Luận văn Chấm dứt doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam hiện nay

pdf 78 trang vuhoa 23/08/2022 8880
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Chấm dứt doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_cham_dut_doanh_nghiep_theo_phap_luat_viet_nam_hien.pdf

Nội dung text: Luận văn Chấm dứt doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam hiện nay

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT VŨ THỊ QUYÊN CHẤM DỨT DOANH NGHIỆP THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY Chuyên ngành : Luật Kinh tế Mã số : 60 38 01 07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. HOÀNG ANH TUẤN HÀ NỘI - 2014
  2. MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT MỞ ĐẦU 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHẤM DỨT DOANH NGHIỆP 6 1.1. Khái niệm Doanh nghiệp 6 1.2. Khái niệm, bản chất và đặc điểm pháp lý chấm dứt doanh nghiệp 8 1.2.1. Khái niệm và bản chất pháp lý chấm dứt doanh nghiệp 8 1.2.2. Ý nghĩa của chấm dứt doanh nghiệp 14 1.3. Quyền tự do kinh doanh – nền tảng của tự nguyện chấm dứt doanh nghiệp 17 1.3.1. Quyền tự do kinh doanh 17 1.3.2. Chấm dứt doanh nghiệp trong phạm vi quyền tự do kinh doanh 20 1.4. Phân loại chấm dứt doanh nghiệp 20 1.4.1. Khái quát chung về phân loại chấm dứt doanh nghiệp 20 1.4.2. Nội dung tổng quát các trường hợp chấm dứt doanh nghiệp 21 1.4.3. Chấm dứt doanh nghiệp bởi giải thể 22 1.4.4. Chấm dứt doanh nghiệp bởi phá sản 25 1.5. Bảo vệ người thứ ba từ sự tác động của việc chấm dứt doanh nghiệp 29 Kết luận Chương 1 31
  3. Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ CHẤM DỨT DOANH NGHIỆP 32 2.1. Các quy định hiện hành về giải thể doanh nghiệp 32 2.1.1. Quy định về các trường hợp và điều kiện giải thể doanh nghiệp 32 2.1.2. Quy định về điều kiện giải thể doanh nghiệp 39 2.1.3. Quy định về thủ tục giải thể doanh nghiệp 40 2.2. Các quy định về phá sản doanh nghiệp 43 2.2.1. Quy định về xác định doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản 43 2.2.2. Quy định về quyền và nghĩa vụ yêu cầu mở thủ tục phá sản 44 2.2.3. Quy định về căn cứ quyết định mở thủ tục phá sản 45 2.2.4. Quy định về tuyên bố doanh nghiệp phá sản 46 2.3. Các quy định về bảo vệ người thứ ba khi giải thể, phá sản doanh nghiệp 47 2.3.1. Đối với trường hợp giải thể 47 2.3.2. Đối với trường hợp phá sản 48 2.4. Nguyên nhân khiếm khuyết của pháp luật và áp dụng pháp luật về chấm dứt doanh nghiệp 50 Kết luận Chương 2 52 Chương 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ CHẤM DỨT DOANH NGHIỆP 53 3.1. Các định hướng 53 3.2. Các giải pháp hoàn thiện 56 3.2.1. Giải pháp lập pháp 56
  4. 3.2.2. Giải pháp thi hành 62 3.2.3. Giải pháp tư pháp 63 KẾT LUẬN 66 TÀI LIỆU THAM KHẢO 67
  5. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Vũ Thị Quyên
  6. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT STT KÝ HIỆU NỘI DUNG TỪ VIẾT TẮT 1. BLDS 2005 : Bộ luật Dân sự năm 2005 2. LDN 2005 : Luật Doanh nghiệp năm 2005 3. Công ty TNHH : Công ty trách nhiệm hữu hạn 4. DNTN : Doanh nghiệp tư nhân
  7. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong công cuộc đổi mới và quá trình hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng, pháp luật Doanh nghiệp Việt Nam đã liên tục được cải cách, theo đó nhiều loại hình Doanh nghiệp được pháp luật ghi nhận, và ngày càng khẳng định vai trò to lớn của mình trong việc phát triển kinh tế, xã hội. Sự phát triển các loại hình Doanh nghiệp cho thấy nhà làm luật Việt Nam đã chú ý tương đối thích đáng tới quyền tự do kinh doanh của nhà đầu tư, và cũng cho thấy sự nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của Doanh nghiệp. Pháp luật Doanh nghiệp Việt Nam đã từng bước hoàn thành sứ mệnh của mình là tạo lập ra hình thức Doanh nghiệp đa dạng và phong phú cho các nhà đầu tư lựa chọn. Cụ thể, sau khi thống nhất đất nước, với chính sách mở cửa, Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987 đã cho phép tạo lập công ty trách nhiệm hữu hạn để thu hút đầu tư trực tiếp từ nước ngoài. Kế tiếp đó là Luật Công ty năm 1990 đã mở ra hai hình thức công ty mà các nhà đầu tư Việt Nam có thể lựa chọn đó là công ty cổ phần và công ty trách nhiệm hữu hạn. Đến năm 1999, tức là sau chín năm thực hiện, Luật Công ty năm 1990 đã được thay thế bằng Luật Doanh nghiệp năm 1999, theo đó, đã mở rộng sự lựa chọn của các nhà đầu tư Việt Nam trong năm hình thức doanh nghiệp - đó là công ty cổ phần và công ty trách nhiệm hữu hạn có hai thành viên trở lên, công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên (mà chủ sở hữu là tổ chức), công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân. Luật Doanh nghiệp năm 1999 đã đạt được những thành thành tựu đáng kể trong việc cải thiện môi trường kinh doanh, nhưng cũng có nhiều hạn chế. Để khắc phục những hạn chế đó và mở rộng quyền tự do kinh doanh, tăng cường khả năng gia nhập thị trường, Luật Doanh nghiệp năm 2005 ra đời thay thế Luật Doanh nghiệp năm 1999 và 1
  8. khẳng định quyền của cá nhân được thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên. Tuy nhiên, Pháp luật Doanh nghiệp không thể đảm bảo quyền tự do kinh doanh chỉ bằng việc tạo điều kiện cho nhà đầu tư tạo lập Doanh nghiệp, mà còn phải quan tâm tạo điều kiện thuận lợi để các nhà đầu tư chấm dứt Doanh nghiệp khi nhà đầu tư mong muốn hoặc khi có sự kiện pháp lý phát sinh là điều kiện chấm dứt theo luật định. Có thể nói rằng, chấm dứt Doanh nghiệp không phải là vấn đề mới, nhưng ở Việt Nam hiện nay vấn đề này chưa được quan tâm nghiên cứu một cách đầy đủ về mặt lý luận và thực tiễn. Các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành quy định về chấm dứt Doanh nghiệp chưa đầy đủ, chưa phản ánh được bản chất kinh tế và vai trò của chấm dứt Doanh nghiệp. Nhận định này được minh chứng rõ ràng rằng các quy định về chấm dứt Doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp năm 2005 gần như không có sự thay đổi so với các quy định về chấm dứt Doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp năm 2005. Các quy định về điều kiện chấm dứt, các chế tài về vi phạm thủ tục, điều kiện chấm dứt còn bị bỏ ngỏ. Các quy định về thủ tục chấm dứt tạo ra rào cản lớn cho các nhà đầu tư muốn thực hiện việc chấm dứt Doanh nghiệp. Những bất cập của pháp luật về chấm dứt Doanh nghiệp có thể gây khó khăn cho việc bảo đảm quyền tự do kinh doanh và lợi ích chính đáng của các nhà đầu tư. Nhận thức rằng, việc nghiên cứu về chấm dứt Doanh nghiệp có ý nghĩa quan trọng đối với việc nâng cao nhận thức và ứng dụng thực tiễn để từng bước mở rộng và bảo hộ quyền tự do kinh doanh, đặc biệt là trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng như hiện nay. Do vậy, để tiếp thu có sàng lọc những thành tựu hiện có, để góp phần đáp ứng yêu cầu thực tiễn về chấm dứt Doanh nghiệp và để khắc phục những khiếm khuyết của pháp luật Việt Nam về vấn đề này, học viên lựa chọn đề tài “Chấm dứt Doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam hiện nay” làm luận văn cao học luật của mình. 2
  9. 2. Mục tiêu nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của đề tài này là nhằm làm rõ những vấn đề lý luận về chấm dứt Doanh nghiệp; Làm rõ thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về chấm dứt Doanh nghiệp; Làm rõ những hạn chế, bất cập và nguyên nhân của chúng trong các quy định BLDS 2005, Luật Doanh nghiệp 2005 để làm cơ sở đề xuất một số giải pháp và kiến nghị hoàn thiện. 3. Tính mới và những đóng góp của đề tài Luận văn đã có những đóng góp về mặt lý luận và những phân tích về mặt thực tiễn. Luận văn đã đưa ra những kiến nghị và giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam về chấm dứt doanh nghiệp. Trên cơ sở những kiến nghị và giải pháp luận văn đã trở thành một tài liệu hữu ích cho các học viên nghiên cứu và tham khảo. 4. Tình hình nghiên cứu Chấm dứt doanh nghiệp không thể xem là một vấn đề mới, bởi lẽ đơn giản là pháp luật về doanh nghiệp đã ra đời khá sớm trong lịch sử loài người. Hơn nữa, nó là một công cụ hữu hiệu trong hoạt động mưu sinh của con người. Các thương nhân luôn luôn tìm kiếm việc sử dụng công cụ pháp lý để chấm dứt doanh nghiệp một cách linh hoạt và hữu hiệu. Điều này dẫn đến việc làm phát sinh nhu cầu nghiên cứu về chấm dứt doanh nghiệp. Thực tế, pháp luật hiện hành đã đặt ra vấn đề chấm dứt doanh nghiệp. Tuy nhiên việc nghiên cứu về cơ sở lý luận và thực tiễn về chấm dứt doanh nghiệp hiện nay ở Việt Nam vẫn được coi là một đề tài có giá trị quan trọng. Nhận thức rằng nghiên cứu chấm dứt doanh nghiệp không thể không dựa trên một nền tảng kiến thức pháp lý chung về doanh nghiệp, và từ đó đi 3
  10. sâu phân tích pháp luật về chấm dứt doanh nghiệp từ lý luận cho tới thực tiễn và đưa ra kiến nghị cho việc hoàn thiện. Do vậy, cần giới thiệu tình hình nghiên cứu các vấn đề chung có liên quan và tình hình nghiên cứu trực tiếp về chấm dứt doanh nghiệp. Cụ thể, có thể thấy một số công trình nghiên cứu tiêu biểu như sau: - Xử lý tài sản thế chấp trong mối quan hệ với pháp luật về phá sản (Vũ Thị Hồng – Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số định kỳ tháng 5 năm 2012); - Khung pháp lý về mua lại và sáp nhập ngân hàng thương mại ở Việt Nam (Vũ Thị Hồng – Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số định kỳ tháng 9 năm 2012); - Mua bán, sáp nhập doanh nghiệp, thực trạng pháp luật và một số kiến nghị (Vũ Ngọc Dũng – Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số định kỳ tháng 3 năm 2013); - Địa vị pháp lý của tổ quản lý và thanh lý tài sản theo pháp luật phá sản (Đặng Văn Huy – Tạp chí Dân chủ và pháp luật); - Thực trạng pháp luật về giải thể doanh nghiệp, một số đánh giá và kiến nghị hoàn thiện (Đặng Văn Huy – Tạp chí Luật học số 10 năm 2012); - Hoàng Anh Tuấn, Chuyển đổi hình thức công ty theo pháp luật Việt Nam, Luật án tiến sĩ luật học, 2012. Tuy nhiên, các công trình nói trên chưa nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện và đầy đủ cơ sở lý luận và thực tiễn về chấm dứt doanh nghiệp. Kế thừa những công trình nghiên cứu có liên quan đã được công bố của giới khoa học pháp lý trong nước, Tác giả quyết tâm nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn để từ đó đề ra những phương hướng, kiến nghị lập pháp, hành pháp về vấn đề này cho phù hợp với đặc điểm, điều kiện của Việt Nam. 4
  11. 5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Pháp luật Doanh nghiệp Việt Nam hiện hành đang tồn tại một số khái niệm chưa được làm rõ hoàn toàn như: khái niệm Doanh nghiệp, khái niệm Công ty. Do vậy, để có thể nghiên cứu một cách chuyên sâu, tác giả xác định đối tượng nghiên cứu là những Doanh nghiệp có tư cách chủ thể độc lập, có tư cách pháp nhân. Với đề tài nghiên cứu đã chọn, tác giả chỉ tập trung giải quyết vấn đề pháp lý của việc chấm dứt Doanh nghiệp có tư cách pháp nhân theo quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2005. 6. Phương pháp nghiên cứu Các phương pháp nghiên cứu của Luận văn được xây dựng trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, và đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam. Các phương pháp mà luận văn sử dụng bao gồm: phương pháp phân tích quy phạm, phân tích vụ việc, và phân tích lịch sử; phương pháp tổng hợp, thống kê, tập hợp các thông tin, số liệu và vụ việc; phương pháp điển hình hoá, mô hình hóa các quan hệ xã hội; phương pháp hệ thống hóa các quy phạm pháp luật; phương pháp so sánh pháp luật; và phương pháp đánh giá thực trạng pháp luật. Với phương pháp phân tích quy phạm, luận văn đã phân tích quy định của pháp luật hiện hành về chấm dứt doanh nghiệp, qua đó chỉ ra các khiếm khuyết, bất cập. Khi phân tích vụ việc, luận văn đã chỉ ra khiếm khuyết trong thực tiễn áp dụng pháp luật. Phương pháp tổng hợp được sử dụng kết hợp với phương pháp phân tích. Cụ thể, từ những kết quả nghiên cứu bằng phân tích, luận văn sử dụng 5
  12. phương pháp tổng hợp kết hợp chúng lại với nhau để có được sự nhận thức về vấn đề nghiên cứu một cách đầy đủ, hoàn chỉnh. Kết quả tổng hợp được thể hiện chủ yếu bằng các kết luận, kiến nghị hoàn thiện pháp luật Doanh nghiệp. Phương pháp so sánh được sử dụng khi so sánh với pháp luật nước ngoài để chỉ ra ưu nhược điểm, sự tiến bộ hay lạc hậu hoặc so sánh giữa pháp luật hiện hành với các văn bản đã hết hiệu lực để chỉ ra sự thay đổi tích cực hay tụt hậu. 7. Bố cục của Luận văn Ngoài phần mở đầu, nội dung của Luận văn được bố cục như sau: Chương 1: Những vấn đề lý luận về chấm dứt doanh nghiệp Chương 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam về chấm dứt doanh nghiệp Chương 3: Định hướng và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về chấm dứt doanh nghiệp Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHẤM DỨT DOANH NGHIỆP 1.1. Khái niệm Doanh nghiệp Từ góc nhìn ngôn ngữ, từ “enterprise” của tiếng Anh thường được dịch sang tiếng Việt hiện nay là “Doanh nghiệp”, nhưng những năm đầu của thời kỳ đổi mới theo Nghị quyết Trung ương VI, người ta đã từng dịch là “xí nghiệp”). Ở Liên hiệp Vương quốc Anh có đạo luật được gọi là “Enterprise Act 2002”. Trong Đạo luật này, tại Điều 129 quy định nguyên văn tiếng Anh: “Enterprise” “means the activities, or part of the activities, of a business” [54, tr 46] tức là nó được xem là các hoạt động, hoặc một phần của các hoạt động của một việc kinh doanh. 6
  13. Theo Deluxe Black’s Law Dictionary, “enterprise” trong pháp luật Hoa Kỳ được hiểu theo hai nghĩa với các hoàn cảnh khác nhau. Nghĩa chung nhất xem “enterprise là công cuộc, dự án hay cam kết kinh doanh” [58, tr 531]. Như vậy có thể hiểu “enterprise” là một hành vi thương mại. Tuy nhiên, người ta thường hiểu doanh nghiệp là thực thể kinh doanh: Doanh nghiệp là khái niệm chung nhất để chỉ các loại hình doanh nghiệp, trong đó công ty là một loại hình doanh nghiệp”, và “công ty là một loại hình doanh nghiệp với năm đặc điểm cơ bản i) là pháp nhân; ii) tách biệt và là chủ thể pháp lý độc lập với chủ sở hữu” [50, tr 6]. Pháp luật Doanh nghiệp của Việt Nam hiện nay cũng xác định Doanh nghiệp là chủ thể kinh doanh, cụ thể Khoản 1 Điều 4 Luật Doanh nghiệp 2005 định nghĩa: Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh. Như vậy, khái niệm doanh nghiệp theo quan niệm của pháp luật Việt Nam thường dùng để chỉ những chủ thể kinh doanh có đăng ký kinh doanh, bao gồm cả Doanh nghiệp tư nhân mà bản chất của Doanh nghiệp này chỉ là cá nhân kinh doanh. Thực tiễn áp dụng pháp luật ở Việt Nam cho thấy, việc xem xét tư cách pháp lý của doanh nghiệp tư nhân có nhiều quan điểm khác nhau. Có quan điểm thậm chí không chấp nhận doanh nghiệp tư nhân là một chủ thể của quan hệ pháp luật. Quan điểm này đang hiện hữu tại các Phòng Đăng ký kinh doanh, biểu hiện cụ thể là họ không chấp nhận Doanh nghiệp tư nhân là một cổ đông hay thành viên Công ty TNHH. Có lẽ quan điểm này xuất phát từ việc quy định thiếu thống nhất về tư cách chủ thể của Doanh nghiệp tư nhân trong Pháp luật 7
  14. Doanh nghiệp Việt Nam. Cụ thể: Với quy định tại Khoản 1 Điều 4 Luật Doanh nghiệp thì DNTN đương nhiên được hiểu là một chủ thể kinh doanh: Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên, với quy định tại Khoản 3 Điều 143 Luật Doanh nghiệp 2005 thì DNTN không được coi là một chủ thể của quan hệ pháp luật: Chủ doanh nghiệp tư nhân là nguyên đơn, bị đơn hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trước Trọng tài hoặc Toà án trong các tranh chấp liên quan đến doanh nghiệp. Trên cơ sở làm rõ một số quan điểm về bản chất Doanh nghiệp và để thống nhất trong nghiên cứu, Luận văn đã giới hạn phạm vi nghiên cứu và chỉ tập trung nghiên cứu việc chấm dứt Doanh nghiệp có tư cách pháp nhân theo Luật Doanh nghiệp Việt Nam năm 2005. 1.2. Khái niệm, bản chất và đặc điểm pháp lý chấm dứt doanh nghiệp 1.2.1. Khái niệm và bản chất pháp lý chấm dứt doanh nghiệp Luật Doanh nghiệp 2005 không có khái niệm cụ thể về chấm dứt doanh nghiệp, tuy nhiên có quy định một số trường hợp cụ thể về chấm dứt doanh nghiệp. Cụ thể: Khoản 3 Điều 150 quy định: Công ty bị chia chấm dứt tồn tại sau khi các công ty mới được đăng ký kinh doanh; Khoản 4 Điều 152 quy định: Sau khi đăng ký kinh doanh, các công ty bị hợp nhất chấm dứt tồn tại; điểm c Khoản 2 Điều 153 quy định: Sau khi đăng ký kinh doanh, công ty bị sáp nhập chấm dứt tồn tại; Khoản 3 Điều 154 quy định: Sau khi đăng ký kinh 8
  15. doanh, công ty được chuyển đổi chấm dứt tồn tại; Đối với trường hợp giải thể thì Luật quy định: cơ quan đăng ký kinh doanh xóa tên doanh nghiệp trong sổ đăng ký kinh doanh. Điều 99 BLDS 2005 quy định về chấm dứt pháp nhân, theo đó pháp nhân chấm dứt trong các trường hợp: hợp nhất pháp nhân; sáp nhập pháp nhân; chia pháp nhân; giải thể pháp nhân; Bị tuyên bố phá sản theo quy định của pháp luật về phá sản. Pháp nhân chấm dứt kể từ thời điểm xoá tên trong sổ đăng ký pháp nhân hoặc từ thời điểm được xác định trong quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Như vậy, so với Luật Doanh nghiệp thì Bộ luật Dân sự không quy định trường hợp châm dứt do chuyển đổi hình thức pháp nhân. Chỉ với việc quy định các trường hợp chấm dứt pháp nhân, pháp luật Việt Nam hiện hành đã bộc lộ nhiều mâu thuẫn và đặc biệt là nhận thức về chấm dứt pháp nhân còn quá mơ hồ, việc dùng thuật ngữ quá tuỳ tiện, cụ thể: Bộ luật Dân sự 2005 sử dụng thuật ngữ “chấm dứt pháp nhân”. Tác giả cho rằng việc dùng thuật ngữ này đảm bảo tính chính xác và đầy đủ về mặt pháp lý. Tuy nhiên, Bộ luật này quy định các trường hợp chấm dứt pháp nhân là chưa phù hợp. Bởi lẽ pháp nhân chưa thể chấm dứt trong các trường hợp: hợp nhất pháp nhân; sáp nhập pháp nhân; chia pháp nhân. Vấn đề này có thể luận giải như sau: Đối với trường hợp hợp nhất pháp nhân: Bản chất pháp lý của vấn đề này là hai hoặc nhiều pháp nhân được hợp nhất lại thành pháp nhân mới bằng cách chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp sang pháp nhân mới. Sự kiện pháp lý này có thể dùng cách ví von như “con dã tràng sống trong vỏ ốc, chui từ vỏ ốc này sang vỏ ốc khác trong quá trình sinh trưởng của mình” [19, tr 181]. Trường hợp này, các quyền yêu cầu và nghĩa 9
  16. vụ của doanh nghiệp vẫn tồn tại. Do vậy, không thể coi là chấm dứt doanh nghiệp. Tương tự, việc sáp nhập pháp nhân, chia pháp nhân thì trách nhiệm liên đới vẫn hiện hữu và quyền yêu cầu của người thứ ba cũng vẫn được đảm bảo. Do vậy, không thể coi đó là chấm dứt doanh nghiệp. Như vậy, việc chấm dứt có thể được chấp nhận đối với trường hợp: giải thể pháp nhân và pháp nhân bị tuyên bố phá sản theo quy định của pháp luật về phá sản. Thời điểm chấm dứt được xác định kể từ thời điểm xóa tên trong sổ đăng ký pháp nhân hoặc từ thời điểm được xác định trong quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Quy định này không đảm bảo tính chặt chẽ, bởi lẽ việc xóa tên thường không đi liền với việc xóa bỏ mọi trách nhiệm, hay việc xóa tên không đương nhiên là căn cứ chấm dứt quyền yêu cầu của người thứ ba đối với pháp nhân, bởi một trong những quyền hiến định của các chủ thể là được bảo hộ về quyền sở hữu đối với tài sản hợp pháp. Luật Doanh nghiệp, với tư cách là luật chuyên ngành, nhưng không những không đủ “dũng cảm” để sử dụng quyền năng pháp lý của mình, mà còn “rón rén” và thiếu tri kiến pháp lý cơ bản khi quy định về chấm dứt doanh nghiệp. Cụ thể, Luật này sử dụng thuật ngữ “chấm dứt tồn tại” đối với các trường hợp công ty bị chia; công ty bị hợp nhất; công ty bị sáp nhập; công ty được chuyển đổi. Về mặt pháp lý, chấm dứt tồn tại theo quy định của Luật doanh nghiệp được hiểu như thế nào: + Đối với công ty bị chia, Luật Doanh nghiệp quy định “Các công ty mới phải cùng liên đới chịu trách nhiệm về các khoản nợ chưa thanh toán, hợp đồng lao động và nghĩa vụ tài sản khác của công ty bị chia hoặc thỏa thuận với chủ nợ, khách hàng và người lao động để một trong số các công ty 10
  17. đó thực hiện các nghĩa vụ này”. Như vậy, nghĩa vụ của công ty bị chia chưa chấm dứt, quyền yêu cầu của người thứ ba vẫn hiện hữu. Chỉ có tên gọi của Công ty bị chia là không còn tồn tại. + Đối với công ty bị hợp nhất, Luật Doanh nghiệp quy định: Sau khi đăng ký kinh doanh, các công ty bị hợp nhất chấm dứt tồn tại; công ty hợp nhất được hưởng các quyền và lợi ích hợp pháp, chịu trách nhiệm về các khoản nợ chưa thanh toán, hợp đồng lao động và các nghĩa vụ tài sản khác của các công ty bị hợp nhất. + Tương tự, đối với công ty bị tách Luật Doanh nghiệp quy định: công ty bị tách và công ty được tách phải cùng liên đới chịu trách nhiệm về các khoản nợ chưa thanh toán, hợp đồng lao động và nghĩa vụ tài sản khác của công ty bị tách, trừ trường hợp công ty bị tách, công ty mới thành lập, chủ nợ, khách hàng và người lao động của công ty bị tách có thoả thuận khác. Từ các luận giải nêu trên cho thấy, chấm dứt tồn tại của Doanh nghiệp, theo quy định của Luật Doanh nghiệp chỉ đơn thuần là chấm dứt sự tồn tại của tên gọi Doanh nghiệp đó mà thôi. Và về thời điểm chấm dứt, Luật xác định là sau khi đăng ký kinh doanh. Đối với trường hợp giải thể thì xác định từ thời điểm bị xóa tên trong sổ đăng ký kinh doanh. Với đối tượng nghiên cứu là các doanh nghiệp có tư cách pháp nhân theo Luật Doanh nghiệp 2005, tác giả cho rằng chấm dứt doanh nghiệp là chấm dứt tư cách pháp nhân của Doanh nghiệp. Sự kiện pháp lý này phát sinh làm chấm dứt nghĩa vụ của Doanh nghiệp đối với người thứ ba, chấm dứt nghĩa vụ trả nợ của Doanh nghiệp – người thứ ba chấm dứt quyền yêu cầu đối với Doanh nghiệp. Khác với chuyển đổi hình thức doanh nghiệp, chỉ là chuyển đổi hình thức kết cấu của doanh nghiệp, không làm chấm dứt hay thay đổi nghĩa vụ trả nợ của doanh nghiệp đó. Giống như câu ví von của Maurice 11
  18. Cozian và Alain Viandier rằng “chuyển đổi hình thức công ty như hình ảnh dã tràng sống trong vỏ ốc, chui từ vỏ ốc này sang vỏ ốc khác trong quá trình sinh trưởng của mình” [19, tr 181]; Khác với chia doanh nghiệp, hợp nhất, sáp nhập doanh nghiệp, quyền yêu cầu của người thứ ba trong trường hợp này không bị chấm dứt. Doanh nghiệp có tư cách pháp nhân theo Luật Doanh nghiệp 2005 được xác định là Công ty Cổ phần, Công ty TNHH và Công ty Hợp danh. Về mặt pháp lý, các doanh nghiệp này được tạo lập nên bởi ý chí của các thành viên. Vấn đề này, có quốc gia quy định cụ thể trong luật thực định, có quốc gia không quy định. Ví dụ: Ở Pháp, trừ công ty do một người thành lập, các công ty khác đều được thành lập trên cơ sở hợp đồng, “công ty do hai hay nhiều người thành lập trên cơ sở thoả thuận bằng hợp đồng về việc đóng góp, sử dụng tài sản hoặc công sức của họ vào hoạt động kinh doanh chung nhằm chia lãi hoặc thu lợi” [7, Điều 1832]; ở Ý, trong Bộ luật dân sự, tại điều 2247 quy định “Thông qua hợp đồng công ty, hai hay nhiều người góp tài sản hay dịch vụ nhằm thực hiện chung một hoạt động kinh tế với mục đích chia sẻ lợi nhuận kiếm được từ hoạt động đó”. Ở Việt Nam, Luật Doanh nghiệp không đề cập đến vấn đề hợp đồng thành lập công ty. Tuy nhiên, thực tế các Nhà đầu tư ngày càng quan tâm đến vấn đề này. Có lẽ, các thành viên công ty nhận thức được rủi ro pháp lý trong quan hệ giữa họ hoặc do nhận thức được ưu điểm của các quy định về thành lập công ty liên doanh của Luật Đầu tư - một trong những công cụ hạn chế rủi ro, giữa một hoặc nhiều bên nước ngoài với một hoặc nhiều bên Việt Nam để thành lập công ty liên doanh. Mặc dù có tên gọi là hợp đồng liên doanh, nhưng bản chất nó chính là hợp đồng thành lập công ty – là cơ sở kiến tạo nên công ty liên doanh. Ngoại trừ, công ty TNHH một thành viên được hình thành trên cơ sở hành vi pháp lý đơn phương. Các nhà đầu tư khi thành lập các loại 12
  19. hình công ty có hai thành viên trở lên, họ thường giao kết các thoả thuận. Có trường hợp các thành viên sáng lập giao kết hợp đồng thành lập công ty, trường hợp khác họ họp, thảo luận và lập biên bản về việc thành lập công ty trong đó quy định rõ các vấn đề cần thiết như: tên công ty, góp vốn, trụ sở, bộ máy quản trị, phạm vi kinh doanh xét về bản chất thì biên bản này là một hợp đồng thành lập công ty. Trong lĩnh vực khoa học pháp lý ở Việt Nam, khi nghiên cứu để chứng minh công ty có bản chất hợp đồng, TS. Ngô Huy Cương đã dẫn chiếu từ các học thuyết “i) học thuyết hư cấu hay thực thể nhân tạo (fictyon or artyficial entyty theory) xem công ty là một pháp nhân hay một thực thể nhân tạo được thiết lập bởi nhà chức trách. Học thuyết này bắt nguồn từ Luật La Mã và luật giáo hội với quan niệm về persona ficta” [59, tr 145]; ii) học thuyết thừa nhận (fiat theory) hay học thuyết nhượng quyền (concession theory) xem sự tồn tại của công ty bởi sự nhượng bộ của nhà nước. Các đặc quyền từ sự nhượng bộ này cho phép các chủ sở hữu và các nhà đầu tư kinh doanh như một công ty. “Học thuyết này còn có các tên gọi khác như học thuyết nguồn gốc chính phủ (government paternity theory) hoặc học thuyết quyền công dân (franchise theory)” [60, tr 4]; iii) học thuyết hiện thực (realistyc theory) hay học thuyết về tính vốn có (inherence theory) xem nhân tính của công ty là sự thừa nhận các lợi ích nhóm như một hiện tượng thực tế đã tồn tại; iv) học thuyết doanh nghiệp (enterprise theory) nhấn mạnh tới doanh nghiệp thương mại cơ bản, không nhấn mạnh tới thực thể-sự liên kết của những thực thể cấu thành; v) học thuyết biểu tượng (symbol theory) xem công ty là một biểu tượng cho sự liên kết của những cá nhân tạo thành công ty có nhân tính nhóm; vi) học thuyết mối liên hệ hợp đồng (nexus of contracts) do các nhà kinh tế học phát triển để tạo dựng các mô hình kinh tế [12]. Với bản chất pháp lý của mình, Công ty phải được chấm dứt bởi ý chí 13
  20. của thành viên hoặc các thành viên. Tuy nhiên, tự do ý chí trong xã hội được quản lý bằng pháp luật thì phải trong khuôn khổ những chuẩn tắc đã được thừa nhận và áp dụng trên thực tế, bởi giao dịch hoặc hành vi của chủ thể có thể được tạo lập trái pháp luật hoặc với tư cách là một thực thể kinh doanh, một chủ thể của pháp luật, trong quá trình hoạt động doanh nghiệp luôn tiềm ẩn nguy cơ gây ảnh hưởng tới cộng đồng hay người thứ ba. Hơn nữa, những người tạo lập doanh nghiệp cũng có nhu cầu bảo hộ bởi pháp luật, nên việc pháp luật can thiệp để buộc doanh nghiệp phải chấm dứt là một tất yếu khách quan. Bởi lẽ đó, chấm dứt doanh nghiệp có thể chia thành nhiều trường hợp như: Chấm dứt doanh nghiệp bởi sự tự nguyện của thành viên; Chấm dứt doanh nghiệp bắt buộc theo luật định; Chấm dứt doanh nghiệp theo thủ tục hành chính; Chấm dứt doanh nghiệp theo thủ tục tố tụng Toà án. Tóm lại, chấm dứt doanh nghiệp theo LDN 2005 là chấm dứt tư cách pháp nhân của doanh nghiệp trên cơ sở lựa chọn của thành viên hoặc theo quy định của pháp luật; chấm dứt theo thủ tục hành chính; chấm dứt theo thủ tục tố tụng Toà án. Chấm dứt doanh nghiệp làm chấm dứt nghĩa vụ của Doanh nghiệp đối với người thứ ba và người thứ ba chấm dứt quyền yêu cầu đối với Doanh nghiệp. 1.2.2. Ý nghĩa của chấm dứt doanh nghiệp Thực tế cho thấy, khi gia nhập thương trường, các chủ thể luôn mong muốn tối đa hoá một cách hợp lý những lợi ích, họ cố gắng tìm ra chiếc chìa khoá, có thể giúp họ đạt được mục đích. 14
  21. Xét về lợi ích, thành lập Doanh nghiệp là tạo ra một phương tiện để đáp ứng nhu cầu sống nào đó của thành viên. Với bản chất là một hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương, Doanh nghiệp không thể không có trong kinh tế thị trường, cho dù là kinh tế thị trường định hướng XHCN hay kinh tế thị trường thực sự “Hợp đồng dân luật đóng vai trò quan trọng trong vận hành của nền kinh tế tư bản. Chức năng cơ bản của hợp đồng quyết định bản chất và giá trị xã hội của nó trong điều kiện xã hội của các nước phương Tây” [60, tr 5]. Đối với một quốc gia đang đẩy mạnh phát triển kinh tế, thì không thể thiếu một cơ sở hạ tầng pháp luật tập trung bảo vệ quan hệ hợp đồng. Do vậy, việc chấm dứt Doanh nghiệp theo quyết định của thành viên cần được đảm bảo. Như chúng ta đã biết, việc nhà lập pháp đặt ra các điều kiện, thủ tục, giấy phép là để bảo vệ, bảo đảm những giá trị, lợi ích công cộng nhất định hoặc quyền và lợi ích của người thứ ba trong các giao dịch Theo đó, pháp luật chỉ ngăn cấm những hành vi của nhà đầu tư nếu có lý do chính đáng vì lợi ích cộng đồng hoặc lợi ích người thứ ba. Vấn đề này đã được quy định tại Điều 14 Hiến pháp Việt Nam “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”. TS. Ngô Huy Cương cho rằng “Luật tư không thể buộc bất kì ai hành động trái với ý muốn của họ, nếu không có lý do chính đáng từ phía cộng đồng” [11, tr 23-26]. Hơn nữa, lý do chấm dứt doanh nghiệp cũng gắn với tư duy lợi ích của nhà đầu tư. PGS,TS. Phạm Duy Nghĩa đã nói đến một trong những chủ đích lớn của Luật Doanh nghiệp là “giảm chi phí gia nhập thị trường”. Vấn đề đặt ra là, người dân có quyền hành động theo ý muốn với chi phí thấp và không xâm phạm đến lợi ích công, lợi ích của người thứ ba hay Nhà nước có quyền ngăn cản mọi hành động của người dân một cách phi lý. Tuy nhiên, đôi khi 15
  22. Nhà nước vẫn ngăn cản hành động của người dân một cách phi lý và theo đó, người dân phải lựa chọn hành động với chi phí cao. Trường hợp dưới đây là một minh chứng: Công ty hợp danh A là chủ sở hữu một thương hiệu nổi tiếng thế giới trị giá hàng tỷ USD. Với quy mô, lĩnh vực hoạt động hiện tại và khả năng tài chính họ muốn chuyển đổi thành công ty cổ phần để thực hiện các dự án đầu tư trong các lĩnh vực khác mà vẫn giữ được thương hiệu, hệ thống khách hàng, nhân sự Họ phải làm thế nào, phải tốn kém tiền bạc và thời gian như thế nào để đạt được mục đích khi quốc gia mà công ty mang quốc tịch không cho phép chuyển đổi từ công ty trách nhiệm vô hạn thành công ty cổ phần? Để đạt được mục đích, các thành viên cùng nhau thành lập một công ty cổ phần; thanh toán tất cả các khoản nợ (nếu có); công ty hợp danh, bằng hợp đồng chuyển nhượng thương hiệu, hệ thống khách hàng, các tài sản khác của mình cho công ty cổ phần; giải quyết vấn đề về nhân sự; chuyển giao các quyền yêu cầu phát sinh từ các giao dịch đã giao kết và sau cùng giải thể công ty hợp danh. Quá trình thực hiện các thủ tục này tốn rất nhiều thời gian, công sức và chi phí như các khoản thuế phát sinh từ việc chuyển nhượng tài sản, đăng ký lại tài sản, chi phí tư vấn đặc biệt là các khoản thuế Trong khi đó, nếu cho phép chuyển đổi thì chi phí rất thấp, không mất nhiều thời gian Như vậy, việc cản trở các nhà đầu tư hành động mà không vì lý do chính đáng từ phía cộng đồng hoặc từ phía tha nhân sẽ làm cho Nhà nước kém hiệu quả - với chi phí lớn phát sinh từ việc áp dụng các quy phạm pháp luật thì hiệu quả cao sẽ không thể đạt được. Như vậy, trong mọi trường hợp, Nhà nước nên tạo điều kiện cho các chủ thể kinh doanh hành động theo ý muốn của họ, nếu hành động đó không ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của cộng đồng hoặc của tha nhân. 16