Luận văn Căng thẳng tâm lý của công nhân giàn khoan Tam Đảo 05

pdf 154 trang vuhoa 25/08/2022 5940
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Căng thẳng tâm lý của công nhân giàn khoan Tam Đảo 05", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_cang_thang_tam_ly_cua_cong_nhan_gian_khoan_tam_dao.pdf

Nội dung text: Luận văn Căng thẳng tâm lý của công nhân giàn khoan Tam Đảo 05

  1. H Ọ VIỆN HÀN LÂM VÀ TÊN TÁC GI VÀTÊN TÁC KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI Ả LU Ậ N N VĂN CHUYÊN NGÀNH CHUYÊN VĂN ĐINH THỊ KHÁNH TRANG CĂNG THẲNG TÂM LÝ CỦA CÔNG NHÂN GIÀN KHOAN TAM ĐẢO 05 LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC KHÓA HÀ NỘI, năm 2016
  2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ĐINH THỊ KHÁNH TRANG CĂNG THẲNG TÂM LÝ CỦA CÔNG NHÂN GIÀN KHOAN TAM ĐẢO 05 Chuyên ngành: Tâm lý học Mã số: 60.31.04.01 LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. ĐẶNG THỊ LAN HÀ NỘI, năm 2016
  3. LỜI CẢM ƠN Bằng sự kính trọng và lòng biết ơn chân thành, em xin gửi lời biết ơn sâu sắc đến cô TS. Đặng Thị Lan - Ngƣời đã chỉ bảo, hƣớng dẫn em một cách tận tâm, chu đáo giúp em hoàn thành luận văn. Em cũng xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến các Thầy Cô giáo khoa Tâm lý học và Ban lãnh đạo Học viện Khoa học Xã hội đã hết sức tạo điều kiện để em có thể học tập và nghiên cứu. Xin cảm ơn gia đình, anh chị đồng nghiệp, bạn bè đã luôn ủng hộ và giúp đỡ mọi mặt để tôi hoàn thành luận văn. Do thời gian và khả năng nghiên cứu của bản thân còn có hạn nên luận văn không tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Tôi mong sẽ nhận đƣợc những ý kiến đóng góp quý báu của quý thầy cô và các bạn đồng nghiệp để luận văn đƣợc hoàn chỉnh hơn. Xin chân thành cảm ơn! Học viên Đinh Thị Khánh Trang
  4. MỤC LỤC MỞ ĐẦU Trang 1. Tính cấp thiết của đề tài 1 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu vấn đề 2 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 12 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 12 5. Giả thuyết khoa học 13 6. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu 13 7. Bố cục của luận văn 14 Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CĂNG THẲNG TÂM LÝ CỦA 15 CÔNG NHÂN LÀM VIỆC TẠI GIÀN KHOAN 1.1. Căng thẳng tâm lý 15 1.2. Công nhân giàn khoan 19 1.3. Căng thẳng tâm lý của công nhân giàn khoan 24 Chƣơng 2: TỔ CHỨC VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 33 2.1. Tổ chức nghiên cứu 33 2.2. Phƣơng pháp nghiên cứu 36 Chƣơng 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THỰC TIỄN CĂNG THẲNG 42 TÂM LÝ CỦA CÔNG NHÂN LÀM VIỆC TẠI GIÀN KHOAN TAM ĐẢO 05 3.1. Thực trạng căng thẳng tâm lý của công nhân làm việc tại giàn 42 khoan Tam Đảo 05 3.2. Các yếu tố ảnh hƣởng đến căng thẳng tâm lý của công nhân 58 làm việc tại giàn khoan Tam Đảo 05 3.3. Biện pháp ứng phó với căng thẳng tâm lý của công nhân làm 64 việc tại giàn khoan Tam Đảo 05 (qua đánh giá của công nhân làm việc tại giàn khoan) KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 75 TÀI LIỆU THAM KHẢO 78 PHỤ LỤC
  5. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT Chữ viết tắt Chữ viết đầy đủ CN Công nhân CTTL Căng thẳng tâm lý ĐLC Độ lệch chuẩn ĐTB Điểm trung bình NXB Nhà xuất bản THPT Trung học phổ thông
  6. DANH MỤC CÁC BẢNG Trang Bảng 2.1 Số lƣợng CN giàn khoan đƣợc điều tra theo trình độ đào tạo 34 Bảng 2.2 Số lƣợng CN giàn khoan đƣợc điều tra theo tổ làm việc 34 Bảng 2.3 Số lƣợng CN giàn khoan đƣợc điều tra theo tình trạng hôn 34 nhân Bảng 3.1 Hiểu biết về CTTL của CN làm việc tại giàn khoan Tam Đảo 42 05 Bảng 3.2 Nguồn cung cấp kiến thức về căng thẳng tâm lý 42 Bảng 3.3 Tần suất bị CTTL của CN giàn khoan Tam Đảo 05 (1≤ X ≤3) 43 Bảng 3.4 Tổng hợp mức độ biểu hiện CTTL của CN giàn khoan Tam 44 Đảo 05 (1≤ ≤3) Bảng 3.5 Biểu hiện CTTL về mặt sinh lý của CN giàn khoan Tam Đảo 45 05 (1≤ ≤3) Bảng 3.6 Biểu hiện CTTL về mặt nhận thức của CN giàn khoan Tam 47 Đảo 05 (1≤ ≤3) Bảng 3.7 Biểu hiện CTTL về mặt cảm xúc của CN giàn khoan Tam 48 Đảo 05 (1≤ ≤3) Bảng 3.8 Biểu hiện CTTL về mặt hành vi của CN giàn khoan Tam Đảo 49 05 (1≤ ≤3) Bảng 3.9 Biểu hiện CTTL của CN giàn khoan Tam Đảo 05 theo tổ làm 51 việc (1≤ ≤3) Bảng 3.10 Biểu hiện CTTL của CN giàn khoan Tam Đảo 05 theo tình 53 trạng hôn nhân (1≤ ≤3) Bảng 3.11 Biểu hiện CTTL của CN giàn khoan Tam Đảo 05 xét theo 56 trình độ đào tạo (1≤ ≤3) Bảng 3.12 Thứ bậc các nhóm yếu tố ảnh hƣởng đến CTTL của CN làm 63
  7. việc tại giàn khoan Tam Đảo 05 (1≤ X ≤3) Bảng 3.13 Tần suất lựa chọn biện pháp ứng phó với căng thẳng tâm lý bằng 64 điều chỉnh nhận thức (1≤ ≤3) Bảng 3.14 Tần suất lựa chọn biện pháp ứng phó với căng thẳng tâm lý bằng 65 điều chỉnh lối sống và hoạt động (1≤ ≤3) Bảng 3.15 Tần suất lựa chọn biện pháp ứng phó với căng thẳng tâm lý bằng 66 tìm đến các hoạt động phong phú đa dạng (1≤ ≤3) Bảng 3.16 Tần suất lựa chọn biện pháp ứng phó với căng thẳng tâm lý bằng 67 tìm kiếm sự hỗ trợ (1≤ ≤3) Bảng 3.17 Tần suất lựa chọn các biện pháp khác để ứng phó với CTTL 68 Bảng 3.18 Thứ bậc lựa chọn các nhóm biện pháp ứng phó với căng thẳng 69 tâm lý của CN làm việc tại giàn khoan Tam Đảo 05 (1≤ ≤3) Bảng 3.19 Tổng hợp mức độ biểu hiện CTTL của Nguyễn Hữu T. 70 Bảng 3.20 Tổng hợp mức độ biểu hiện CTTL của anh Lƣơng Thanh T. 72
  8. DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ Trang Biểu đồ 3.1 Biểu hiện CTTL của CN giàn khoan Tam Đảo 05 theo tổ 53 làm việc Biểu đồ 3.2 Biểu hiện CTTL của CN giàn khoan Tam Đảo 05 theo tình 55 trạng hôn nhân Biểu đồ 3.3 Biểu hiện CTTL của CN giàn khoan Tam đảo 05 theo trình 57 độ đào tạo
  9. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Lịch sử loài ngƣời đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển khác nhau, ở mỗi giai đoạn phát triển, con ngƣời đều phải đối mặt với rất nhiều vấn đề khó khăn, phức tạp nảy sinh trong cuộc sống, do đó con ngƣời đều có nguy cơ bị căng thẳng tâm lý. Xã hội càng hiện đại, nhịp sống ngày càng khẩn trƣơng, gấp gáp và đặt ra yêu cầu cao hơn ở con ngƣời, nhƣ Alvin Toffler đã chỉ ra rằng những biến động xã hội mạnh mẽ mau lẹ và liên tục là những tác nhân gây căng thẳng tâm lý thời hiện đại [dẫn theo 17; tr.232]. Khi xã hội có nhiều thay đổi, con ngƣời phải trải nghiệm nhiều sức ép nếu bản thân không kiềm chế đƣợc thay đổi hoặc bị thay đổi áp đặt từ bên ngoài, một khi cá nhân cảm thấy mất khả năng kiềm chế và mất khả năng đoán trƣớc đƣợc các sự kiện thì sẽ gây ra căng thẳng và khi những sự thay đổi diễn ra với tốc độ quá nhanh cũng sẽ làm cho con ngƣời cảm thấy bối rối vì nó vƣợt quá năng lực thích ứng của bản thân [dẫn theo 17; tr.238]. Nƣớc ta đang trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa xã hội còn rất nhiều khó khăn và phức tạp nên con ngƣời luôn đứng trƣớc nguy cơ căng thẳng tâm lý. Có thể nói, trong giai đoạn chú trọng phát triển công nghiệp nhƣ hiện nay thì CN là một lực lƣợng lao động rất quan trọng góp phần vào việc thúc đẩy nền kinh tế và xã hội phát triển. Tuy nhiên, căng thẳng tâm lý trong việc làm là vấn đề mà hầu hết mọi CN đều vƣớng mắc không nhiều thì ít. Thống kê của hãng bảo hiểm Northwestern National Life cho thấy có tới 40% CN than phiền bị căng thẳng tâm lý trong công việc. Kết quả theo dõi của đại học Yale cho hay 29 % CN bị căng thẳng tâm lý khá nặng vì công việc. Thực tế cho thấy rằng đời sống CN đang gặp rất nhiều khó khăn, thiếu thốn cả về vật chất lẫn tinh thần. Đặc biệt, những CN làm việc tại các giàn khoan thì khó khăn lại dƣờng nhƣ gấp đôi. Họ thƣờng xuyên phải đối đầu với nắng gió đại dƣơng, thời tiết khắc nghiệt và nhiều nguy cơ tiềm ẩn. CN làm việc tại giàn khoan đƣợc đánh giá là một trong những nghề nguy hiểm hàng đầu thế giới. Chính những khó khăn nguy hiểm ấy lại càng làm cho CN làm việc tại giàn khoan có nguy cơ căng thẳng tâm lý cao hơn, họ không chỉ có nguy cơ căng 1
  10. thẳng tâm lý trong công việc mà cả những áp lực, thách thức, khó khăn do cuộc sống thời đại mang lại. Khi rơi vào tình trạng căng thẳng tâm lý và không biết cách ứng phó sẽ ảnh hƣởng rất nhiều đến hiệu quả lao động của CN từ đó gây thiệt hại lớn cho nền kinh tế. Do đó, việc quan tâm đến đời sống tinh thần của CN, đặc biệt là tình trạng căng thẳng tâm lý của CN giàn khoan hiện nay là một việc làm rất cần thiết của doanh nghiệp nói riêng và của xã hội nói chung. Căng thẳng tâm lý đang ngày càng phổ biến trong xã hội nên trong những năm gần đây đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này ở nhiều lĩnh vực khác nhau, trong đó có ngành tâm lý học. Các nhà tâm lý học cũng đã bắt đầu nghiên cứu về căng thẳng tâm lý trong lĩnh vực lao động, kỹ thuật, quản lý, căng thẳng tâm lý ở từng lứa tuổi. Một số đề tài luận văn cao học tâm lý học cũng đã bắt đầu nghiên cứu căng thẳng tâm lý ở tuổi trung niên, căng thẳng tâm lý ở học sinh, sinh viên, căng thẳng tâm lý ở ngƣời trƣởng thành và một vài khóa luận tốt nghiệp đã bƣớc dầu nghiên cứu về căng thẳng tâm lý nghề nghiệp ở CN nhƣng riêng đối với vấn đề căng thẳng tâm lý của CN giàn khoan là một vấn đề chƣa đƣợc nghiên cứu sâu ở một công trình nghiên cứu khoa học nào. Cho nên việc nghiên cứu những vấn đề tâm lý trên khách thể này là một hƣớng đi mới và rất cần thiết, góp phần làm phong phú thêm nội dung nghiên cứu trong chuyên ngành tâm lý học nƣớc ta và trên cơ sở đó mang lại những lợi ích thiết thực cho CN giàn khoan về mặt đời sống tinh thần. Với những lý do đã trình bày, chúng tôi chọn vấn đề “ Căng thẳng tâm lý của công nhân làm việc tại giàn khoan Tam Đảo 05” làm đề tài nghiên cứu. 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu vấn đề 2.1. Ở nước ngoài - Nghi n cứu căng thẳng t g c độ sức khỏe tinh thần (cảm xúc và bệnh tật) Những thập kỷ đầu của thế kỷ XX, nhiều nghiên cứu quan tâm đến vai tr của tâm trí đối với những bệnh liên quan đến cơ thể và “xung đột bên trong” là cơ sở của bệnh tinh thần [48]. Bên cạnh đó lại có quan điểm cho rằng mối quan hệ của con ngƣời với những ngƣời xung quanh và môi trƣờng họ đang sống là nguyên nhân quan trọng gây ra bệnh [38]. 2
  11. Năm 1927, trong tác phẩm “Sự khôn ngoan của cơ thể”, W. Canon cho rằng nếu con ngƣời có hiểu biết về sự khôn ngoan của cơ thể, họ sẽ làm chủ đƣợc bệnh tật và đau khổ để làm giảm gánh nặng nhân loại [31]. Trong những nghiên cứu của mình, W. Canon nhận thấy có một trình tự linh hoạt đƣợc khởi phát trong các dây thần kinh và các tuyến nội tiết nhằm chuẩn bị để có thể “chống lại hoặc bỏ chạy” để bảo toàn tính mạng trƣớc sự đe dọa của ngoại cảnh. W. Cannon quan tâm nhiều đến mối quan hệ giữa nội cân bằng sinh học và nội cân bằng xã hội. Tác giả đặt ra giả thuyết liệu có hay không có nguyên tắc chung về sự ổn định đƣợc áp dụng trên toàn xã hội và liệu có thể đƣợc sử dụng để khám phá cơ cấu về mặt tổ chức khác nhƣ trong công nghiệp, trong một nƣớc hoặc một xã hội, giống nhƣ cơ thể, vận hành chống lại mối đe dọa từ bên ngoài [31]. W. Canon đƣa ra khái niệm nội cân bằng, cùng với các phản ứng chống lại hoặc chạy trốn là nhấn mạnh đến bảo toàn môi trƣờng bên trong bằng việc đƣa ra những điều chỉnh đền bù của cơ thể. Đối với nhiều nhà nghiên cứu sau này, họ quan tâm nhiều đến thời điểm bắt đầu xảy ra căng thẳng. Có ý kiến cho rằng nội cân bằng tốt nhất đƣợc hiểu trong điều kiện tƣơng đối, đó là, sự cân bằng trong bất kỳ môi trƣờng nhất định có thể đƣợc đánh giá cao nếu chúng ta xem nó cân bằng với các môi trƣờng khác [41]. Có thể thấy các nghiên cứu của W. Canon xuất phát từ những thay đổi về mặt sinh lý của cơ thể khi cơ thể đối mặt với những khó khăn mà ít quan tâm đến sự thay đổi về mặt tâm lý của mỗi cá nhân. Cũng theo hƣớng nghiên cứu này, H. Selye-ngƣời Canada đã nghiên cứu các ảnh hƣởng của căng thẳng ở mức độ nặng tác động liên tục lên cơ thể. Ông mô tả căng thẳng theo thuật ngữ “hội chứng thích nghi chung” qua ba giai đoạn là báo động, kháng cự và kiệt sức [45]. Nghiên cứu của H. Selye giúp chúng ta hiểu đƣợc tác động ngắn hạn của những sự kiện gây ra căng thẳng và những ảnh hƣởng của căng thẳng một cách đồng bộ lên con ngƣời. H. Selye đã chỉ ra rằng, khi các tác nhân gây ra căng thẳng tác động vào cơ thể thì chúng ta đều có những phản ứng đáp trả. Nếu ngƣời đó có cách ứng phó tích cực, họ có thể vƣợt qua và thích nghi dễ dàng. Ngƣợc lại, cá nhân có thể rơi vào tình trạng căng thẳng bệnh lý. Theo ông, 3
  12. không phải tất cả các loại căng thẳng đều có hại, nhƣng khi nói về căng thẳng ngƣời ta nghĩ ngay đến căng thẳng tiêu cực. Công trình nghiên cứu của ông đƣợc đƣợc tiếp tục nghiên cứu tại đại học Selye-Toffler để xem những thách thức của xã hội hiện đại ảnh hƣởng nhƣ thế nào đến đời sống con ngƣời. Mặc dù những nghiên cứu đã đƣa ra mô hình “hội chứng thích nghi chung” bị chi phối và thiên nhiều về các yếu tố sinh lý hơn là tâm lý, tuy nhiên nó vẫn là cơ sở cho việc tìm hiểu căng thẳng. Tóm lại, các tác giả nghiên cứu theo hƣớng này chủ yếu tập trung vào những phản ứng về mặt sức khỏe tinh thần, thể hiện sự thích ứng khi bị căng thẳng. Các nghiên cứu đã chỉ ra những triệu chứng bệnh về tâm lý khi bị căng thẳng. Cách tiếp cận này đã bỏ qua các yếu tố tâm lý cá nhân khi cá nhân bị căng thẳng. - Nghi n cứu căng thẳng t kh a cạnh t m hội Nhà tâm lý học, tâm thần học ngƣời Mỹ A. Meyer (1866-1950) đã đề xuất biểu đồ đời ngƣời làm công cụ chẩn đoán y khoa với việc thiết lập một thƣ mục các biến cố của đời sống nhƣ: chuyển chỗ ở, có ngƣời thân mất, thành công và thất bại trong công việc [43]. Nghiên cứu này của ông đã định hƣớng cho sự phát triển công cụ đo lƣờng những biến cố cuộc đời và căng thẳng. Kế tục sự nghiệp của A. Meyer, để ƣớc lƣợng tỉ lệ tiêu hao sức khỏe do căng thẳng gây ra, hai nhà nghiên cứu ngƣời Mỹ là T.H. Holmes và R.H. Rahe cùng cộng sự (1967) đã xây dựng “Thang đo các sự kiện trong cuộc sống” gồm 43 biến cố của đời sống thuộc về các lĩnh vực nhƣ gia đình, cá nhân, việc làm, tài chính [39]. Mỗi sự kiện đều đƣợc ấn định một số điểm cố định, tiêu biểu cho số lƣợng đơn vị thay đổi đời sống. Điểm cao nhất là 100 cho biến số qua đời của ngƣời thân trong gia đình, điểm trung bình 50 là cho hôn nhân, thấp nhất là 11 điểm cho lỗi vi phạm nhắc nhở về pháp luật. Sau khi nghiên cứu, thực nghiệm bằng nhiều cách khác nhau, T.H. Holmes đã đi đến kết luận: các biến cố cuộc sống có liên quan đến nguyên nhân gây ra bệnh tật, thời điểm xuất hiện và mức độ trầm trọng của nó. Tuy nhiên, thang đo này vẫn còn một vài nhƣợc điểm nhƣ: chỉ thích hợp với một nhóm dân cƣ đặc biệt và không kể đến sự khác biệt nhân cách khi ứng phó với căng thẳng [39]. 4
  13. Cũng xuất phát từ nghiên cứu thang đo này mà năm 1979, S.C. Kobasa đã nghiên cứu và đƣa ra giả thuyết: nhân cách có lẽ là một biến số điều hòa giữa các biến cố đời sống và sự xuất hiện bệnh. Để chứng minh giả thuyết, S.C. Kobasa đã nghiên cứu trên mẫu gồm nhiều những cán bộ trung và cao cấp, nam giới, tuổi từ 40-49. Tất cả đều có chỉ số đơn vị thay đổi đời sống rất cao theo thang đo của T.H. Holmes. Ông đƣa thêm vào 6 biến cố liên quan đến nhân cách: 3 biến cố liên quan đến sự tự chủ, 1 biến cố đo lƣờng sự xa lánh và 2 biến cố đo lƣờng sự thách thức. Kết quả cho thấy những cá nhân khỏe mạnh nghĩ rằng họ làm chủ đƣợc môi trƣờng quanh họ, ít cảm thấy bị xa lánh và thích đƣợc thử thách hơn. Năm 1982, hai nhà nghiên cứu là Elliot Aronson và Eisendorfer tập trung nghiên cứu những đặc điểm của kích thích, sự khác biệt của các loại tác nhân gây căng thẳng mà có thể thách thức thay đổi của cơ thể. Hai tác giả này cũng tập trung làm rõ hậu quả của căng thẳng. Hậu quả của căng thẳng đƣợc xem là những tác nhân gây căng thẳng kéo dài và gây thách thức lâu dài với cá nhân. Khác với các nhà khoa học khác, các nhà khoa học nhƣ Caroline Bedell Thomas, Flager Beach và sau này R. Lazarus và S. Folkman nghiên cứu căng thẳng và cho rằng yếu tố chủ quan là yếu tố quan trọng quyết định phản ứng của cá nhân. Điều này đƣợc lý giải là khi cá nhân đánh giá chủ quan về các tác nhân gây căng thẳng và các phƣơng tiện để đƣơng đầu với căng thẳng là yếu tố quan trọng nhất. Có thể nói, những nghiên cứu về căng thẳng dƣới góc độ tâm lý học, xã hội học đã mở rộng quan niệm của chúng ta về cả bản chất, nguyên nhân cũng nhƣ chỉ ra ảnh hƣởng của căng thẳng tới đời sống và sức khỏe của con ngƣời. Các nghiên cứu về căng thẳng đƣợc quan tâm nghiên cứu nhiều là: + Những nhân tố ảnh hƣởng tới cách thức ứng phó với căng thẳng: mô tả và phân biệt giữa căng thẳng và tác nhân gây căng thẳng; ảnh hƣởng của nhận thức cá nhân với việc thích ứng với tác nhân gây căng thẳng; những yếu tố bên trong và bên ngoài làm giảm nhẹ tác dụng thích ứng căng thẳng; cơ chế đối phó làm giảm căng thẳng. 5
  14. + Các chức năng đáp ứng với căng thẳng: mô tả sự thích ứng căng thẳng trên hệ thống cơ thể, mối liên hệ giữa những nhân tố làm giảm căng thẳng và thích ứng sinh lý, sự khác biệt hệ thống miễn dịch giữa ngƣời lớn và trẻ em. + Thích ứng tâm lý với căng thẳng: nhận biết nguyên nhân gây căng thẳng; nguyên nhân và cá tính của căng thẳng sau sang chấn; tƣơng quan giữa kiểu nhân cách và sự thích ứng căng thẳng; phân tích các loại kế hoạch đối phó, lựa chọn hệ thống phòng thủ; những hành vi thích ứng không hiệu quả - Nghiên cứu căng thẳng học sinh Các nghiên cứu về căng thẳng trên học sinh đƣợc tiến hành theo 2 hƣớng: + Hƣớng nghiên cứu thứ nhất tập trung làm rõ các tác nhân gây căng thẳng của học sinh trung học phổ thông. Lena Hoglund Isakson và Kerry Jarvis (1999) cho rằng học sinh hàng ngày phải đối mặt với những tác nhân gây căng thẳng bình thƣờng và những tác nhân gây căng thẳng không bình thƣờng. Theo hai tác giả này, những tác nhân gây căng thẳng bình thƣờng bao gồm những thay đổi do phát triển của trẻ vị thành niên nhƣ dậy thì, chuyển trƣờng, gia tăng áp lực học tập. Những tác nhân gây căng thẳng không bình thƣờng có thể đến từ những tình huống bất ngờ nhƣ động đất, sóng thần Theo B.E. Compas (1997) và H. Sim (2000) cho rằng căng thẳng của học sinh đến từ những sự kiện trong cuộc sống hàng ngày nhƣ cha mẹ ly dị, ngƣời thân mất cũng nhƣ những rắc rối lặp đi lặp lại hàng ngày nhƣ mâu thuẫn giữa cha mẹ - con cái, các yêu cầu trong học tập, cãi nhau với bạn bè . Khi các yếu tố này kết hợp với nhau chúng trở thành chỉ báo quan trọng dự báo đời sống tâm lý của học sinh [32], [46]. Nghiên cứu của Donn Byrne, Sally Davenport và Dmitri Masanov (2007) đã đƣa ra 10 khía cạnh của các nguồn gây căng thẳng bao gồm 58 items. Bốn trong số 10 khía cạnh liên quan đến học tập; các khía cạnh khác phản ánh những căng thẳng liên quan đến mối quan hệ giữa các cá nhân, đời sống gia đình, áp lực tài chính, không chắc chắn về tƣơng lai và xuất hiện trách nhiệm của ngƣời lớn. 6
  15. Một số các tác giả khác nhƣ Crystal Palace và cộng sự (1994); De Anda và cộng sự (2000); Brenda Lohman và Kerry Jarvis (2000), khi nghiên cứu căng thẳng ở học sinh, họ quan tâm nhiều đến tác nhân liên quan đến học tập. Những vấn đề mà học sinh phải đối mặt với các vấn đề liên quan đến học tập nhƣ làm bài kiểm tra, điểm, làm bài tập ở nhà, những kỳ vọng đạt thành tích cao đây chính là các nguồn gây căng thẳng lớn nhất cho học sinh. Các loại yếu tố gây căng thẳng liên quan đến trƣờng học bao gồm thành tích học tập, tham gia các hoạt động, tƣơng tác với các giáo viên và cân bằng thời gian giải trí ở nhà trƣờng (al Byrne và cộng sự năm 2007). Trƣớc đó trong bảng kiểm các yếu tố gây căng thẳng liên quan đến trƣờng học có 9 loại, bao gồm cả phƣơng pháp giảng dạy không thích hợp, các mối quan hệ giữa giáo viên-học sinh, khối lƣợng học quá tải, môi trƣờng lớp học nghèo nàn và không sắp xếp thời gian hoàn thành các bài luận và thời gian học hợp lý (Hanry Burnett và Simon Fanshawe, 1997). Một trong những căng thẳng học tập cụ thể liên quan đến điểm bài kiểm tra đang khá phổ biến tại các trƣờng học ở Mỹ (McNamara, 2000). Điều này đặc biệt đúng đối với học sinh cuối cấp khi phải hoàn tất vào cuối khóa học, thi để lấy bằng tốt nghiệp phổ thông trung học. Nhiều học sinh muốn đạt đƣợc điểm thi tốt để có thể vào đƣợc các trƣờng đại học danh tiếng, đây chính là áp lực cho học sinh (Matthews, 2004). Các tác giả khác nhƣ Leif Nelson và Eric Lott (1990), Allen J.TR. và cộng sự (1994) lại quan tâm nhiều đến nguyên nhân gây ra căng thẳng cho trẻ vị thành niên trong mối quan hệ với gia đình nhƣ: những kỳ vọng không hợp lý của cha mẹ không thể trở thành sự thực, cằn nhằn, sự trì hoãn của cha mẹ, dập khuôn và không tôn trọng quan điểm của con cái (Leif Nelson và Eric Lott, 1990). Một trong những khó khăn mà trẻ vị thành niên nói đến là sự không s n sàng của cha mẹ trong việc chấp nhận những quan điểm của con. Tầm quan trọng của sự chấp nhận là thể hiện việc cha mẹ thừa nhận sự độc lập của học sinh, chấp nhận sự tự do về mặt tâm lý. Tự do về mặt tâm lý cho ph p học sinh biểu hiện quan điểm về gia đình và duy trì sự ổn định mối quan hệ thân thiết với cha mẹ. Tuy nhiên, tự do biểu hiện nhƣng không có nghĩa là tự do hành động [30]. Một số những khó chịu mà học sinh liệt kê ra trên 7
  16. đây vẫn thƣờng xuyên xảy ra, thậm chí ngay cả khi cha mẹ cho ph p con cái độc lập. Tác giả này cũng nhấn mạnh, dập khuôn là điểm làm cho mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái trở nên căng thẳng. + Hƣớng nghiên cứu thứ hai tập trung tìm hiểu ảnh hƣởng của căng thẳng tới học sinh trung học phổ thông Đối với học sinh trung học phổ thông, việc đối mặt với tác nhân gây căng thẳng và trạng thái căng thẳng là một điều bình thƣờng khi mà các em phải thích nghi với những yêu cầu học tập, các mối quan hệ với cha mẹ, thầy cô và bạn bè. Đặc biệt với các em lớp 12 phải đối mặt với việc lựa chọn nghề nghiệp trong tƣơng lai “Căng thẳng không luôn luôn có hại và tiêu cực, nó phụ thuộc vào việc chúng ta trải nghiệm n ” [dẫn theo 33]. Căng thẳng trong một thời gian ngắn với tính chất, cƣờng độ tác động vừa phải là một loại căng thẳng dƣơng tính có thể tạo nên sức mạnh tinh thần và thể chất tức thời. Loại căng thẳng này sẽ giúp lƣợng máu dồn đến các cơ bắp để làm các cơ bắp cứng lên, đồng thời cũng làm tăng nhịp tim và huyết áp trong hệ tuần hoàn. Nó có thể làm cho chủ thể cải thiện tƣ duy, trí nhớ, sáng tạo, năng động, hăng hái, hào hứng, nhận thức đƣợc những tác nhân gây căng thẳng và khả năng ứng phó của mình trƣớc căng thẳng. Nếu sự kiện hay mối nguy hiểm qua đi, cơ thể sẽ trở lại trạng thái bình thƣờng [33]. - Nghi n cứu căng thẳng t g c độ t m học ao động Các nghiên cứu từ góc độ này quan tâm nhiều đến khía cạnh sức khỏe tinh thần trong môi trƣờng lao động. Nói cách khác, góc độ nghiên cứu này tập trung nghiên cứu mối quan hệ giữa sức khỏe tinh thần và hiệu suất làm việc trong môi trƣờng lao động công nghiệp. Hƣớng nghiên cứu này đƣa ra hai khái niệm về căng thẳng đó là sự mệt mỏi và vệ sinh tinh thần. Hai khái niệm này đƣợc xem nhƣ là dấu hiệu thất bại của cá nhân trong việc thích nghi với cuộc sống hiện đại [29]. Theo T. Newton, bắt đầu từ thế kỷ này, muốn xây dựng lý thuyết căng thẳng phải tiến hành các nghiên cứu liên quan đến mệt mỏi [44; tr.23]. Thêm vào đó Hearnshaw L.S. lập luận rằng những nghiên cứu về sự mệt mỏi là tiền thân cho các lập luận về căng thẳng [36]. Bên cạnh đó, nghiên cứu về mệt mỏi là căn cứ cho khoa học quản lý bởi nó quan tâm đến hiệu 8
  17. suất làm việc và đƣa ra các yếu tố về mặt tâm lý đƣợc coi là ảnh hƣởng tới hiệu suất lao động [36]. Chiến tranh thế giới thứ nhất xảy ra, vấn đề sản xuất thời chiến đã thu hút các nhà nghiên cứu xã hội chú ý đến hiện tƣợng mệt mỏi. Các tác giả đã chứng minh có sự liên hệ giữa mệt mỏi và hiệu suất lao động. Theo các nhà tâm lý học, trạng thái mệt mỏi ảnh hƣởng không chỉ điều chỉnh ở phạm vi cá nhân, mà c n ảnh hƣởng trực tiếp đến sức khỏe của toàn xã hội. Mệt mỏi đã đƣợc coi là hiện tƣợng cả về tinh thần và sinh lý. Chiều cạnh tinh thần đƣợc mô tả là cảm giác mệt mỏi hoặc chán nản hoặc thần kinh mệt mỏi hoặc não mệt mỏi, đƣợc xem là kết quả do hao tổn năng lƣợng cơ bắp tạo ra [50]. Các vấn đề “vệ sinh tinh thần” cũng đƣợc căn cứ vào hiệu suất và hiệu quả làm việc công nghiệp. Trong đó, nhấn mạnh đến việc chẩn đoán và những khó khăn trong điều trị về mặt tinh thần của ngƣời quản lý, ngƣời lao động trƣớc khi họ gặp những vẫn đề lớn hơn và bất lực trƣớc những vấn đề này. Trọng tâm của phƣơng pháp này là các cá nhân trong xã hội sẽ “sử dụng hiệu quả” ý tƣởng điều chỉnh thông qua vệ sinh tinh thần [29]. Hai chủ đề cốt lõi của phong trào vệ sinh tinh thần là: tổ chức lại nơi làm việc để giảm thiểu các triệu chứng căng thẳng và ổn định tinh thần, nâng cao khả năng điều chỉnh của bản thân [48]. Thứ hai, liên quan tới sự điều chỉnh chƣa đúng của ngƣời lao động, chỉ những xáo trộn nhỏ về tinh thần của ngƣời lao động xuất hiện cũng có thể làm giảm hiệu quả công việc. Hiệu suất làm việc chỉ có thể đạt đƣợc khi ngƣời lao động đạt đƣợc sức khỏe tinh thần một cách tối đa. Việc tập trung vào sức khỏe tinh thần của ngƣời lao động đã sớm dẫn đến sự phát triển của khoa học nghiên cứu về lao động, thể chất và tinh thần của ngƣời lao động đƣợc kết hợp với thiết kế công cụ sản xuất một cách tối ƣu từ đó tạo ra năng suất và hiệu quả trong quá trình lao động. Nhƣ vậy, đối với ngƣời lao động đặc biệt là CN khi căng thẳng vƣợt quá khả năng ứng phó, ở mức độ nặng và kéo dài, sẽ ảnh hƣởng nghiêm trọng đến năng suất và hiệu quả trong quá trình lao động, gián đoạn khả năng tham gia và tăng khả năng lạm dụng chất kích thích, gây nghiện cũng nhƣ tiềm tàng các hành vi hủy hoại khác. 9
  18. Nhìn chung, nghiên cứu căng thẳng ở giai đoạn này khá phong phú về mặt nội dung liên quan đến nghề nghiệp nhƣ hiệu suất lao động, sức khỏe tinh thần và đa dạng về đối tƣợng nghiên cứu: nhà quản lý, ngƣời lao động, học sinh, sinh viên trong những bối cảnh khác nhau nhƣ nhà máy, gia đình, nhà trƣờng, công sở 2.2. Ở trong nước Vào những năm 60 của thế kỷ XX, giáo sƣ Tô Nhƣ Khuê cho rằng căng thẳng là một phản ứng không đặc hiệu xảy ra với hầu hết mọi ngƣời do các yếu tố có hại về tâm lý xuất hiện trong các tình huống mà con ngƣời cảm nhận một cách chủ quan là nó có thể gây ra bất lợi và rủi ro. Chính điều này gây ra những phản ứng tiêu cực của con ngƣời chứ không phải là do bản thân các kích thích. Quan niệm này của ông đề cập đến vai trò của yếu tố nhận thức. Những công trình nghiên cứu của ông và cộng sự trong giai đoạn 1967-1975 chủ yếu là phục vụ cho chiến tranh nhƣ tuyển dụng, huấn luyện nâng cao sức chiến đấu cho các chiến sĩ. Từ 1975 đến nay, những nghiên cứu của ông về căng thẳng và cách phòng chống căng thẳng đã đƣợc công bố trong đề tài cấp nhà nƣớc “Tìm hiểu tác dụng dƣỡng sinh của võ thuật”. Những năm 80 của thế kỷ XX, hai bác sĩ Phạm Ngọc Rao và Nguyễn Hữu Nghiêm biên soạn và xuất bản chuyên khảo “Căng thẳng trong thời đại văn minh”, đã khái quát lịch sử nghiên cứu căng thẳng và cảnh báo về những nguy cơ, hậu quả của căng thẳng có thể gây ra cho con ngƣời trong xã hội hiện đại. Sự phát triển công nghiệp cũng nhƣ xã hội cùng môi trƣờng ô nhiễm và những yếu tố nội tại trong cơ thể con ngƣời đã trở thành tác nhân gây căng thẳng [25]. Đặng Phƣơng Kiệt và Nguyễn Khắc Viện có nhiều nghiên cứu mang tính lý luận và thực tiễn về căng thẳng qua việc thăm khám lâm sàng và chữa trị cho trẻ em. Một số nghiên cứu của Đặng Phƣơng Kiệt nhƣ “Căng thẳng và đời sống” (1998), “Chung sống với căng thẳng” (2004), “Căng thẳng và sức khỏe” (2004) là sự kết hợp những tri thức khoa học cơ bản liên quan đến căng thẳng và những vấn đề cập nhật của đời sống con ngƣời Việt Nam. Một số nghiên cứu của Nguyễn Khắc Viện về biện pháp giải tỏa hoặc chế ngự căng thẳng đồng thời ông đƣa ra hàng loạt các căn bệnh thậm chí gây tổn thƣơng nặng, có thể dẫn tới cái chết xuất phát từ căn 10
  19. nguyên tâm lý-do căng thẳng gây ra mà cách chữa trị chủ yếu là tác động tới tinh thần của ngƣời bệnh. Dƣới đây chúng tôi xin đề cập đến một số nghiên cứu về căng thẳng: - Nghiên cứu căng thẳng của học sinh, sinh viên Phạm Thanh Bình (2005) nghiên cứu “Biểu hiện căng thẳng trong học tập môn toán của học sinh Trung học phổ thông Yên Mô Ninh Bình” cho thấy học sinh nữ có mức độ căng thẳng cao hơn học sinh nam và học sinh học lực khá có mức độ căng thẳng cao hơn so với học sinh lực học trung bình. Nghiên cứu cũng chỉ ra xu hƣớng mức độ căng thẳng tăng dần theo khối lớp [5]. Lại Thế Luyện (2006) nghiên cứu “Biểu hiện căng thẳng của sinh viên Đại học Sƣ Phạm Kỹ thuật thành phố Hồ Chí Minh” cho thấy sinh viên bị căng thẳng nặng có những dấu hiệu nhƣ n t mặt căng thẳng; không thể tập trung; lãng phí thời gian; trì hoãn học tập, kết quả học tập k m. Theo tác giả, nguyên nhân cơ bản gây ra căng thẳng ở sinh viên chủ yếu là do chƣơng trình học tập nặng và sức p của kỳ thi lớn. Nghiên cứu này đã chỉ ra tự điều chỉnh nhận thức là cách ứng phó đƣợc sinh viên thƣờng sử dụng để đối phó với căng thẳng trong học tập [19]. Nghiên cứu “Nguyên nhân dẫn đến căng thẳng trong học tập của sinh viên Đại học Quốc gia Hà Nội” của Nguyễn Hữu Thụ (2009) cho thấy phần lớn sinh viên Đại học Quốc gia Hà Nội bị căng thẳng ở mức nặng, trong đó có một số em bị căng thẳng ở mức độ tƣơng đối nặng. Có nhiều nguyên nhân gây ra căng thẳng cho sinh viên, đƣợc chia làm 3 nhóm: nguyên nhân về môi trƣờng học tập, nguyên nhân tâm lý và nguyên nhân liên quan đến khả năng ứng phó của sinh viên [27]. - Nghiên cứu căng thẳng của ngƣời lao động, ngƣời quản lý Nguyễn Thành Khải (2001) với luận án Tiến sỹ “Nghiên cứu căng thẳng ở các bộ phận quản lý” cho thấy phần lớn cán bộ quản lý bị căng thẳng và ở những mức độ khác nhau. Nguyên nhân gây ra căng thẳng của cán bộ quản lý là do công việc, mâu thuẫn trong các quan hệ, nội bộ mất đoàn kết [14]. Nguyễn Thu Hà và đồng nghiệp (2006) đã nghiên cứu “Điều tra căng thẳng nghề nghiệp của nhân viên y tế” và chỉ ra một số yếu tố từ môi trƣờng làm việc gây căng thẳng của nghề nghiệp là: công việc quá tải, cƣờng độ làm việc lớn, thời gian 11
  20. làm việc kéo dài, tính trách nhiệm trong công việc cao sự căng thẳng khi tiếp xúc với bệnh nhân và ngƣời nhà của họ [8]. Nguyễn Viết Lƣơng và đồng nghiệp (2006) đã nghiên cứu “Trạng thái căng thẳng của nhân viên vận hành ngành điện lực” và chỉ ra các triệu chứng biểu hiện căng thẳng của nhân viên: rối loạn thần kinh thực vật, giảm trí nhớ, tăng huyết áp; các yếu tố ảnh hƣởng đến căng thẳng: tiếng ồn, yêu cầu công việc cao, thiếu không khí trong sạch [20]. Tổng quan các nghiên cứu về căng thẳng tâm lý nói chung và căng thẳng tâm lý ở ngƣời lao động nói riêng, chúng tôi thấy nghiên cứu căng thẳng tâm lý trên CN Việt Nam chƣa đƣợc quan tâm nghiên cứu, đặc biệt chƣa có tác giả nào nghiên cứu về căng thẳng tâm lý của CN làm việc tại giàn khoan Tam Đảo 05. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn về căng thẳng tâm lý của CN làm việc tại giàn khoan Tam Đảo 05, từ đó đề xuất một số biện pháp thích hợp nhằm giúp CN làm việc tại giàn khoan giảm thiểu mức độ căng thẳng tâm lý. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Nghiên cứu cơ sở lí luận về căng thẳng tâm lý, căng thẳng tâm lý của CN làm việc tại giàn khoan, các yếu tố ảnh hƣởng đến căng thẳng tâm lý và biện pháp ứng phó với căng thẳng tâm lý của CN làm việc tại giàn khoan. - Khảo sát đánh giá thực trạng biểu hiện CTTL, các yếu tố ảnh hƣởng đến CTTL và tần xuất lựa chọn một số biện pháp ứng phó với CTTL của CN làm việc tại giàn khoan Tam Đảo 05. - Đề xuất biện pháp thích hợp giúp CN làm việc tại giàn khoan Tam Đảo 05 giảm thiểu CTTL góp phần nâng cao hiệu quả lao động. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Biểu hiện căng thẳng tâm lý của CN làm việc tại giàn khoan Tam Đảo 05. 4.2. Phạm vi nghiên cứu 12