Luận văn Chấm dứt hợp đồng lao động theo pháp luật lao động Việt Nam từ thực tiễn các doanh nghiệp có 100% vốn nước ngoài tại Thành phố Hồ Chí Minh

pdf 79 trang vuhoa 23/08/2022 10921
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Chấm dứt hợp đồng lao động theo pháp luật lao động Việt Nam từ thực tiễn các doanh nghiệp có 100% vốn nước ngoài tại Thành phố Hồ Chí Minh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_cham_dut_hop_dong_lao_dong_theo_phap_luat_lao_dong.pdf

Nội dung text: Luận văn Chấm dứt hợp đồng lao động theo pháp luật lao động Việt Nam từ thực tiễn các doanh nghiệp có 100% vốn nước ngoài tại Thành phố Hồ Chí Minh

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ĐẶNG PHÚC DINH CHẤM DỨT HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG THEO PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN CÁC DOANH NGHIỆP CÓ 100% VỐN NƯỚC NGOÀI TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Chuyên ngành: Luật Kinh tế Mã số: 60.38.01.07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. LÊ MAI THANH HÀ NỘI - 2016
  2. MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU 1 CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ CHẤM DỨT HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG 5 1.1. Hợp đồng lao động 5 1.2. Chấm dứt hợp đồng lao động và các điều kiện chấm dứt hợp đồng lao động 14 1.3. Căn cứ pháp luật điều chỉnh việc chấm dứt hợp đồng lao động 27 Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ CHẤM DỨT HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG QUA THỰC TIỄN CÁC DOANH NGHIỆP CÓ 100% VỐN NƯỚC NGOÀI TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 30 2.1. Đặc điểm thị trường lao động tại Thành phố Hồ Chí Minh 30 2.2. Thực trạng áp dụng các điều kiện chấm dứt hợp đồng lao động tại doanh nghiệp có 100% vốn nước ngoài. 36 2.3. Thực trạng thực hiện các trình tự thủ tục chấm dứt hợp đồng lao động tại các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. 40 2.4. Quyền và nghĩa vụ các bên sau khi chấm dứt hợp đồng lao động 45 2.5. Thực trạng giải quyết tranh chấp về chấm dứt hợp đồng lao động tại doanh nghiệp có 100% vốn nước ngoài tại Thành phố Hồ Chí Minh 49 Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ CHẤM DỨT HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG 54 3.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về chấm dứt hợp đồng mà Việt Nam là thành viên về quyền của người lao động 54 3.2. Giải pháp cụ thể hoàn thiện pháp luật về chấm dứt hợp đồng lao động 62 KẾT LUẬN 73 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 74 2
  3. DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT BHXH Bảo hiểm xã hội BHYT Bảo hiểm y tế BHTN Bảo hiểm thất nghiệp BLDS Bộ luật Dân sự BLHS Bộ luật Hình sự BLLĐ Bộ luật Lao động CN Công nhân DN Doanh nghiệp DNVNN Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài HĐLĐ Hợp đồng lao động ILO Tổ chức lao động quốc tế LDN Luật Doanh nghiệp LĐ-TB-XH Bộ Lao động – Thương binh – Xã hội NSDLĐ Người sữ dụng lao động QHLĐ Quan hệ lao động TAND Tòa án nhân dân TNHH Trách nhiệm hữu hạn TPHCM Thành phố Hồ Chí Minh TƯLĐTT Thỏa ước lao động tập thể 3
  4. LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài BLLĐ đã tạo lập khuôn khổ pháp lý điều chỉnh các quan hệ lao động đã và sẽ hình thành trong thực tiễn. Bên cạnh những điểm tích cực, trong quá trình áp dụng, BLLĐ 2012 bắt đầu bộc lộ một số điểm bất cập, khó áp dụng và xuất hiện nhu cầu cần nghiên cứu và chỉnh sửa cho phù hợp với thực tiễn cuộc sống. Sau gần 4 năm kể từ khi BLLĐ được thông qua, các văn bản dưới luật hướng dẫn thực hiện quy định của pháp luật cũng chưa được ban hành đầy đủ. Từ thực tiễn cho thấy nhiều vấn đề phát sinh từ QHLĐ, trong đó chấm dứt HĐLĐ là một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến tranh chấp lao động. Trên diễn đàn Hội Nhân sự Việt Nam các nhà quản trị nhân sự thường xuyên nêu những “lúng túng” về chấm dứt HĐLĐ, tranh chấp lao động, trợ cấp thôi việc, mất việc nói chung là những vấn đề mới phát sinh sau khi BLLĐ 2012 được ban hành . Có những vướng mắc về lý luận và thực tiễn như trong việc giải quyết tranh chấp trong chấm dứt HĐLĐ, các sai phạm về trình tự thủ tục, điều kiện khi chấm dứt HĐLĐ hay quyền và nghĩa vụ của các bên chưa được giải quyết thoả đáng chấm dứt HĐLĐ. Thực tiễn giải quyết tranh chấp lao động hiện nay thì đa số việc chấm dứt HĐLĐ và giải quyết quyền lợi cho các bên đều sai so với quy định của pháp luật. Sở dĩ có tình trạng này là do nhiều nguyên nhân: - Xuất phát từ nguyên nhân khách quan, một số quy định của pháp luật lao động còn chưa rõ ràng, cụ thể về căn cứ xác định chấm dứt HĐLĐ thế nào là đúng và không đúng pháp luật; quy định về trình tự, thủ tục chấm dứt còn chung chung gây nhiều bế tắc trong việc giải quyết quyền lợi, nghĩa vụ của các bên khi chấm dứt HĐLĐ. Nhiều quy định hiện nay không còn phù hợp so với những biến động thực tiễn của QHLĐ dẫn đến việc áp dụng các quy định này trên thực tế không mấy hiệu quả như mong đợi [13, tr. 4]. 1
  5. - Để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể khi một bên không còn muốn tiếp tục thực hiện HĐLĐ do ý chí của họ đòi hỏi pháp luật phải có những quy định chặt chẽ cụ thể bởi hệ quả của nó đối với các bên và xã hội là không nhỏ. Hành vi đơn phương chấm dứt HĐLĐ sẽ giải phóng các chủ thể khỏi những quyền và nghĩa vụ đã từng ràng buộc trước đó. Vi phạm pháp luật lao động từ phía bên kia hay các trường hợp pháp luật quy định. Bảo vệ NLĐ chống lại tình trạng chấm dứt HĐLĐ một cách tùy tiện và đảm bảo lợi ích hợp pháp của NSDLĐ trong chuẩn mực, hành lang pháp lý do Nhà nước ban hành là mối quan tâm hàng đầu của pháp luật lao động ở nước ta. - Pháp luật lao động trao quyền cho NSDLĐ nhưng NSDLĐ lại không quan tâm cho nên không hiểu sâu các quy định của pháp luật, chưa ý thức được tầm quan trọng của vấn đề quản trị nhân sự nên dẫn tới tình trạng NSDLĐ chấm dứt trái pháp luật; còn NLĐ phần lớn họ không hiểu biết về pháp luật nên không thể sử dụng pháp luật để bảo vệ quyền lợi của mình. Từ những lý do trên nên học viên lựa chọn đề tài “Chấm dứt hợp đồng lao động theo pháp luật lao động Việt Nam từ thực tiễn các doanh nghiệp có 100% vốn nước ngoài tại Thành phố Hồ Chí Minh” làm luận văn Thạc sĩ Luật học. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Cho đến nay đã có một số công trình khoa học nghiên cứu xung quanh các chủ đề chấm dứt HĐLĐ, trong số này có các công trình nghiên cứu của Nguyễn Thị Ngọc, luận văn Thạc sĩ ngành Luật Kinh tế mã số 60.38.50 đề tài “Chấm dứt HĐLĐ và hậu quả pháp lý” năm 2007, Đỗ Thị Thu Hằng, luận văn Thạc sĩ ngành Luật “Chấm dứt HĐLĐ trái pháp luật và hậu quả pháp lý” năm 2011. Nguyễn Văn Nam, luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế mã số 60.38.50 đề tài “Chấm dứt HĐLĐ theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn Thành Phố Hồ Chí Minh” năm 2014 Mỗi công trình có cách tiếp cận và giá trị khoa học 2
  6. khác nhau, nhưng nhìn chung nó được nghiên cứu trên các địa bàn khác nhau trong đó một số đề tài nghiên cứu dựa trên các quy định của pháp luật lao động trước thời điểm BLLĐ 2012 có hiệu lực. Luận văn tiếp tục nghiên cứu căn cứ pháp lý và thực tiễn chấm dứt HĐLĐ qua các vụ việc tranh chấp lao động xảy ra trên địa bàn TP.HCM. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Luận văn nghiên cứu lý luận về HĐLĐ và chấm dứt HĐLĐ qua thực tiễn doanh nghiệp có 100% vốn nước ngoài trên địa bàn TP.HCM nhầm đề xuất giải pháp sửa đổi bổ sung một số quy định cụ thể về chấm dứt HĐLĐ ở Việt Nam nói chung và TP.HCM nói riêng. Để thực hiện mục tiêu trên, luận văn có các nhiệm vụ nghiên cứu sau dây: - Nghiên cứu, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về HĐLĐ và chấm dứt HĐLĐ. - Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về chấm dứt HĐLĐ ở Việt Nam hiện nay qua thực tiễn chấm dứt HĐLĐ tại doanh nghiệp có 100% vốn nước ngoài trên địa bàn TP.HCM - Đề xuất các phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về chấm dứt HĐLĐ ở Việt Nam nói chung và TP.HCM nói riêng. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Luận văn nghiên cứu pháp luật về chấm dứt HĐLĐ của doanh nghiệp có 100% vốn nước ngoài tại TPHCM trên cơ sở BLLĐ và các văn bản liên quan. - Luận văn nghiên cứu chấm dứt HĐLĐ trong các DNVNN trên cơ sở pháp luật hiện hành với các điều kiện chấm dứt, hậu quả chấm dứt có thể dẫn đến tranh chấp mà không đi sâu vào các khía cạnh giải quyết tranh chấp khác. - Luận văn nghiên cứu cơ sở pháp luật hiện hành trên nền tảng Bộ luật lao động năm 2012 và các văn bản liên quan khác. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 3
  7. - Phương pháp luận: Luận văn sữ dụng phương pháp luận duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước làm cơ sở cho việc nghiên cứu, đánh giá các vấn đề. - Phương pháp nghiên cứu: Để làm sáng tỏ các vấn đề cần nghiên cứu, luận văn cũng đã sử dụng kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu khác như phương pháp phân tích – tổng hợp, thống kê, so sánh và đối chiếu, kết hợp giữa nghiên cứu lý luận với thực tiễn một cách có hệ thống và nhất quán nhằm làm sáng tỏ vấn đề cần nghiên cứu. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn - Về lý luận, đề tài nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận, quy định của pháp luật hiện hành về chấm dứt HĐLĐ trong doanh nghiệp có vốn nước ngoài theo pháp luật lao động Việt Nam. - Về thực tiễn, đề tài nghiên cứu những vấn đề phát sinh trong quá trình chấm dứt HĐLĐ tại doanh nghiệp có vốn nước ngoài và hậu quả pháp lý của việc chấm dứt HĐLĐ, những vấn đề pháp lý dẫn đến tranh chấp lao động trong thời gian qua tại TP.HCM. 7. Kết cấu của luận văn Luận văn gồm 3 chương, phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo Chương 1: Cơ sở lý luận và pháp luật về chấm dứt HĐLĐ Chương 2: Thực trạng pháp luật về chấm dứt HĐLĐ qua thực tiễn doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài tại TP.HCM Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về chấm dứt HĐLĐ. 4
  8. Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ CHÁM DỨT HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG 1.1. Hợp đồng lao động 1.1.1. Khái niệm hợp đồng lao động Trong các hệ thống pháp luật trên thế giới, hợp đồng là một trong các chế định chủ yếu, giữ vị trí quan trọng, vị trí trung tâm điều chỉnh quan hệ pháp luật. Do cách tiếp cận về mặt lý luận và khoa học tại các quốc gia có thể khác nhau, tùy thuộc vào điều kiện về văn hóa, lịch sữ và nền tảng pháp lý đặc thù tại mỗi quốc gia nên quan điểm về HĐLĐ có nhiều điểm đặc thù của quốc gia đó. Để có cái nhìn tổng quát và toàn diện hơn về HĐLĐ, chúng ta tìm hiểu khái niệm này tại một số quốc gia và tổ chức quốc tế: Theo Tổ chức Lao động Quốc tế - ILO [28], HĐLĐ là thỏa thuận ràng buộc pháp lý của một NSDLĐ và một công nhân. Trong đó xác lập các điều kiện và chế độ làm việc. Khái niệm này chỉ xác định một bên chủ thể là công nhân nên nhóm chủ thể bị giới hạn và cũng chưa nêu rõ bản chất của HĐLĐ. Luật Lao động Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa [18] thì cho rằng hợp đồng lao động là sự thỏa thuận xác lập quan QHLĐ, quyền và nghĩa vụ của NLĐ và NSDLĐ. Định nghĩa này cũng khá tổng quát về phạm vi điều chỉnh. Luật Lao động của Hàn Quốc ban hành ngày 10-05-1953 (điều chỉnh, bổ sung) ghi nhận NLĐ làm việc cho NSDLĐ và NSDLĐ trả lương cho việc làm đó. Luật Lao động nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam được Quốc hội thông qua ngày 23-06-1994 [19], là cơ sở pháp lý điều chỉnh các QHLĐ, trong đó có quan hệ về HĐLĐ. Qua 4 lần sửa đổi và bổ sung, chương được chỉnh sửa nhiều nhất là chương HĐLĐ, nhưng khái niệm về HĐLĐ không có gì thay đổi (Điều 26 BLLĐ 1994, 2002, 2006, 2007, và điều 15 5
  9. BLLĐ 2012). Chế định HĐLĐ được quy định tại chương III của BLLĐ, khái niệm HĐLĐ được quy định tại điều 15 – BLLĐ 2012 [26] “ HĐLĐ là sự thỏa thuận giữa NLĐ và NSDLĐ về việc làm có trả công, điều kiện lao động, quyền và nghĩa vụ của mỗi bên trong QHLĐ”. Xét cho cùng, HĐLĐ là hình thức ghi nhận việc thiết lập QHLĐ giữa NLĐ với NSDLĐ và làm phát sinh mối quan hệ giữa hai bên chủ thể trong QHLĐ. Bản chất pháp lý của HĐLĐ là sự thỏa thuận giữa hai bên, một bên là NLĐ đi tìm việc làm, còn bên kia là NSDLĐ cần thuê mướn người làm công. Trong đó, NLĐ không phân biệt giới tính và quốc tịch, cam kết làm một công việc cho NSDLĐ, tự nguyện đặt hoạt động nghề nghiệp của mình dưới quyền quản lý của người đó để đổi lấy một số tiền công lao động gọi là tiền lương. HĐLĐ bao gồm những thành tố sau: (1) Tự nguyện; (2) Giữa hai bên; (3) NLĐ đồng ý thực hiện công việc nhất định cho NSDLĐ; (4) Trong thời gian xác định hay không xác định; (5) Nhận tiền lương, tiền công ; (6) Quyền và nghĩa vụ của các bên được xác lập. Với những yếu tố này ta có thể khái quát HĐLĐ là sự thỏa thuận giữa NLĐ và NSDLĐ về việc làm có trả công cố định (hay biết trước) trong khoảng thời gian xác định (hay không xác định) theo đó quyền và nghĩa vụ của mỗi bên trong QHLĐ được xác lập. 1.1.2. Đặc điểm của hợp đồng lao động HĐLĐ cũng là một loại khế ước nên nó mang những đặc điểm chung của hợp đồng: là sự thỏa thuận trên cơ sở tự do, tự nguyện, bình đẳng của các chủ thể. Song, vì đây là hình thức pháp lý của quá trình trao đổi, mua bán loại hàng hóa đặc biệt – hàng hóa sức lao động, nên nó có những đặc trưng riêng so với các khế ước khác. Tổng hợp các kết quả nghiên cứu từ trước đến nay, có thể thấy HĐLĐ mang những đặc trưng cơ bản sau: - Thứ nhất, trong HĐLĐ có sự phụ thuộc pháp lý của NLĐ với NSDLĐ. 6
  10. Sự phụ thuộc pháp lý được hiểu là sự phụ thuộc được pháp luật thừa nhận, sự phụ thuộc này mang tính khách quan tất yếu, khi NLĐ tham gia QHLĐ. Có ý kiến cho rằng HĐLĐ không còn mang đầy đủ bản chất của khế ước trong quá trình thực hiện; đặc trưng này dường như làm xuất hiện sự bất bình đẳng như một tất yếu trong quan hệ HĐLĐ. Song, cần khẳng định lại rằng yếu tố quản lý này mang tính khách quan, pháp luật chỉ thừa nhận tính khách quan đó và giới hạn trong khuôn khổ để tránh việc lạm dụng nó xâm phạm đến lợi ích các bên, nhất là NLĐ. Vì khi tham gia vào QHLĐ, mỗi NLĐ thực hiện nghĩa vụ với tính cá nhân đơn lẻ nhưng quá trình lao động lại mang tính xã hội hóa cao, hiệu quả cuối cùng phụ thuộc vào sự hợp tác của tất cả các cá nhân, các QHLĐ. Vì vậy, cần thiết phải có sự thống nhất, liên kết đồng bộ các quan hệ đơn lẻ trong trật tự chung bởi trung tâm chỉ huy, điều phối với các yêu cầu, đòi hỏi, ràng buộc, mệnh lệnh. - Thứ hai, đối tượng của HĐLĐ là việc làm có trả công. Việc làm là biểu hiện bề ngoài, là tên gọi của quá trình con người hiện thực hóa khả năng lao động, vật chất hóa sức lao động. Trong cơ chế thị trường, sức lao động được đem ra trao đổi mua bán hình thành thị trường lao động. Quan hệ trao đổi mua bán sức lao động này không giống các quan hệ mua bán khác vì là quan hệ đặc biệt với hàng hóa đem trao đổi luôn gắn với cơ thể NLĐ. Khi mua nó, NSDLĐ được xác lập quyền sở hữu không phải theo kiểu “trao tay”, mua đứt bán đoạn, người bán không còn một liên hệ nào với hàng hóa. NSDLĐ được sở hữu nó qua quá trình lao động biểu thị bởi thời gian làm việc, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, thái độ, ý thức của NLĐ. Tức là NLĐ phải cung ứng sức lao động - cả thể lực và trí lực của chính mình. Vì vậy, nội dung chủ yếu đầu tiên của HĐLĐ là công việc của NLĐ. Đem so sánh, trong quan hệ dân sự về lao động, vấn đề các chủ thể quan tâm chủ yếu 7
  11. là lao động đã kết tinh vào sản phẩm, dịch vụ, là kết quả cuối cùng chứ không phải quá trình lao động, khác hẳn với quan hệ HĐLĐ. Chúng ta có thể nhận thấy, do sức lao động không thể tách rời NLĐ mà HĐLĐ luôn mang tính đích danh và cũng dễ giải thích tại sao NLĐ khi tham gia QHLĐ thì đương nhiên đặt mình dưới sự quản lý của NSDLĐ. - Thứ ba: HĐLĐ do đích danh NLĐ thực hiện. Sức lao động tồn tại trong mỗi người là khác nhau, không thể trở thành “vật cùng loại” để chuyển dịch từ người này sang người khác. Mặt khác, lao động ở đây là lao động sống, lao động đang diễn ra nên ngoài yếu tố khả năng lao động, trình độ chuyên môn của NLĐ, NSDLĐ còn quan tâm đến tâm lý đạo đức, ý thức, NLĐ để quyết định tuyển dụng. Do đó, NLĐ phải trực tiếp thực hiện nghĩa vụ đã cam kết, không được dịch chuyển cho người thứ ba, ngay cả người có trình độ chuyên môn cao hơn. Nghĩa vụ lao động mà họ tạo ra cũng sẽ chấm dứt khi họ chết, không được chuyển giao cho người thừa kế. Mặt khác, trong HĐLĐ, ngoài những quyền lợi hai bên thỏa thuận, NLĐ còn có một số chế độ, quyền lợi theo quy định của pháp luật như quyền nghỉ hằng năm, lễ tết; hưởng BHXH và chỉ được hiện thức hóa trên cơ sở cống hiến xã hội của NLĐ. Vậy, để được hưởng những quyền lợi trên, NLĐ phải trực tiếp thực hiện HĐLĐ. - Thứ tư, trong HĐLĐ sự thỏa thuận của các bên thường bị khống chế bởi những giới hạn pháp lý nhất định. Với tất cả các quan hệ hợp đồng, thỏa thuận của các bên bao giờ cũng phải đảm bảo các quy định như: bình đẳng, tự do, tự nguyện, không trái pháp luật Với HĐLĐ, sự thỏa thuận thường bị khuôn khổ, khống chế bởi những ngưỡng pháp lý nhất định của việc bảo đảm quyền con người của NLĐ, của BLLĐ, TƯLĐTT Ở đó quy định ngưỡng quyền tối thiểu của NLĐ mà sự thỏa thuận chỉ được cao hơn, không được thấp hơn; còn ngưỡng nghĩa vụ lại 8
  12. là tối đa, thỏa thuận chỉ được thấp hơn, không được cao hơn. Sự khác biệt là trong các quan hệ hợp đồng khác, khung pháp lý cho sự thỏa thuận rất rộng, đảm bảo tối đa quyền định đoạt của các bên; còn trong quan hệ HĐLĐ, quyền tự do định đoạt này bị chi phối bởi những giới hạn tương đối chặt chẽ. Ngoài ra, cũng cần chú ý HĐLĐ vừa có tính ưng thuận vừa có tính thực tế. Lý luận chung về hợp đồng đã khẳng định rằng “Người nào im lặng không mặc nhiên coi là đồng ý”, nhưng ý chí các bên có thể thể hiện qua hành vi, từ đó rút ra kết luận. Trong quan hệ HĐLĐ, tính thực tế này ngày càng được chú trọng và trở thành cơ sở giải quyết mối quan hệ về lợi ích, quyền và nghĩa vụ của các bên có tranh chấp, giải quyết về mặt lý luận nhiều vấn đề phát sinh trong thực tế như về chủ thể, hình thức, nội dung HĐLĐ Trường hợp hết hạn HĐLĐ mà NLĐ tiếp tục làm việc, NSDLĐ tiếp tục trả lương là một ví dụ điển hình. - Thứ năm, HĐLĐ được thực hiện liên tục trong thời gian nhất định hay vô hạn định. Thời hạn của HĐLĐ có thể được xác định rõ từ ngày có hiệu lực đến một thời điểm nào đó, hoặc không xác định trước điểm kết thúc. Ở đây, các bên, đặc biệt là NLĐ, không có quyền lựa chọn hay làm việc theo ý chủ quan, mà công việc phải được thi hành tuần tự theo thời gian được NSDLĐ xác định. Đây cũng chính là một trong những căn cứ để phân biệt HĐLĐ với các hợp đồng dịch vụ, gia công do BLDS điều chỉnh. Sự ngắt quãng, tạm ngưng trong việc thực hiện hợp đồng chỉ được áp dụng trong những trường hợp đã được pháp luật quy định. 1.1.3. Nội dung và hiệu lực của hợp đồng lao động 1.1.3.1. Nội dung của hợp đồng lao động Nội dung HĐLĐ là toàn bộ các điều khoản của hợp đồng, trong đó chứa đựng các quyền và nghĩa vụ mà các bên đã thỏa thuận [29, tr.190]. Pháp luật 9
  13. về hợp đồng thường quy định những nội dung chủ yếu của hợp đồng mà các bên bắt buộc phải thỏa thuận để đảm bảo quyền và lợi ích cần thiết của các bên chủ thể. Theo pháp luật lao động Việt Nam, nội dung HĐLĐ do các bên tham gia tự do giao kết và thỏa thuận nhưng phải đảm bảo những nội dung chủ yếu mà pháp luật quy định nhằm đảm bảo quyền và lợi ích cần thiết đặc biệt là bên “yếu thế” trong QHLĐ [14, tr. 124]. Đây là các khoản cần tiết đối với HĐLĐ bao gồm: Tên và địa chỉ NSDLĐ hoặc người đại diện hợp pháp; Họ tên, ngày tháng năm sinh, giới tính, địa chỉ nơi cư trú, số chứng minh nhân dân hoặc giấy tờ hợp pháp khác của NLĐ; Công việc và địa điểm làm việc; Thời hạn của hợp đồng lao động; Mức lương, hình thức trả lương, thời hạn trả lương, phụ cấp lương và các khoản bổ sung khác; Chế độ nâng bậc, nâng lương; Thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi; Trang bị bảo hộ lao động cho NLĐ; BHXH và BHYT; Đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng nghề [26, điều 23] Về công việc phải làm - điều khoản rất quan trọng của HĐLĐ. Công việc phải làm rất đa dạng, các bên tự do thỏa thuận, nêu tên hay tả chi tiết công việc, miễn sao là một “việc làm”, là “hoạt động tạo ra nguồn thu nhập không bị pháp luật cấm”. Tuy nhiên, để bảo vệ tính mạng và an toàn của NLĐ, trong một số trường hợp pháp luật hạn chế quyền làm việc của họ trong một số nghề không phù hợp với thể lực đối với: lao động là nữ, là người tàn tật, người cao tuổi, người chưa thành niên. Về tiền lương: tiền lương là số lượng tiền tệ mà NSDLĐ trả cho NLĐ khi họ hoàn thành công việc theo chức năng, nhiệm vụ, được pháp luật quy định hoặc hai bên thỏa thuận trong HĐLĐ. Với chức năng là thước đo giá trị, chức năng sản xuất, tích lũy, tiền lương có ý nghĩa đặc biệt với NLĐ, NSDLĐ và hoạt động quản lý nhà nước. Điều 90 BLLĐ quy định tiền lương do hai bên 10
  14. thỏa thuận trong HĐLĐ và được trả theo năng suất, chất lượng, hiệu quả công việc, nhưng không được thấp hơn mức lương tối thiểu nhà nước quy định. Về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi: thỏa thuận cụ thể về nội dung này giúp NLĐ có thể phục hồi sức khỏe để làm việc có hiệu quả, NSDLĐ có thể sắp xếp bố trí công việc hợp lý. Thời giờ làm việc hai bên thỏa thuận nhưng không quá 8 giờ/ngày, 48 giờ/tuần, có thể thỏa thuận làm thêm nhưng không quá 50% giờ tiêu chuẩn trong ngày, 200 giờ trong một năm trừ trường hợp đặc biệt [26, Điều 104, 106] Về an toàn lao động, vệ sinh lao động: NLĐ có thể thỏa thuận về trang thiết bị, dụng cụ, môi trường làm việc. Tuy nhiên, NSDLĐ có trách nhiệm trang bị đầy đủ phương tiện đảm bảo ATLĐ, VSLĐ (Khoản 1 Điều 138 BLLĐ). Thỏa thuận của các bên không được trái quy định tối thiểu của pháp luật nhằm bảo vệ sức lao động của NLĐ. Về điều khoản BHXH: NLĐ trong quá trình làm việc có nhiều khả năng gặp rủi ro, tham gia vào BHXH, NLĐ được trợ cấp ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thai sản, hưu trí, tử tuất. Các bên có quyền thỏa thuận trích lập quỹ BHXH nhưng không được trái quy định pháp luật để bảo vệ NLĐ. Vềthời hạn của hợp đồng: nội dung này được pháp luật lao động quy định khá cụ thể và việc thực hiện cũng được các bên rất quan tâm. Thời hạn của HĐLĐ là khoảng thời gian có hiệu lực của HĐLĐ. Thời hạn HĐLĐ gồm: thời hạn không xác định và thời hạn xác định. Ngoài những nội dung cần thiết mà các bên chủ thể thỏa thuận được pháp luật quy định, các bên có thể tự thỏa thuận thêm các nội dung khác theo nguyên tắc tự do ý chí, bình đẳng và thiện chí với nhau. Tuy nhiên, pháp luật cũng yêu cầu nội dung của hợp đồng không được vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội và TƯLĐTT. 11
  15. Ngoài ra pháp luật lao động hiện hành còn có quy định riêng về nội dung HĐLĐ trong một số trường hợp đặc biệt sau: - Khi NLĐ làm việc có liên quan trực tiếp đến bí mật kinh doanh, bí mật công nghệ theo quy định của pháp luật, thì NSDLĐ có quyền thỏa thuận bằng văn bản với NLĐ về nội dung, thời hạn bảo vệ bí mật kinh doanh, bí mật công nghệ, quyền lợi và việc bồi thường trong trường hợp NLĐ vi phạm. - Đối với NLĐ làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, diêm nghiệp thì tùy theo loại công việc thì hai bên có thể giảm một số nội dung chủ yếu của HĐLĐ và thỏa thuận bổ sung nội dung về phương thức giải quyết trong trường hợp thực hiện hợp đồng chịu ảnh hưởng của thiên tai, hỏa hoạn, thời tiết. - Nội dung của HĐLĐ đối với NLĐ được thuê làm Giám đốc trong doanh nghiệp có vốn của Nhà nước do Chính phủ quy định. 1.1.3.2. Hiệu lực của hợp đồng lao động Hiệu lực hợp đồng là giá trị pháp lý của hợp đồng làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia, và giá trị pháp lý ràng buộc các bên tham gia hợp đồng phải tôn trọng và phải thi hành nghiêm túc các quyền, nghĩa vụ đó. Việc xác định thời điểm có hiệu lực của hợp đồng có ý nghĩa rất quan trọng trên phương diện pháp lý, đây chính là thời điểm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia giao kết hợp đồng. Theo BLDS, hợp đồng dân sự được giao kết hợp pháp có hiệu lực từ thời điểm giao kết, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác (điều 405). Theo BLLĐ 1994, HĐLĐ có hiệu lực kể từ ngày giao kết hoặc từ ngày hai bên thỏa thuận (điều 33). Theo BLLĐ 2002, HĐLĐ có hiệu lực kể từ ngày giao kết hoặc từ ngày do hai bên thỏa thuận hoặc từ ngày NLĐ bắt đầu đi làm việc (Khoản 1 điều 33). Đến BLLĐ 2012 thì có quy định tương tự như BLDS, HĐLĐ có hiệu lực kể từ ngày các bên giao kết trừ trường hợp hai bên có thỏa thuận khác hoặc 12
  16. pháp luật có quy định khác (điều 25 BLLĐ). Điều 8 Nghị định 44/2003 quy định khi kí kết HĐLĐ hai bên phải thỏa thuận cụ thể ngày có hiệu lực của HĐLĐ và ngày bắt đầu làm việc. Trường hợp NLĐ đi làm ngay sau khi kí HĐLĐ, thì ngày có hiệu lực là ngày kí kết. Trường hợp NLĐ đã đi làm một thời gian sau đó mới kí HĐLĐ hoặc HĐLĐ miệng, thì ngày có hiệu lực là ngày NLĐ bắt đầu làm việc. Hợp đồng lao động vô hiệu toàn phần và từng phần: Khi tham gia vào QHLĐ, các bên được quyền tự do thỏa thuận trên cơ sở các quy định pháp luật về nguyên tắc giao kết, chủ thể giao kết, hình thức giao kết và phạm vi thỏa thuận. Chỉ những hợp đồng hợp pháp mới làm phát sinh quyền, nghĩa vụ cả các bên và được Nhà nước đảm bảo thực hiện [12, tr. 170]. Một HĐLĐ không đáp ứng các điều kiện được quy định tại điều 122 BLDS thì vô hiệu (điều 127). Dẫn chiếu điều 122 BLDS điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự: (1) Chủ thể tham giao giao dịch có năng lực hành vi dân sự; (2) Mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái với đạo đức xã hội; (3) Người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện; (4) Hình thức giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch trong trường hợp pháp luật có quy định. Bên cạnh đó, điều 411 BLDS bổ sung thêm điều kiện hợp đồng dân sự vô hiệu do có đối tượng không thể thực hiện được, BLDS phân chia giao dịch (hay hợp đồng) dân sự vô hiệu (điều 127 đến điều 134) và vô hiệu từng phần (điều 135). HĐLĐ vô hiệu toàn bộ khi các yêu cầu của pháp luật không được tuân thủ, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích chính đáng của các bên tham gia quan hệ hoặc lợi ích chung của toàn xã hội đến mức không thể làm hợp đồng đó làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên, hoặc hợp đồng vô hiệu toàn bộ là HĐLĐ hoàn toàn không có giá trị pháp lý. 13
  17. Theo pháp luật lao động, HĐLĐ vô hiệu toàn bộ khi thuộc một trong các trường hợp sau đây: (1) Toàn bộ nội dung của HĐLĐ trái pháp luật; (2) Người ký kết HĐLĐ không đúng thẩm quyền; (3) Công việc mà hai bên đã giao kết trong HĐLĐ là công việc bị pháp luật cấm; (4) Nội dung của HĐLĐ hạn chế hoặc ngăn cản quyền thành lập, gia nhập và hoạt động công đoàn của NLĐ [19]. HĐLĐ bị tuyên bố vô hiệu toàn bộ thì xử lý như sau:(1) Trường hợp do ký sai thẩm quyền quy định tại điểm b khoản 1 Điều 50 của BLLĐ 2012 [26] thì cơ quan quản lý nhà nước về lao động hướng dẫn các bên ký lại; (2) Quyền, nghĩa vụ và lợi ích của NLĐ được giải quyết theo quy định của pháp luật. HĐLĐ vô hiệu từng phần khi nội dung của phần đó vi phạm pháp luật nhưng không ảnh hưởng đến các phần còn lại của hợp đồng. HĐLĐ bị tuyên bố vô hiệu từng phần thì xử lý như sau: (1) Quyền, nghĩa vụ và lợi ích của các bên được giải quyết theo TƯLĐTT hoặc theo quy định của pháp luật; (2) Các bên tiến hành sửa đổi, bổ sung phần của HĐLĐ bị tuyên bố vô hiệu để phù hợp với TƯLĐTT hoặc pháp luật về lao động [19]. Trong trường hợp một phần hoặc toàn bộ nội dung của HĐLĐ quy định quyền lợi của NLĐ thấp hơn quy định trong pháp luật về lao động, nội quy lao động, TƯLĐTT đang áp dụng hoặc nội dung của HĐLĐ hạn chế các quyền khác của NLĐ thì một phần hoặc toàn bộ nội dung đó bị vô hiệu. Thẩm quyền tuyên bố HĐLĐ vô hiệu: Thanh tra lao động, TAND có quyền tuyên bố HĐLĐ vô hiệu. Chính phủ quy định về trình tự, thủ tục thanh tra lao động tuyên bố HĐLĐ vô hiệu. 1.2. Chấm dứt hợp đồng lao động và các điều kiện chấm dứt HĐLĐ 1.2.1. Khái niệm và phân loại hình thức chấm dứt HĐLĐ 1.2.1.1. Khái niệm về chấm dứt hợp đồng lao động: 14
  18. Chấm dứt HĐLĐ là kết thúc hiệu lực HĐLĐ trên cơ sở sự thỏa thuận của các bên, theo ý chí của một trong các bên trong HĐLĐ hoặc từ căn cứ bên thứ ba. Trong một số trường hợp, HĐLĐ chấm dứt xuất phát từ thực tế khách quan hay do yều cầu của bên thứ ba. Theo PGS-TS Nguyễn Hữu Chí, chấm dứt HĐLĐ là sự kiện pháp lý xảy ra khi một hoặc cả hai bên không tiếp tục thực hiện HĐLĐ và chấm dứt quyền và nghĩa vụ của mình [17, tr. 127]. Pháp luật Việt Nam có những quy định chặt chẽ liên quan đến vấn đề chấm dứt HĐLĐ, tạo cơ sở pháp lý vững chắc để thực hiện và áp dụng việc chấm dứt HĐLĐ trên thực tế. HĐLĐ có thể chấm dứt do: (1) đương nhiên; (2) hành vi đơn phương của NLĐ hoặc NSDLĐ; (3) NSDLĐ thay đổi cơ cấu, công nghệ hoặc lý do kinh tế; (4) NSDLĐ tổ chức lại doanh nghiệp (sáp nhập, hợp nhất, chia tách, chuyển quyền sở hữu ) Bên cạnh đó, pháp luật còn quy định các chủ thể khi chấm dứt HĐLĐ còn phải đảm bảo tuân thủ đầy đủ những yêu cầu về căn cứ chấm dứt, nghĩa vụ báo trước và những thủ tục luật định khác tùy theo từng trường hợp. 1.2.1.2. Phân loại hình thức chấm dứt hợp đồng lao động: Xét về chủ thể thì chấm dứt HĐLĐ có thể được chia thành 3 loại sau: (1) Chấm dứt HĐLĐ do ý chỉ của một trong các bên tham gia QHLĐ; (2) Chấm dứt HĐLĐ do ý chí của cả hai bên; (3) Chấm dứt HĐLĐ do quyết định của bên thứ ba. Theo quy định của pháp luật lao động hiện hành, tòa án là một chủ thể mà bản án, quyết định của chủ thể này có khả năng làm chấm dứt HĐLĐ. Cụ thể trong trường hợp tòa án ra bản án kết án tù giam, hoặc cấm làm công việc cũ đối với NLĐ hoặc ra quyết định tuyên bố NLĐ đã chết hoặc mất tích được coi là những căn cứ làm chấm dứt HĐLĐ [26, khoản 5, 6, 7 – điều 36]. Trong những trường hợp trên, đối tượng tác động trực tiếp của bản án, quyết định không phải là sự tồn tại của HĐLĐ mà chính là một bên chủ thể 15
  19. của HĐLĐ, từ đó làm cho khả năng thực hiện hợp đồng trên thực tế không còn và HĐLĐ sẽ phải chấm dứt. Xét về sự kiện pháp lý thì chấm dứt HĐLĐ có thể phân chia thành bốn loại sau: (1) Chấm dứt HĐLĐ do đơn phương; (2) Chấm dứt HĐLĐ do song phương (thảo thuận); (3) Chấm dứt HĐLĐ do đương nhiên; (4) Chấm dứt HĐLĐ do sự kiện đặc biệt. Tương tự như quy định của các quốc gia, chấm dứt HĐLĐ xảy ra theo nhiều cách thức khác nhau, thể hiện ý chí đồng thuận của các bên hay của một bên. Theo quy định của pháp luật lao động Việt Nam, HĐLĐ có thể chấm dứt trong các trường hợp: - HĐLĐ đã hết thời hạn. Đây là trường hợp chấm dứt HĐLĐ do các bên thỏa thuận từ trước về thời hạn chấm dứt hợp đồng; - Công việc đã hoàn thành (đối với các hợp đồng lao động vụ việc). Trường hợp này, HĐLĐ cũng đương nhiên chấm dứt theo dự liệu từ trước của các bên tham gia QHLĐ trên cơ sở “hành vi việc làm”; - Hai bên thỏa thuận cùng chấm dứt HĐLĐ; - NLĐ đủ điều kiện về thời gian đóng BHXH và tuổi hưởng lương hưu theo quy định tại Điều 187 của BLLĐ. Đây là những trường hợp đủ điều kiện hưởng chế độ hưu trí hàng tháng theo quy định của pháp luật lao động và an sinh xã hội; - Một trong hai bên đơn phương chấm dứt HĐLĐ. Việc chấm dứt này phụ thuộc hoàn toàn vào ý chí của một bên; - NLĐ bị kết án, không được làm công việc ghi trong HĐLĐ, chết, mất tích, mất năng lực hành vi dân sự , NSDLĐ là các nhân chết, mất tích, mất năng lực hành vi dân sự theo tuyên bố của tòa án; HĐLĐ bị vô hiệu theo tuyên bố của tòa án hay quyết định của Thanh tra lao động. Trong trường hợp 16