Luận văn Các tội xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ theo luật hình sự Việt Nam

pdf 124 trang vuhoa 25/08/2022 8140
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Các tội xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ theo luật hình sự Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_cac_toi_xam_pham_trat_tu_an_toan_giao_thong_duong_b.pdf

Nội dung text: Luận văn Các tội xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ theo luật hình sự Việt Nam

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT BÙI QUANG TRUNG CÁC TỘI XÂM PHẠM TRẬT TỰ AN TOÀN GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2011
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT BÙI QUANG TRUNG CÁC TỘI XÂM PHẠM TRẬT TỰ AN TOÀN GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM Chuyên ngành : Luật hình sự Mã số : 60 38 40 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Hoàng Văn Hùng HÀ NỘI - 2011
  3. Mục lục Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các bảng Danh mục các biểu đồ Mở đầu 1 Chương 1: Quy định Của Pháp luật hình sự Việt Nam về 5 các tội xâm phạm trật tự an toàn GIAO Thông đường Bộ 1.1. Khái quát chung về các tội xâm phạm trật tự an toàn giao 5 thông đường Bộ 1.1.1. Khái niệm các tội xâm phạm trật tự an toàn giao thông 5 đường bộ 1.1.2. Các yếu tố cấu thành tội xâm phạm trật tự an toàn giao 15 thông đường bộ 1.1.2.1. Khách thể của các tội xâm phạm trật tự an toàn giao thông 15 đường bộ 1.1.2.2. Mặt khách quan của các tội xâm phạm trật tự an toàn giao 15 thông đường bộ 1.1.2.3. Mặt chủ quan của các tội xâm phạm trật tự an toàn giao 17 thông đường bộ 1.1.2.4. Chủ thể của các tội xâm phạm trật tự an toàn giao thông 17 đường bộ 1.2. Quy định của pháp luật hình sự về các tội xâm phạm trật tự 18 an toàn giao thông đường bộ 1.2.1. Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông 18 đường bộ
  4. 1.2.1.1. Khái niệm 18 1.2.1.2. Dấu hiệu pháp lý 25 1.2.1.3. Hình phạt 29 1.2.2. Tội "cản trở giao thông đường bộ" 34 1.2.2.1. Khái niệm 34 1.2.2.2. Dấu hiệu pháp lý 39 1.2.2.3. Hình phạt 42 1.2.3. Tội "đưa vào sử dụng các phương tiện giao thông đường bộ 45 không bảo đảm an toàn" 1.2.3.1. Khái niệm 45 1.2.3.2. Dấu hiệu pháp lý 50 1.2.3.3. Hình phạt 55 1.2.4. Tội điều động hoặc giao cho người không đủ điều kiện điều 59 khiển các phương tiện giao thông đường bộ 1.2.4.1. Khái niệm 59 1.2.4.2. Dấu hiệu pháp lý 61 1.2.4.3. Hình phạt 67 Chương 2: Thực tiễn xét xử các tội xâm phạm trật tự an 72 toàn giao thông đường bộ và vấn đề hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan đến việc xét xử các tội phạm này 2.1. Tình hình vi phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ và 72 thực tiễn xét xử các tội này những năm gần đây 2.1.1. Tình hình vi phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ 72 những năm gần đây 2.1.2. Tình hình xét xử các tội vi phạm trật tự an toàn giao thông 78 đường bộ những năm gần đây từ 2005 - 2009 2.1.3. Một số bất cập, vướng mắc trong thực tiễn xét xử các tội 81 xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ
  5. 2.1.3.1. Xác định nguyên nhân và lỗi trong các vụ tai nạn giao thông 81 đường bộ 2.1.3.2. Vấn đề xử lý đối với các trường hợp xe máy chuyên dùng gây 83 tai nạn hoặc phương tiện tham gia giao thông gây tai nạn ở những nơi không thuộc mạng lưới giao thông đường bộ 2.1.2.3. Vấn đề xác định thiệt hại (hậu quả) để truy cứu trách nhiệm 86 hình sự trong các vụ tai nạn giao thông đường bộ 2.1.3.4. Về tình tiết phạm tội trong tình trạng có sử dụng rượu, bia 90 mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá mức quy định hoặc có sử dụng các chất kích thích mạnh khác mà pháp luật cấm sử dụng 2.1.3.5. Việc xử lý đối với các hành vi giao cho người không có giấy 92 phép hoặc bằng lái xe điều khiển các phương tiện giao thông đường bộ 2.1.2.6. Về đường lối xử lý đối với bị cáo trong các vụ án giao thông 96 đường bộ 2.2. Hoàn thiện pháp luật hình sự về các tội xâm phạm trật tự an 99 toàn giao thông đường bộ 2.2.1. Về Điều 202 Bộ luật hình sự 99 2.2.2. Về khoản 2 Điều 37 nay là điểm d khoản 1 Điều 39 của 101 Luật Giao thông đường bộ 2.2.3. Về Điều 205 Bộ luật hình sự 101 2.2.4. Về Nghị quyết số 02/2003/NQ-HĐTP ngày 17/4/2003 của 103 Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự 2.2.5. Về các quy định pháp luật khác có liên quan đến việc xử lý 103 các vụ án giao thông đường bộ Kết luận 106 danh mục Tài liệu tham khảo 111
  6. Danh mục các bảng Số hiệu Tên bảng Trang bảng 2.1 Số liệu thống kê về các vụ án mà cấp sơ thảm thụ lý giải 76 quyết, trong đó có các vụ án xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ mà các Toà án đã xét xử sơ thẩm từ năm 2005 - 2009 trên toàn quốc 2.2 Tỷ lệ % số vụ án, bị cáo phạm tội nói chung với số vụ án, 76 bị cáo phạm các tội xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ nói riêng trong 5 năm từ 2005 đến 2009 2.3 Số liệu thống kê về kết quả xét xử sơ thẩm đối với các bị 78 cáo phạm các tội xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ những năm 2005 - 2009
  7. Danh mục các biểu đồ Số hiệu Tên biểu đồ Trang biểu đồ 2.1 Số vụ án về các tội xâm phạm trật tự an toàn giao thông 77 đường bộ trong tổng số vụ án phạm tội nói chung đã xét xử sơ thẩm từ năm 2005 - 2009 2.2 số bị cáo đã xét xử về các tội xâm phạm trật tự an toàn 77 giao thông đường bộ trong tổng số bị cáo phạm tội nói chung từ năm 2005 - 2009 2.3 Kết quả xét xử sơ thẩm đối với các bị cáo phạm các tội 79 xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ từ năm 2005 - 2009
  8. Mở đầu 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài Giao thông đường bộ luôn giữ một vị trí và vai trò vô cùng quan trọng đối với quá trình phát triển kinh tế - xã hội của bất kỳ một quốc gia nào. Trong những năm qua, mặc dù Đảng, Nhà nước cũng như chính quyền các cấp đã nỗ lực cố gắng và đề ra nhiều giải pháp để kiềm chế gia tăng, tiến tới giảm dần tai nạn giao thông và ùn tắc giao thông, nhưng tai nạn giao thông vẫn xảy ra nghiêm trọng ở mức cao, gây thiệt hại không nhỏ về tính mạng, sức khỏe và tài sản của người khác, trong đó đứng đầu là tai nạn giao thông đường bộ. Thực trạng tai nạn giao thông đường bộ đã trở thành vấn đề xã hội hết sức bức xúc và làm đau đầu các cơ quan chức năng, các nhà quản lý ở nước ta. Trước tình hình đó, Ban Bí thư Trung ương Đảng và Chớnh phủ đã ban hành Chỉ thị số 22-CT/TW ngày 22 tháng 4 năm 2003 "Về tăng cường sự lónh đạo của éảng đối với công tác bảo đảm trật tự, an toàn giao thông" và Nghị quyết số 32/2007/NQ-CP ngày 29 tháng 6 năm 2007 "Về một số giải phỏp cấp bỏch nhằm kiềm chế tai nạn giao thông và ựn tắc giao thụng". Nội dung các văn bản trên đã xác định rõ các chủ trương, giải pháp cơ bản, lâu dài và các biện pháp cấp bách nhằm kiềm chế việc gia tăng và từng bước đẩy lùi tai nạn giao thông, đồng thời yêu cầu các cấp ủy đảng, chớnh quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể các cấp, các ngành phải đặt nhiệm vụ bảo đảm trật tự an toàn giao thụng đường bộ là một trong những nhiệm vụ chớnh trị trọng tõm trong cụng tỏc lónh đạo, chỉ đạo, quản lý của mỡnh; phải tổ chức quỏn triệt, triển khai thực hiện nghiêm túc, đầy đủ, triệt để chỉ thị và nghị quyết này. Việc xử lý nghiêm minh các hành vi xâm phạm trật tự an toàn giao thông nói chung và xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ gây hậu quả nghiêm trọng nói riêng theo quy định của Bộ luật hình sự là một trong những nhiệm vụ 1
  9. quan trọng đặt ra đối với các cơ quan tiến hành tố tụng nhằm góp phần ngăn chặn và kiềm chế tai nạn giao thông. Thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự về các tội xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ trong những năm qua cho thấy mặc dù đã được sửa đổi bổ sung và có văn bản hướng dẫn của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhưng trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử các vụ án này, các Cơ quan tiến hành tố tụng vẫn thường gặp những vướng mắc, lúng túng trong việc xác định tội danh; áp dụng các tình tiết định khung tăng nặng hình phạt; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đường lối xử lý cụ thể ; đối với các hành vi xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ. Nguyên nhân của tình trạng này một phần do các quy định của pháp luật hiện hành về các tội phạm này (Bộ luật hình sự, Luật Giao thông đường bộ, Nghị định của Chính phủ) đã bộc lộ nhiều điểm không còn phù hợp với thực tiễn. Mặt khác, các văn bản hướng dẫn của các cơ quan có thẩm quyền về áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự cũng chưa đầy đủ, cụ thể và rõ ràng dẫn đến sự nhận thức và áp dụng không thống nhất trong thực tiễn giữa các cơ quan tiến hành tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết các vụ án. Vì vậy, việc nghiên cứu nhằm làm sáng tỏ về mặt lý luận các tội xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ, đồng thời tìm ra những bất cập, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật hiện hành về các tội xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ và nguyên nhân, trên cơ sở đó đưa ra các kiến nghị và giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật hiện hành có ý nghĩa rất quan trọng cả về lý luận cũng như thực tiễn. Đây chính là lý do mà tôi lựa chọn "Các tội xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ theo luật hình sự Việt Nam " làm đề tài nghiên cứu. 2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn Mục đích của luận văn là nghiên cứu làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về các tội vi phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ trong luật hình sự 2
  10. Việt Nam, thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử các tội phạm này và những bất cập, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng quy định của Bộ luật hình sự hiện hành trong quá trình xử lý các hành vi xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ. Trên cơ sở đó đề xuất một số kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật hiện hành về các tội phạm này. Với mục đích trên, luận văn có các nhiệm vụ nghiên cứu sau đây: - Làm sáng tỏ khái niệm và dấu hiệu pháp lý của các tội xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ, trách nhiệm hình sự của người phạm tội, quá trình phát triển của pháp luật hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến nay quy định về các tội xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ; - Phân tích các quy định của Bộ luật hình sự và các văn bản hướng dẫn của cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhằm làm sáng tỏ các dấu hiệu pháp lý của các tội cụ thể xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ; - Khái quát về tình hình vi phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ, tình hình tội phạm trong lĩnh vực giao thông đường bộ những năm gần đây và nguyên nhân của thực trạng đó. - Đánh giá về thực tiễn xét xử, những bất cập, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng quy định của Bộ luật hình sự hiện hành về các tội xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ và nguyên nhân của chúng. Trên cơ sở đó đề xuất một số kiến nghị và giải pháp nhằm hoàn thiện quy định pháp luật hiện hành về các tội xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ. 3. Phương pháp nghiên cứu Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về Nhà nước và pháp luật, về đấu tranh phòng chống tội phạm trong giai đoạn cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay. 3
  11. Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở kết hợp một số phương pháp nghiên cứu cụ thể như phương pháp hệ thống, so sánh, phân tích, tổng hợp, khảo sát thực tiễn, 4. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 2 chương: Chương 1: Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về các tội xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ Chương 2: Thực tiễn xét xử các tội xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ và vấn đề hoàn thiện các quy định pháp luật hình sự về các tội phạm này. 4
  12. Chương 1 Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về các tội xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ 1.1. khái quát chung về các tội xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ 1.1.1. Khái niệm các tội xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ Trong quá trình phát triển của lịch sử Việt Nam, khái niệm tội phạm lần đầu tiên được quy định chính thức trong Bộ luật hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được Quốc hội khóa VII, kỳ họp thứ 9 thông qua ngày 27 tháng 6 năm 1985 và có hiệu lực thi hành vào ngày 01 tháng 01 năm 1986, trên cơ sở hoàn thiện và kế thừa Bộ luật hình sự năm 1999 được Quốc hội khóa X, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 21 tháng 12 năm 1999 và có hiệu lực thi hành vào ngày 01 tháng 7 năm 2000 cho đến Bộ luật hình sự (được sửa đổi, bổ sung năm 2009) được Quốc hội khóa XII, kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 19 tháng 6 năm 2009 và có hiệu lực thi hành vào ngày 01 tháng 01 năm 2010, thì tội phạm được quy định tại Điều 8 Bộ luật hình sự: Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm trật tự khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa [16] 5
  13. Các tội xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ là những hành vi nguy hiểm cho xã hội, được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách vô ý, xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ, gây thiệt hại cho tính mạng, sức khỏe, tài sản của người khác. Khái niệm trên bao gồm dấu hiệu của các tội xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ, là cơ sở pháp lý để xem xét và xác định hành vi nào là tội xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ. Dấu hiệu cụ thể của tội xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ bao gồm: * Tội xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ trước hết phải là hành vi nguy hiểm cho xã hội Hành vi xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ nguy hiểm cho xã hội là hành vi vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho xã hội hoặc hành vi tạo khả năng gây ra các thiệt hại cho các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Các thiệt hại do hành vi vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây ra cho các quan hệ xã hội bao gồm: tính mạng, sức khỏe, tài sản của người khác. Do vậy, trường hợp vi phạm các quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho chính bản thân người vi phạm mà không gây thiệt hại cho tính mạng, sức khỏe, tài sản của người khác, thì không bị coi là tội phạm. Hành vi phạm tội xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ bao gồm hành động và không hành động. Hành động phạm tội xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ là làm một việc mà pháp luật hình sự cấm không được làm như: - Hành vi vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khỏe, tài sản của người khác trong trường hợp: gây tai nạn rồi bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm hoặc cố ý không cứu giúp người bị nạn, không chấp hành 6
  14. hiệu lệnh của người đang làm nhiệm vụ điều khiển hoặc hướng dẫn giao thông đường bộ. - Hành vi cản trở giao thông đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khỏe, tài sản của người khác trong các trường hợp: đào, khoan, xẻ trái phép các công trình giao thông đường bộ; đặt trái phép chướng ngại vật gây cản trở giao thông đường bộ; tháo dỡ, di chuyển trái phép, làm sai lệch, che khuất hoặc phá hủy biển báo hiệu, các thiết bị an toàn giao thông đường bộ; mở đường giao cắt trái phép qua đường bộ, đường có giải phân cách; lấn chiếm, chiếm dụng vỉa hè, lòng đường; lấn chiếm hành lang bảo vệ đường bộ. - Đưa vào sử dụng phương tiện giao thông đường bộ rõ ràng không đảm bảo an toàn về thông số kỹ thuật gây thiệt hại cho tính mạng hoặc thiệt hại nghiêm trọng cho sức khỏe, tài sản của người khác. - Điều động hoặc giao cho người không có giấy phép hoặc bằng lái xe hoặc không đủ các điều kiện khác theo quy định của pháp luật điều khiển các phương tiện giao thông đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khỏe, tài sản của người khác. Hành vi phạm tội xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ được thực hiện dưới dạng không hành động là trường hợp không làm một việc mà pháp luật bắt buộc phải làm như: - Hành vi vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khỏe, tài sản của người khác trong các trường hợp: không có giấy phép hoặc bằng lái xe theo quy định; trong khi say rượu hoặc say do dùng các chất kích thích mạnh khác (Bộ luật hình sự năm 1999), trong tình trạng có sử dụng rượu, bia mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá mức quy định hoặc có sử dụng các chất kích thích mạnh khác mà pháp luật cấm sử dụng (Bộ luật hình sự được sửa đổi bổ sung năm 2009); 7
  15. - Hành vi cản trở giao thông đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khỏe, tài sản của người khác trong các trường hợp: vi phạm quy định về bảo đảm an toàn giao thông khi thi công trên đường bộ; hành vi khác gây cản trở giao thông đường bộ. * Dấu hiệu thứ hai của tội xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ là "được quy định trong Bộ luật hình sự" Tại Điều 2 Bộ luật hình sự quy định: "Chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự". Do vậy, chỉ người nào phạm một trong các tội sau đây được quy định trong Bộ luật hình sự mới phải chịu trách nhiệm hình sự về các tội xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ: Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ (Điều 202); tội cản trở giao thông đường bộ (Điều 203); tội đưa vào sử dụng các phương tiện giao thông đường bộ không bảo đảm an toàn (Điều 204); tội điều động hoặc giao cho người không đủ điều kiện điều khiển các phương tiện giao thông đường bộ (Điều 2005). Tức là không thể có tội xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ nếu như hành vi phạm tội đó chưa được mô tả tại một điều luật cụ thể ở Phần các tội phạm của Bộ luật hình sự. * Dấu hiệu thứ ba của tội xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ là "tội phạm do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện" Người có năng lực trách nhiệm hình sự là con người cụ thể đạt độ tuổi do pháp luật hình sự quy định, có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình. Điều 12 Bộ luật hình sự quy định độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự như sau: "Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng". Năng lực trách nhiệm hình sự được Nhà nước ta quy định theo phương pháp loại trừ, tức là khẳng định tình trạng không có năng lực trách 8
  16. nhiệm hình sự là gì và nếu không phải là tình trạng đó, thì là tình trạng có năng lực trách nhiệm hình sự. Theo quy định tại Điều 13 Bộ luật hình sự, người thực hiện một hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình là người không có năng lực trách nhiệm hình sự. Họ không phải chịu trách nhiệm hình sự. Đối với người này, Nhà nước sẽ áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh. Tuy nhiên, để trừng trị những người phạm tội do say rượu hoặc dùng chất kích thích mạnh, Nhà nước vẫn truy cứu trách nhiệm hình sự đối với họ. Mặc dù trong thực tế có người do say rượu hoặc do dùng chất kích thích mạnh mà không nhận thức được hành vi họ thực hiện là nguy hiểm cho xã hội hoặc mất khả năng điều khiển hành vi của mình trong khi phạm tội. Cho nên, tại Điều 14 Bộ luật hình sự quy định: "Người phạm tội trong tình trạng say do dùng rượu hoặc chất kích thích mạnh khác, thì vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự". Tại điểm b khoản 2 Điều 202 Bộ luật hình sự năm 1999 còn quy định phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây "b. trong khi say rượu hoặc say do dùng chất kích thích mạnh khác", nay tại điểm b khoản 2 Điều 202 Bộ luật hình sự được sửa đổi, bổ sung năm 2009 cũng quy định phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây " b) trong tình trạng sử dụng rượu, bia mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá mức quy định hoặc có sử dụng các chất kích thích mạnh khác mà pháp luật cấm sử dụng" là tình tiết tăng nặng định khung hình phạt đối với tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ. * Dấu hiệu thứ tư của tội xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ là tính có lỗi của tội phạm Trong luật hình sự Việt Nam, nguyên tắc có lỗi được coi là nguyên tắc cơ bản. Nội dung của nguyên tắc này là "không có tội nếu như không có lỗi". Lỗi là thái độ tâm lý của người thực hiện tội phạm đối với hành vi nguy hiểm 9
  17. cho xã hội mà họ thực hiện và đối với hậu quả cho xã hội do hành vi đó gây ra. "Lỗi của các tội xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ được thể hiện dưới hình thức vô ý" [23, tr. 128]. Vô ý phạm tội xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ là phạm tội thuộc một trong những trường hợp sau đây: Một là, người phạm tội tuy thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được; Hai là, người phạm tội không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó. * Dấu hiệu thứ năm của tội xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ là tính phải chịu hình phạt của tội phạm. Trong luật hình sự, tội phạm và hình phạt là hai chế định quan trọng luôn đi liền với nhau. Để thực hiện nhiệm vụ bảo vệ trật tự an toàn giao thông đường bộ, đồng thời giáo dục mọi người có ý thức tuân theo pháp luật, đấu tranh chống và phòng ngừa tội xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ, Bộ luật hình sự quy định tội phạm và hình phạt đối với người phạm tội. Nhà nước quy định hành vi nào là tội xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ và hình phạt có thể áp dụng đối với người thực hiện tội phạm trong từng điều luật cụ thể (từ Điều 202 đến Điều 205) ở Phần các tội phạm tại chương XIX (các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng) của Bộ luật hình sự năm 1999 và Bộ luật hình sự được sửa đổi, bổ sung năm 2009. Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước nhằm tước bỏ hoặc hạn chế một số quyền, lợi ích của người phạm tội. Mục đích của hình phạt là trừng trị người phạm tội; giáo dục họ trở thành người công dân có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và quy tắc của cuộc 10
  18. sống xã hội chủ nghĩa; ngăn ngừa họ phạm tội mới và giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Theo quy định tại Điều 28 Bộ luật hình sự, thì hình phạt bao gồm hình phạt chính và hình phạt bổ sung. Đối với mỗi tội xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ, người phạm tội chỉ bị áp dụng một hình phạt chính nhưng có thể bị áp dụng một hoặc một số hình phạt bổ sung. Hình phạt chính có thể áp dụng đối với người phạm tội xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ bao gồm: Phạt tiền; cải tạo không giam giữ; tù có thời hạn. - Phạt tiền là hình phạt nhẹ nhất được áp dụng đối với người phạm tội xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ. Mức phạt tiền được quyết định tùy theo tính chất và mức độ nghiêm trọng của tội phạm được thực hiện, đồng thời có xét đến tình hình tài sản của người phạm tội, sự biến động về giá cả. Theo quy định tại các điều từ Điều 202 đến Điều 205 Bộ luật hình sự, thì mức phạt tiền đối với người phạm tội xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ là phạt tiền từ ba triệu đồng đến lăm mươi triệu đồng. - Cải tạo không giam giữ là hình phạt có thể được áp dụng từ sáu tháng đến ba năm đối với người bị kết án về một trong các tội phạm quy định tại khoản 1 và 4 Điều 202; khoản 1 của các Điều 203, 204, 205 Bộ luật hình sự mà đang có nơi làm việc ổn định hoặc có nơi thường trú rõ ràng, nếu xét thấy không cần thiết phải cách ly người phạm tội khỏi đời sống xã hội. Nếu người bị kết án đã bị tạm giữ, tạm giam thì thời gian tạm giữ, tạm giam được trừ vào thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ, cứ một ngày tạm giữ, tạm giam bằng ba ngày cải tạo không giam giữ. Khi áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ, Tòa án giao người bị phạt cải tạo không giam giữ cho cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc hoặc chính quyền địa phương nơi người đó thường trú để giám sát, giáo dục. Gia đình người bị kết án có trách nhiệm phối hợp với cơ quan, tổ chức, chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục người đó. Người bị kết án phải thực hiện một số nghĩa 11
  19. vụ theo các quy định về cải tạo không giam giữ và bị khấu trừ một phần thu nhập từ 5% đến 20% để sung quỹ Nhà nước. Tuy nhiên, trong trường hợp đặc biệt, Tòa án có thể cho miễn việc khấu trừ thu nhập, nhưng phải ghi rõ lý do trong bản án. - Tù có thời hạn là việc buộc người bị kết án phải chấp hành hình phạt tại trại giam trong một thời hạn nhất định nhằm giáo dục họ trở thành người công dân có ích cho xã hội. Tù có thời hạn đối với người phạm một tội xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ có mức tối thiểu là ba tháng, mức tối đa là mười lăm năm. Thời gian tạm giữ, tạm giam được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt tù, cứ một ngày tạm giữ, tạm giam bằng một ngày tù. - Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định được áp dụng khi xét thấy nếu để người bị kết án về tội xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ đảm nhiệm chức vụ, hành nghề hoặc làm công việc đó, thì có thể gây nguy hại cho xã hội. Thời hạn cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm, kể từ ngày chấp hành xong hình phạt tù hoặc từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật nếu hình phạt chính là cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ hoặc trong trường hợp người bị kết án được hưởng án treo. Như vậy, hình phạt là một biện pháp hình sự được Nhà nước sử dụng như một công cụ để trừng trị và cải tạo, giáo dục đối với người phạm tội xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ. Xét trên bình diện chế tài được quy định tại một điều luật cụ thể quy định về một tội danh (các tội xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ), thì hình phạt là một dấu hiệu của tội xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ. Do vậy, không có điều luật nào trong Bộ luật hình sự chỉ quy định tội phạm (hành vi phạm tội) mà lại không quy định hình phạt (chế tài) áp dụng đối với người thực hiện tội phạm ấy. Các dấu hiệu nêu trên là những dấu hiệu chung của khái niệm tội xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ. Các dấu hiệu đó là cơ sở để phân 12
  20. biệt tội phạm và vi phạm chưa cấu thành tội xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ. Chúng được thể hiện trong cấu thành tội phạm và là tổng hợp những dấu hiệu chung có tính chất đặc trưng cho loại tội phạm này được quy định trong bộ luật hình sự. Qua phân tích các dấu hiệu của các tội xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ, có thể đưa ra khái niệm tội xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ như sau: tội xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ là những hành vi nguy hiểm cho xã hội, được quy định tại các điều 202, 203, 204 và 205 Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách vô ý xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ, gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khỏe, tài sản của người khác. So với quy định của Bộ luật hình sự năm 1985, thì quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 cũng như Bộ luật hình sự được sửa đổi, bổ sung năm 2009 về các tội xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ có một số điểm mới cơ bản sau đây: Thứ nhất, Bộ luật hình sự hiện hành quy định bốn tội xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ bằng cách giữ nguyên các tội phạm quy định tại các điều 186 và 187 Bộ luật hình sự năm 1985 về giao thông đường bộ và tách tội phạm quy định tại Điều 188 Bộ luật hình sự 1985 thành hai tội phạm độc lập có đối tượng tác động là phương tiện giao thông đường bộ. Thứ hai, thay đổi tên tội danh cho phù hợp với đối tượng tác động của tội phạm, cụ thể: - Tội "vi phạm các quy định về an toàn giao thông vận tải" được thay bằng tội "vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ"; - Tội "cản trở giao thông vận tải gây hậu quả nghiêm trọng" được đổi thành tội "cản trở giao thông đường bộ"; 13
  21. - Tội "đưa vào sử dụng các phương tiện giao thông vận tải không bảo đảm an toàn gây hậu quả nghiêm trọng" được đổi thành tội "đưa vào sử dụng các phương tiện giao thông đường bộ không bảo đảm an toàn"; - Tội "điều động người không đủ điều kiện điều khiển các phương tiện giao thông vận tải gây hậu quả nghiêm trọng" được đổi thành tội "điều động hoặc giao cho người không đủ điều kiện điều khiển các phương tiện giao thông đường bộ". Thứ ba, quy định "phạm tội trong trường hợp có khả năng thực tế dẫn đến hậu quả đặc biệt nghiêm trọng nếu không được ngăn chặn kịp thời, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến hai mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến một năm" là tình tiết giảm nhẹ định khung hình phạt (tại khoản 4 Điều 203 Bộ luật hình sự) đối với tội "cản trở giao thông đường bộ". Thứ tư, về hình phạt chính, thì tại khoản 1 các điều 202, 203, 204 và 205 Bộ luật hình sự quy định hình phạt tiền từ ba triệu đồng đến năm mươi triệu đồng là một trong những hình phạt chính có thể áp dụng đối với người phạm tội xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ; Hình phạt cải tạo không giam giữ tuy vẫn được quy định là hình phạt chính tại khoản 1 các Điều 202, 203, 204 và 205 Bộ luật hình sự hiện hành nhưng mức tối đa của khung hình phạt được nâng lên ba năm thay cho quy định của Bộ luật hình sự năm 1985 là hai năm; Mức cao nhất của khung hình phạt tù có thời hạn áp dụng đối với người phạm tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ là mười lăm năm, thay cho quy định tại khoản 3 Điều 186 Bộ luật hình sự năm 1985 là hai mươi năm; Mức cao nhất của khung hình phạt tù có thời hạn áp dụng đối với người phạm tội đưa vào sử dụng các phương tiện giao thông đường bộ không 14
  22. bảo đảm an toàn là mười năm, thay cho quy định tại khoản 2 Điều 188 Bộ luật hình sự năm 1985 là mười hai năm; Thứ năm, hình phạt bổ sung "cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm" được quy định thành một khoản độc lập của mỗi điều luật cụ thể và chỉ có thể áp dụng đối với một trong các tội phạm sau đây: tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ; tội đưa vào sử dụng các phương tiện giao thông đường bộ không bảo đảm an toàn và tội điều động hoặc giao cho người không đủ điều kiện điều khiển các phương tiện giao thông đường bộ. 1.1.2. Các yếu tố cấu thành tội xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ Các yếu tố cấu thành tội phạm là những dấu hiệu chung có tính chất đặc trưng cho loại tội phạm cụ thể được quy định trong luật hình sự. Cũng giống như các tội phạm khác, tội xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ có bốn yếu tố cấu thành tội phạm là: khách thể, chủ thể, mặt khách quan và mặt chủ quan của tội phạm. 1.1.2.1. Khách thể của các tội xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ Khách thể của các tội xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ là sự an toàn của hoạt động giao thông đường bộ và an toàn về tính mạng, sức khỏe của công dân, tài sản của Nhà nước, tập thể và công dân. Bởi vì, hành vi vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại hoặc tạo khả năng gây ra các thiệt hại cho tính mạng, sức khỏe, tài sản của người khác. Nhà nước quy định xử lý bằng pháp luật hình sự đối với các hành vi vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ không những chỉ nhằm mục đích bảo đảm an toàn công cộng mà còn bảo vệ tính mạng, sức khoẻ của công dân, tài sản của Nhà nước, của tập thể và của công dân. 15