong quan hệ dân sự là sự bình đẳng giữa các chủ thể còn sự bình đẳng trong quan hệ cấp dưỡng dựa trên cơ sở bình đẳng của nam nữ do Hiến pháp 15
- qui định: Vợ chồng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau về mọi mặt trong gia đình. - Quan hệ cấp dưỡng là quan hệ tài sản có đi có lại nhưng không mang tính chất đồng thời, tuyệt đối và cũng không mang tính chất đền bù ngang giá (như trong quan hệ pháp luật dân sự về tài sản). Sự chăm sóc, giúp đỡ lẫn nhau giữa những người ruột thịt bên cạnh ý nghĩa vật chất còn là nhu cầu tình cảm cần được thực hiện nhằm bảo đảm bảo sự gắn bó lẫn nhau giữa họ. Khi thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng, người cấp dưỡng thường tiến hành một cách tự giác và không tính toán nhiều đến giá trị tài sản phải bỏ ra, và không nghĩ đến việc người được cấp dưỡng sẽ phải cấp dưỡng lại một số tài sản tương ứng. Mặt khác, không phải lúc nào nghĩa vụ cấp dưỡng cũng được đặt ra mà nghĩa vụ đó chỉ phát sinh trong những trường hợp nhất định với những điều kiện nhất định. Nguyên tắc không đền bù ngang giá của quan hệ cấp dưỡng thể hiện ở chỗ pháp luật qui định khi một người cần được cấp dưỡng thì người thân của họ có nghĩa vụ cấp dưỡng nhằm đảm bảo nhu cầu thiết yếu của họ. Khi người được cấp dưỡng có khả năng tự đảm bảo cuộc sống thì nghĩa vụ cấp dưỡng chấm dứt. Người được cấp dưỡng không có nghĩa vụ hoàn lại số tiền hoặc hiện vật đã nhận từ người cấp dưỡng cho mình, kể khi họ đã rất có khả năng về kinh tế. Tương tự như vậy, người phải cấp dưỡng không có quyền đòi lại số tiền hoặc hiện vật mà trước đây họ đã chu cấp cho người được cấp dưỡng. Đồng thời người có quyền được cấp dưỡng ở thời điểm này không đương nhiên phải có nghĩa vụ cấp dưỡng cho người đã từng cấp dưỡng cho mình tại thời điểm khác. Có thể có khả năng là người phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng không bao giờ được hưởng quyền được cấp dưỡng chính từ người mà họ đã từng phải cấp dưỡng. Và cũng có thể theo thời gian, người mà trước đây được hưởng quyền cấp dưỡng nay lại có nghĩa vụ cấp dưỡng cho chính 16
- người trước đây đã cấp dưỡng cho mình thì số tiền hoặc hiện vật mà họ có nghĩa vụ chu cấp cho người được cấp dưỡng không nhất thiết là phải ngang bằng với phần trước đây họ đã nhận, mà số tiền hoặc hiện vật đó có thể lớn hơn rất nhiều cũng có thể ít đi rất nhiều. Vì vậy quan hệ cấp dưỡng không mang tính đền bù tương đương, không có tính chất tuyệt đối và không diễn ra đồng thời. - Nghĩa vụ cấp dưỡng là nghĩa vụ bổ sung, nó chỉ phát sinh khi nghĩa vụ chính không được thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ, nó chỉ phát sinh trong những điều kiện nhất định, khi người được cấp dưỡng không có tài sản để tự nuôi mình. 1.1.2. Khái niệm chế định cấp dưỡng Trong khoa học pháp lý, các thuật ngữ: hệ thông pháp luật, ngành luật, chế định pháp luật, quy phạm pháp luật được sử dụng một cách phổ biến. Nhà nước điều chỉnh các quan hệ xã hội trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội thông qua các quy phạm pháp luật trong hệ thống pháp luật của Nhà nước. Khác với các nước theo hệ thống pháp luật Anh - Mỹ, các nước theo hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa trong đó có Việt Nam phân chia hệ thống pháp luật quốc gia thành các ngành luật, trong mỗi ngành luật có các chế định pháp luật, trong mỗi chế định pháp luật có các quy phạm pháp luật dựa trên các quan hệ xã hội mà nó điều chỉnh. Mỗi ngành luật đều có đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh riêng. Chế định pháp luật là các hệ thống quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội cùng loại có quan hệ mật thiết với nhau. Dựa vào các nhóm quan hệ mà một ngành luật điều chỉnh, căn cứ vào những đặc thù của khách thể quan hệ pháp luật mà mỗi ngành luật được chia thành các chế định pháp luật lớn tương ứng. Giả sử như trong ngành Luật Dân sự, dựa vào các nhóm quan hệ đặc trưng mà Luật Dân sự điều chỉnh - Luật Dân sự 17
- được chia thành các chế định lớn: Chế định quyền sở hữu; Chế định nghĩa vụ và hợp đồng; Chế định thừa kế; Chế định quyền sử dụng đất; Chế định quyền sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ Chế định quyền sở hữu là nhóm các qui phạm pháp luật xác nhận hình thức sở hữu của Nhà nước qua từng giai đoạn cách mạng cụ thể, cách thức phát sinh quyền sở hữu, trình tự hình thành các quyền năng của quyền sở hữu và các qui phạm nhằm bảo vệ quyền sở hữu. Tương tự như vậy, dựa vào các nhóm quan hệ mà Luật Hành chính điều chỉnh các qui phạm pháp luật hành chính được phân thành các chế định lớn khác nhau. Mỗi chế định là nhóm các quan hệ pháp luật điều chỉnh những quan hệ pháp luật hành chính cùng loại. Ví dụ: Chế định về các chủ thể quản lý, trách nhiệm hành chính, về thanh tra kiểm tra Luật Hôn nhân và Gia đình cũng dựa vào nguyên tắc đó phân chia ra các chế định khác nhau: Chế định kết hôn, chế định ly hôn, chế định cấp dưỡng, chế định nuôi con nuôi Chế định cấp dưỡng là toàn bộ những quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội về cấp dưỡng. Thực tiễn phát triển của hệ thống pháp luật Việt Nam từ năm 1945 đến nay cho thấy Luật HN&GĐ thường được xem là một ngành luật độc lập có đối tượng điều chỉnh là các quan hệ nhân thân và tài sản giữa các chủ thể có mối quan hệ hôn nhân và gia đình. Tuy nhiên để phù hợp với xu thế chung của nhiều quốc gia trong hệ thống pháp luật châu Âu lục địa như Pháp, Nhật, Ba Lan, trong quá trình xây dựng dự thảo Bộ luật Dân sự đã có nhiều ý kiến cho rằng nên thiết kế các quan hệ hôn nhân - gia đình là một chế định của Bộ luật Dân sự để tránh sự trùng chéo trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội về nhân thân và tài sản. Nhóm quan hệ xã hội luôn luôn được coi là đối tượng 18
- điều chỉnh của ngành luật Dân sự - ngành luật gốc của Luật HN&GĐ. Bởi vì thực chất của quan hệ hôn nhân cũng chỉ là một loại khế ước do các bên thoả thuận trên nguyên tắc bình đẳng và tự nguyện giống như một quan hệ dân sự. Tuy nhiên quan hệ pháp luật HN&GĐ vẫn có những nét riêng biệt so với các quan hệ pháp luật dân sự bởi yếu tố tình cảm thân thiết gắn bó giữa các chủ thể dựa trên cơ sở pháp lý quan trọng: Hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng. Trong quan hệ hôn nhân và gia đình không thể áp đặt phương pháp điều chỉnh sòng phẳng như trong các quan hệ pháp luật dân sự (không mang tính đền bù ngang giá). Chính vì vậy hiện nay trong Bộ luật Dân sự của nước ta chỉ quy định một số điều cơ sở cho luật HN&GĐ. Ví dụ như quy định về quyền tự do kết hôn, quyền bình đẳng của vợ chồng, quyền được hưởng sự chăm sóc giữa các thành viên trong gia đình, quyền ly hôn, quyền nhận, không nhận cha mẹ, con, quyền được nuôi con nuôi và quyền được nhận làm con nuôi. Mặt khác trong thực tiễn xét xử và giải quyết các vụ án về hôn nhân và gia đình chúng ta vẫn phải áp dụng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự và Pháp lệnh thi hành án dân sự. Chẳng hạn Khoản 2 Điều 1 Pháp lệnh thi hành án dân sự sửa đổi bổ sung ngày 14 tháng 1 năm 2004 có ghi: “Bản án quyết định dân sự nói tại Pháp lệnh này bao gồm: Bản án quyết định về dân sự, hôn nhân gia đình, kinh tế, lao động” hoặc trong Khoản 2 Điều 2 Pháp lệnh này cũng quy định “bản án quyết định sơ thẩm, phúc thẩm về cấp dưỡng sẽ được thi hành ngay sau khi tuyên án”. Hay trong Điều 5 - Luật HN&GĐ năm 2000 quy định; “Trong trường hợp pháp luật HN&GĐ không có quy định thì áp dụng các quy định của Luật Dân sự”. Từ sự phân tích trên cho thấy mặc dù về mặt lý thuyết thì hôn nhân gia đình là một ngành luật độc lập so với ngành luật Dân sự và các ngành luật khác trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Song trong thực tiễn đời sống pháp lý kể cả trong xét xử, thi hành án chúng ta lại luôn coi Luật HN&GĐ là một bộ phận của Luật Dân sự vì chúng 19
- có cùng đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh. Tuy nhiên trong thực tiễn chế định pháp luật còn được hiểu theo nghĩa là một thiết chế pháp lý để điều chỉnh một nhóm quan hệ xã hội có cùng chung tính chất, mối liên hệ mật thiết với nhau. Do đó chúng ta cần phải hiểu chế định cấp dưỡng bao gồm tất cả các quy phạm pháp luật về cấp dưỡng trong các văn bản pháp luật khác nhau, trong rất nhiều ngành luật khác nhau. Chế định cấp dưỡng là một bộ phận cấu thành của Luật HN&GĐ. Với tư cách là một chế định của Luật HN&GĐ, cấp dưỡng được quy định thành một chương trong Luật HN&GĐ năm 2000. Chế định cấp dưỡng có mối quan hệ nội tại thống nhất với các nguyên tắc cơ bản của Luật HN&GĐ, cũng như với các nhóm quy phạm khác của Luật HN&GĐ. Trong chế định cấp dưỡng, các vấn đề như: Điều kiện để một người có thể trở thành chủ thể của quan hệ cấp dưỡng, mức cấp dưỡng, phương thức thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng, thời điểm chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng được quy định một cách cụ thể và toàn diện. Các bên tham gia quan hệ cấp dưỡng có các quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật. Các bên không thể tùy ý thoả thuận để làm thay đổi các quyền và nghĩa vụ đó. Việc không thực hiện các quyền và nghĩa vụ về cấp dưỡng hoặc thực hiện không đúng các quyền và nghĩa vụ đó sẽ phải xử lý bằng các biện pháp chế tài theo pháp luật. Cấp dưỡng là một chế định trong pháp luật hôn nhân và gia đình, bao gồm các quy định điều chỉnh mối quan hệ và đảm bảo cho việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ giữa các chủ thể của quan hệ cấp dưỡng. Như vậy, chế định cấp dưỡng với tính cách là một bộ phận của Luật Dân sự- HN&GĐ đó là hệ thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh giữa các thành viên gắn bó với nhau trên cơ sở hôn nhân, huyết thống và nuôi dưỡng nhằm xác định quyền và nghĩa vụ cấp dưỡng, 20
- trách nhiệm giữa các chủ thể đó đóng góp phí tổn (tiền, tài sản ) cấp dưỡng cho nhau trong những điều kiện nhất định, bảo đảm ổn định trật tự các quan hệ cấp dưỡng và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể trong quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình. 1.2. Chế định cấp dƣỡng trong pháp luật Việt Nam qua các giai đoạn phát triển và sự cần thiết phải ban hành Luật HN&GĐ năm 2000, yêu cầu sự điều chỉnh của chế định Cấp dƣỡng 1.2.1.Khái quát một số nét về vấn đề cấp dưỡng trước năm 1945 1.2.1.1. Khái quát một số nét về vấn đề cấp dưỡng ở Nhà nước Phong kiến Pháp Luật thời Phong kiến Việt Nam là bức tranh thời đại, không những phản ánh trung thực tổ chức của xã hội và gia đình trong mỗi giai đoạn lịch sử mà còn biểu lộ cả trạng thái và phản ứng phức tạp của tâm hồn người dân Việt Nam trước những biến cố lịch sử. Do đó trong mỗi thời kỳ khác nhau của lịch sử pháp luật đều có sự thay đổi phù hợp với bối cảnh xã hội thời bấy giờ. Tuy nhiên việc nghiên cứu pháp luật thời phong kiến sẽ gặp rất nhiều khó khăn do chính sách đồng hóa, ngu dân mà Trung Quốc đã áp dụng triệt để ở Việt Nam hơn 10 thế kỷ nên các tài liệu, sử sách sao chép luật lệ đều bị thất lạc và mai một. Tiêu biểu cho pháp luật thời kỳ phong kiến còn sót lại đến ngày nay là: Bộ Luật Hồng Đức và Bộ Luật Gia Long. Sự kết hợp giữa Nho giáo và khung cảnh xã hội Việt Nam thời bấy giờ để tạo ra một nét văn hoá độc đáo. Từ ngàn xưa gia đình được coi là nền tảng của xã hội, gia đình có vững mạnh thì xã hội mới ổn định. Vì vậy mà đạo lý gia đình được đặc biệt quan tâm trong pháp luật. Điều 375 BLHĐ qui định: "Vợ chồng không có con hoặc ai chết trước không có chúc thư, mà điền sản chia về 21
- vợ hay chồng, cùng là để việc tế tự không đúng phép, thì xử phạt 50 roi, biếm một tự. Người trong họ không được giữ phần điền sản về việc tế tự ấy nữa" [3,Tr.146]. Điều luật này được hiểu là nếu chồng chết trước thì điền sản được chia làm hai phần, phần về người họ ăn thừa tự 1 phần để giữ việc tế tự, về vợ một phần. Phần của người vợ chỉ để nuôi đời mình chứ không được làm của riêng. Vợ chết trước hoặc tái giá thì phần ấy thuộc về người thừa tự. Nếu cha mẹ còn sống thì thuộc về cha mẹ tất cả. Vợ chết trước chồng cũng thế chỉ không bắt buộc hễ lấy vợ khác thì mất phần ấy. Còn đối với điền sản vợ chồng làm ra thì chia làm 2 phần mỗi vợ chồng một nửa, phần của vợ được nhận làm của riêng, phần của chồng được chia làm 3 phần cho vợ 2 phần, để vào việc tế tự và phần mộ 1 phần. Hai phần cho vợ cũng chỉ được để nuôi đời mình không được nhận làm của riêng. Vợ chết hoặc cải giá thì phần ấy để lại cho việc tế tự. Như vậy BLHĐ cũng đã đề cập đến vấn đề cấp dưỡng trong gia đình nhưng chưa rõ ràng. Nghĩa vụ cấp dưỡng được hiểu như nghĩa vụ nuôi dưỡng là chủ yếu. Hơn thế trong các sắc luật của Nhà vua về đạo đức xã hội và gia đình thì đạo hiếu đứng hàng thứ hai sau chữ trung với Vua. Chính vì vậy mà trong Quốc triều hình luật (QTHL) có qui định về 10 tội thấp ác thì trong đó có tội bất hiếu. Một trong những hành vi của tội bất hiếu là nuôi nấng cha mẹ thiếu thốn không chăm sóc, phụng dưỡng cha mẹ. Chữ hiếu không chỉ dừng lại trong phạm vi hẹp là nghĩa vụ của con đối với cha mẹ mà rộng hơn nữa đó là là nghĩa vụ của cháu đối với ông bà, người dưới đối với người trên. Điều 506- BLHĐ qui định: “Con cháu trái lời dạy bảo và không phụng dưỡng bề trên, mà bị ông bà cha mẹ trình lên quan thì xử tội khoa đinh, con nuôi, con kế tự mà thất hiếu với cha nuôi, cha kế thì xử giảm tội trên một bậc, và mất tài sản đã được chia” [3, tr.193]. Đặc biệt trong QTHL cũng có qui định rất rõ nghĩa vụ cấp dưỡng, đùm bọc lẫn nhau giữa những người cùng thôn xóm. Điều 295 - BLHĐ qui định “Những người góa vợ, góa chồng, mồ côi và người tàn tật 22