Luận văn Các tội vi phạm an toàn giao thông đường bộ theo luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Quảng Ngãi)

pdf 94 trang vuhoa 23/08/2022 8420
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Các tội vi phạm an toàn giao thông đường bộ theo luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Quảng Ngãi)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_cac_toi_vi_pham_an_toan_giao_thong_duong_bo_theo_lu.pdf

Nội dung text: Luận văn Các tội vi phạm an toàn giao thông đường bộ theo luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Quảng Ngãi)

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ THÚY NA CÁC TỘI VI PHẠM AN TOÀN GIAO THÔNG ĐƢỜNG BỘ THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM (TRÊN CƠ SỞ SỐ LIỆU THỰC TIỄN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NGÃI) LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2015
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ THÚY NA CÁC TỘI VI PHẠM AN TOÀN GIAO THÔNG ĐƢỜNG BỘ THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM (TRÊN CƠ SỞ SỐ LIỆU THỰC TIỄN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NGÃI) Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS Trịnh Quốc Toản HÀ NỘI - 2015 2
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Nguyễn Thị Thúy Na 3
  4. MỤC LỤC MỤC LỤC 4 DANH SÁCH TỪ VIẾT TẮT 6 MỞ ĐẦU 6 Chƣơng 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÁC TỘI VI PHẠM AN TOÀN GIAO THÔNG ĐƢỜNG BỘ THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 7 1.1. Khái niệm và đặc điểm của các tội vi phạm an toàn giao thông đường bộ theo Luật hình sự Việt Nam 7 1.2. Sự cần thiết quy định các tội vi phạm an toàn giao thông đường bộ trong Luật hình sự Việt Nam 13 1.3. Khái quát lịch sử Luật hình sự Việt Nam quy định về các tội vi phạm an toàn giao thông đường bộ 18 Chƣơng 2. QUY ĐỊNH VỀ CÁC TỘI VI PHẠM AN TOÀN GIAO THÔNG ĐƢỜNG BỘ TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ 1999 VÀ THỰC TIỄN XÉT XỬ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NGÃI 24 2.1. Quy định về các tội vi phạm an toàn giao thông đường bộ trong BLHS năm 1999 24 2.2. Thực tiễn xét xử các tội vi phạm an toàn giao thông đường bộ trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi từ năm 2011 đến 2015 46 2.3. Những tồn tại, hạn chế và thiếu sót trong xét xử các tội vi phạm an toàn giao thông đường bộ trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi và những nguyên nhân của tồn tại, thiếu sót đó 52 Chƣơng 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH VỀ CÁC TỘI VI PHẠM AN TOÀN GIAO THÔNG ĐƢỜNG BỘ TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 VÀ NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG XÉT XỬ CÁC TỘI PHẠM NÀY 68 3.1. Sự cần thiết hoàn thiện quy định về các tội vi phạm an toàn giao thông đường bộ trong BLHS năm 1999 và nâng cao chất lượng xét xử các tội phạm này 68 4
  5. 3.2. Một số giải pháp hoàn thiện quy định về các tội vi phạm an toàn giao thông đường bộ trong BLHS năm 1999 72 3.3. Một số giải pháp nâng cao chất lượng xét xử các tội vi phạm an toàn giao thông đường bộ 78 KẾT LUẬN 82 TÀI LIỆU THAM KHẢO 84 5
  6. DANH SÁCH TỪ VIẾT TẮT Bộ luật Hình sự BLHS Trách nhiệm hình sự TNHS Hình sự sơ thẩm HSST Hình sự phúc thẩm HSPT Thông tư liên tịch TTLT Bộ Công an BCA Bộ Tư pháp BTP Viện Kiểm sát nhân dân tối cao VKSNDTC Tòa án nhân dân tối cao TANDTC Biển kiểm soát BKS 6
  7. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của Đề tài Việt Nam đang trong quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng, đẩy mạnh mục tiêu phát triển kinh tế; dân số và phương tiện giao thông ngày càng gia tăng, kéo theo một thực trạng đáng báo động đó là tai nạn giao thông, mà chủ yếu là tai nạn giao thông đường bộ gây thiệt hại to lớn về tính mạng, sức khoẻ và tài sản. Theo số liệu thống kê của Ủy ban An toàn giao thông Quốc gia, trong năm 2014 toàn quốc xảy ra 25.322 vụ, làm chết 8.996 người, bị thương 24.417 người. Trong đó, tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên xảy ra 10.601 vụ, làm chết 8.996 người, bị thương 6.265 người. Trong 12 tháng của năm 2014, số lượng phương tiện đăng ký mới là 199.396 xe ôtô và 2.597.301 xe môtô. Thực tế cho thấy, trong nhóm các hành vi vi phạm về trật tự, an toàn giao thông thì phần lớn là hành vi vi phạm về an toàn giao thông đường bộ. Các vụ án hình sự liên quan chủ yếu là hành vi vi phạm quy định về Điều khiển phương tiện giao thông đường bộ. Trong hai năm gần đây, công cuộc đấu tranh nhằm ngăn chặn hành vi vi phạm quy định về an toàn giao thông đang được đẩy lên đỉnh điểm với nhiều biện pháp khác nhau, trong đó có biện mạnh nhất là truy cứu trách nhiệm hình sự. Việt Nam là một trong những quốc gia đang hành động rất quyết liệt trong việc bảo đảm an toàn giao thông. Minh chứng rõ nét nhất khẳng định sự chú trọng của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong vấn đề này là: i) Về đường lối lãnh đạo: Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ban hành Chỉ thi ̣số 22-CT/TW ngày 22 tháng 4 năm 2003 "Về tă ng cườ ng sư ̣ lãnh đaọ của Ðảng đối vớ i công tác bảo đảm trậ t tư,̣ an toàn giao thông" ii) Về lĩnh vực hành chính, Chính phủ đã ban hành Nghi ̣quyết số 32/2007/NQ-CP ngày 29 tháng 6 năm 2007 "Về mộ t số giải pháp cấp bách nhằm kiềm chế tai naṇ giao thông và ùn tắc giao thôn"g đồng thời ban hành nghị định quy định xử phạt nghiêm đối với hành vi vi phạm quy định về an toàn giao thông; thành lập Uỷ ban an toàn giao thông quốc gia với chức năng tổ 1
  8. chức phối hợp liên ngành, giúp Thủ tướng Chính phủ nghiên cứu, chỉ đạo, phối hợp các Bộ, ngành và các địa phương thực hiện chương trình quốc gia về an toàn giao thông và các giải pháp liên ngành nhằm bảo đảm trật tự an toàn giao thông trong phạm vi cả nước. iii) Về lĩnh vực pháp luật hình sự và thực tiễn xét xử, các cơ quan xét xử đã lượng hình nghiêm khắc hơn; các Toà án tổ chức hội thảo khoa học về các tội xâm phạm trật tự an toàn giao thông; các Bộ đã ban hành thông tư liên ngành như Thông tư liên tịch số 09/2013/TTLT/BCA-BQP-BTP- VKSNDTC-TANDTC, ngày 28/8/2013 hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIX của BLHS về các tội xâm phạm trật tự, an toàn giao thông. Ở địa phương, các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đều quyết tâm đẩy lùi và ngăn chặn tình trạng tai nạn giao thông đường bộ. Quảng Ngãi là một trong những địa phương, mà sự phối hợp chặt chẽ giữa các ngành như Công an, Giao thông, Toà án, đặc biệt là chính sách hình sự được triển khai thực hiện khá quyết liệt , thế nhưng kết quả đạt được vẫn chưa cao , thưc̣ tiêñ điều tra, truy tố, xét xử đối với người có hành vi phạm tội vi phạm an toàn giao thông đường bộ ở Quảng Ngãi vâñ còn không ít sai sót, dâñ đến hiệu quả điều chỉnh của pháp luật chưa cao. Với nhận thức rằng, việc nghiên cứu các tội vi phạm an toàn giao thông đường bộ theo Luật hình sự Việt Nam một cách có hệ thống về lý luận và qua thực tiễn xét xử các tội này tại Quảng Ngãi để phân tích một cách sâu sắc những bất cập trong lĩnh vực lập pháp hình sự và áp dụng pháp luật hình sự thông qua thực tiễn xét xử tại Quảng Ngãi từ đó đề ra những giải pháp, kiến nghị về hoàn thiện về mặt lập pháp mang ý nghĩa quan trọng về lý luận và về thực tiễn sẽ góp phần đấu tranh, phòng chống tội phạm về an toàn giao thông đường bộ và nâng cao chất lượng xét xử các tội này tại Quảng Ngãi. Bởi vậy, tác giả quyết định lựa chọn đề tài: "Các tội vi phạm an toàn giao thông đường bộ theo Luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Quảng Ngãi)" làm luận văn cao học luật của mình. 2
  9. 2. Tình hình nghiên cứu Đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu về các nội dung của Bộ luật hình sự (BLHS) nói chung và các tội vi phạm các quy định về trật tự, an toàn giao thông đường bộ nói riêng. Có thể kể đến một số công trình nghiên cứu tiêu biểu như sau: Thứ nhất, về các công trình là luận án, luận văn luật học, bao gồm: Bùi Kiến Quốc (2001), Các biệ n pháp đấu tranh phòng , chống tộ i vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ ở Thủ đô Hà Nộ i, Luậ n án tiến si ̃ luậ t hoc̣ ; Nguyêñ Đắc Dũng (2011), Tộ i vi phaṃ các quy điṇ h về điều khiển phươ ng tiệ n giao thông đườ ng bộ trong luậ t h ình sư ̣ Việ t Nam (trên cơ sở thưc̣ tiêñ xét xử taị điạ bàn tỉnh Bắ c Ninh ), Luậ n vă n thac̣ si ̃ luậ t hoc̣ ; Bùi Quang Trung (2010), Các tội xâm phạm an toàn giao thông đường bộ theo luật hình sự Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ luật học; Trần Văn Thảo (2013), Các tội xâm phạm an toàn giao thông đường bộ theo luật hình sự Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ luật học; Thứ hai, các giáo trình, sách chuyên khảo, tạp chí bao gồm: Đinh Vă n Quế (2005), Bình luậ n khoa hoc̣ chuyên sâu Bộ luậ t hình sư ̣ - Phần các tộ i phaṃ , Tậ p VI - Các tộ i xâm phaṃ an toàn công cộ ng , trậ t tư ̣ công cộ ng , Nxb Thành phố Hồ Chí Minh ; GS. TSKH. Lê Cảm chủ biên (2001), Giáo trình Luậ t hình sư ̣ Việ t Nam (Phần các tộ i phaṃ ), Nxb Đaị hoc̣ Quốc gia Hà Nộ i , (tái bản nă m 2007); GS. TS. Võ Khánh Vinh chủ biên (2001), Giáo trình Luậ t hình sư ̣ Việ t Nam (Phần các tộ i phaṃ ), Nxb Công an nhân dân, Hà Nộ i; GS. TS. Nguyêñ Ngoc̣ Hòa chủ biên (2010), Giáo trình Luậ t hình sư ̣ Việ t Nam (Tậ p II), Nxb Công an nhân dân, Hà Nộ i; TS. Đỗ Đức Hồng Hà, TS. Trịnh Tiến Việt và tập thể các tác giả (2010), Tìm hiểu BLHS nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và những văn bản hướng dẫn thi hành, Nxb Lao động; TS. Phạm Văn Beo (2010), Luật hình sự Việt Nam – 3
  10. Quyển 2 – Phần các tội phạm, Nxb Chính trị Quốc gia; Lê Văn Luật (2005), “Xác định lỗi trong các vụ án tai nạn giao thông”, Tạp chí Tòa án nhân dân, (6); Huỳnh Quốc Hùng (2007), “Một số vấn đề về định tội và định khung tăng nặng trong các vụ án vi phạm quy định về Điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”, Tạp chí Tòa án nhân dân, (9). Qua nghiên cứ u các công trình trên cho thấy , có một số công trình nghiên cứu chuyên sâu với phạm vi rộng về các tội vi phạm an toàn giao thông đường bộ theo luật hình sự Việt Nam; một số công trình nghiên cứu liên quan. Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu, phân tích sâu về thực tiễn xét xử và khảo cứu số liệu tại Quảng Ngãi, để từ đó đề ra những phương hướng, kiến nghị lập pháp, hành pháp về vấn đề này trên phương diện tổng thể cho phù hợp với đặc điểm, điều kiện của Việt Nam và góp phần đấu tranh phòng chống tội phạm, nâng cao chất lượng xét xử về nhóm tội vi phạm an toàn giao thông đường bộ tại Quảng Ngãi. 3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của đề tài nhằm làm rõ những vấn đề lý luận về “các tội vi phạm an toàn giao thông đường bộ”; Làm rõ thực trạng xét xử, áp dụng trách nhiệm hình sự (TNHS) đối với các tội vi phạm an toàn giao thông đường bộ trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi; Làm rõ những hạn chế, bất cập và nguyên nhân của chúng trong các quy định của BLHS năm 1999 để làm cơ sở đề xuất một số giải pháp và kiến nghị hoàn thiện pháp luật hình sự Việt Nam, góp phần nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Luận văn giới hạn phạm vi nghiên cứu: Các tội vi phạm an toàn giao thông đường bộ theo Luật Hình sự Việt Nam hiện hành - trên cơ sở khảo cứu số liệu và thực tiễn xét xử tại tỉnh Quảng Ngãi. 4
  11. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Các phương pháp nghiên cứu của Luận văn được xây dựng trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, và đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam. Các phương pháp mà luận văn sử dụng bao gồm: phương pháp phân tích quy phạm, phân tích vụ việc, và phân tích lịch sử; phương pháp tổng hợp, thông kê, tập hợp các thông tin, số liệu và vụ việc; phương pháp điển hình hoá, mô hình hóa các quan hệ xã hội; phương pháp hệ thống hóa các quy phạm pháp luật; phương pháp so sánh pháp luật; và phương pháp đánh giá thực trạng pháp luật. Với phương pháp phân tích quy phạm, luận văn đã phân tích quy định của pháp luật hiện hành về các tội vi phạm an toàn giao thông đường bộ qua đó chỉ ra các khiếm khuyết, bất cập về pháp luật. Khi phân tích vụ việc, bình luận các bản án, quyết định của Toà án, luận văn chỉ ra khiếm khuyết trong thực tiễn áp dụng pháp luật. Phương pháp tổng hợp được sử dụng kết hợp với phương pháp phân tích. Cụ thể, từ những kết quả nghiên cứu bằng phân tích, Luận văn sử dụng phương pháp tổng hợp kết hợp chúng lại với nhau để có được sự nhận thức về vấn đề nghiên cứu một cách đầy đủ, hoàn chỉnh. Kết quả tổng hợp được thể hiện chủ yếu bằng các kết luận, kiến nghị hoàn thiện pháp luật hình sự. Phương pháp so sánh được sử dụng khi so sánh với pháp luật nước ngoài để chỉ ra ưu nhược điểm, sự tiến bộ hay lạc hậu hoặc so sánh giữa pháp luật hiện hành với các văn bản đã hết hiệu lực để chỉ ra sự thay đổi tích cực hay tụt hậu 5. Những đóng góp của luận văn Luậ n vă n góp phần làm sáng tỏ lý luậ n về các tộ i vi phaṃ an toàn giao thông đườ ng bộ trong khoa hoc̣ luậ t hình sư ̣ Việ t Nam. Phân định ranh giới về 5
  12. dấu hiệu định tội để tránh nhầm lẫn trong thực tiễn áp dụng. Làm rõ thực trạng pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành về các tộ i xâm phạm an toàn giao thông đường bộ ; thực trạng áp dụng thông qua hoạt động xét xử trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi . Theo đó, làm rõ khiếm khuyết , bất cậ p của các quy định hiện hành và nguyên nhân của khiếm khuyết bất cập đó; Luận văn đưa ra định hướng và giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật thông qua các hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp. Luậ n vă n có thể làm tài liệ u tham khảo lý luậ n , có thể sử duṇ g làm tài liệ u tham khảo, nghiên cứ u, học tập. 6. Kết cấu tổng quan của Luận văn. Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề chung về các tội vi phạm an toàn giao thông đường bộ theo Luật hình sự Việt Nam Chương 2: Quy định về các tội vi phạm an toàn giao thông đường bộ theo Bộ luật hình sự năm 1999 và thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện quy định về các tội vi phạm an toàn giao thông đường bộ trong Bộ luật hình sự năm 1999 và nâng cao chất lượng xét xử các tội phạm này. 6
  13. Chƣơng 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÁC TỘI VI PHẠM AN TOÀN GIAO THÔNG ĐƢỜNG BỘ THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. Khái niệm và đặc điểm của các tội vi phạm an toàn giao thông đƣờng bộ theo Luật hình sự Việt Nam 1.1.1. Khái niệm các tội vi phạm an toàn giao thông đƣờng bộ Khái niệm tội phạm được Bộ luật Hình sự 1999 quy định: Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS, do người có năng lực TNHS thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hoá, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa [36, Điều 8]. Theo quy định của Bộ luật Hình sự 1999, thì khái niệm của các loại tội phạm cụ thể được quy định trong các điều luật phần các tội phạm cụ thể, bằng mô tả các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của các tội phạm. Tuy nhiên, dù được khái niệm chung về tội phạm hay khái niệm về các loại tội phạm cụ thể, thì dấu hiệu cơ bản, quan trọng nhất cấu thành tội phạm là tính nguy hiểm cho xã hội và tính lỗi. Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội, Bộ luật hình sự 1999 quy định phân loại tội phạm tại khoản 2, khoản 3 Điều 8: 7
  14. “2. Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi được quy định trong Bộ luật này, tội phạm được phân thành tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. 3. Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến ba năm tù; tội phạm nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến bảy năm tù; tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại rất lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến mười lăm năm tù; tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên mười lăm năm tù, tù chung thân hoặc tử hình” [36, Điều 8]. Hiện nay, nhà nước tập trung các nguồn lực phát triển giao thông đường bộ, ưu tiên đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ ở vùng kinh tế trọng điểm, các thành phố, miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng dân tộc thiểu số; có chính sách huy động các nguồn lực để quản lý, bảo trì đường bộ. Bởi giao thông đường bộ luôn giữ một vị trí và vai trò vô cùng quan trọng đối với quá trình phát triển kinh tế - xã hội của bất kỳ một quốc gia nào. Trong những năm qua, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã nỗ lực cố gắng và đưa ra nhiều giải pháp để kiềm chế sự gia tăng, tiến tới giảm dần tai nạn giao thông và ùn tắc giao thông, nhưng tai nạn giao thông vẫn xảy ra nghiêm trọng, trong đó đứng đầu là tai nạn giao thông đường bộ. Mà một trong những nguyên nhân gây ra thực trạng trên là hành vi vi phạm an toàn giao thông đường bộ trong những năm qua có xu hướng gia tăng. Để đảm bảo 8
  15. trật tự, an toàn giao thông đường bộ, thì các quy định hình sự về các tội vi phạm an toàn giao thông đường bộ sẽ là biện pháp để răn đe, trừng trị với các chủ thể có hành vi vi phạm an toàn giao thông đường bộ và góp phần đảm bảo trật tự an toàn giao thông ở nước ta hiện nay. Chúng ta có thể đưa ra một khái niệm chung về các tội vi phạm an toàn giao thông đường bộ như sau: Các tội vi phạm an toàn giao thông đường bộ là những hành vi nguy hiểm cho xã hội, được quy định trong BLHS, do người có năng lực TNHS thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm hại đến trật tự an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe hoặc tài sản của công dân, tổ chức hoặc nhà nước. 1.1.2. Đặc điểm các tội vi phạm an toàn giao thông đƣờng bộ Những đặc điểm, dấu hiệu của các tội vi phạm an toàn giao thông đường bộ là cơ sở xem xét, xác định hành vi phạm tội của chủ thể. Các dấu hiệu này bao gồm: là hành vi nguy hiểm cho xã hội; được BLHS quy định; do chủ thể có năng lực TNHS thực hiện; tính lỗi; xâm hại đến trật tự an toàn giao thông đường bộ; tính phải chịu hình phạt tương ứng. Đặc điểm thứ nhất: Là hành vi gây nguy hiểm cho xã hội Hành vi của tội vi phạm an toàn giao thông đường bộ trước hết phải là hành vi nguy hiểm cho xã hội, tức là phải thể hiện bằng hành vi xác định của con người. Hành vi đó xâm hại đến các quan hệ xã hội được BLHS bảo vệ. Hành vi nguy hiểm cho xã hội có thể gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tài sản của người khác hoặc của nhà nước và được thể hiện dưới dạng hành động hoặc không hành động. Hành vi phạm tội thể hiện bằng hành động hoặc không hành động xâm phạm đến an toàn giao thông đường bộ theo quy định của BLHS 1999 có thể bao gồm các hành sau: 9
  16. - Hành vi vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác; gây tai nạn rồi bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm hoặc cố ý không cứu giúp người bị nạn; không chấp hành hiệu lệnh của người đang làm nhiệm vụ điều khiển hoặc hướng dẫn giao thông (Điều 202); - Hành vi vi phạm do cản trở giao thông đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác; các hành vi có thể là: Đào, khoan, xẻ trái phép các công trình giao thông đường bộ; Đặt trái phép chướng ngại vật gây cản trở giao thông đường bộ; Tháo dỡ, di chuyển trái phép, làm sai lệch, che khuất hoặc phá huỷ biển báo hiệu, các thiết bị an toàn giao thông đường bộ; Mở đường giao cắt trái phép qua đường bộ, đường có giải phân cách; Lấn chiếm, chiếm dụng vỉa hè, lòng đường; Lấn chiếm hành lang bảo vệ đường bộ (Điều 203). - Hành vi đưa vào sử dụng các phương tiện giao thông đường bộ không bảo đảm an toàn. Người chịu trách nhiệm trực tiếp về việc điều động hoặc về tình trạng kỹ thuật mà cho phép đưa vào sử dụng phương tiện giao thông đường bộ rõ ràng không đảm bảo an toàn kỹ thuật gây thiệt hại cho tính mạng hoặc thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác (Điều 204); - Hành vi điều động hoặc giao cho người không đủ điều kiện điều khiển các phương tiện giao thông đường bộ. Người điều động hoặc giao cho người không có giấy phép hoặc bằng lái xe hoặc không đủ các điều kiện khác theo quy định của pháp luật điều khiển các phương tiện giao thông đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc 10
  17. gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khỏe, tài sản của người khác (Điều 205). - Hành vi tổ chức đua xe trái phép và hành vi đua xe trái phép (Điều 206 và Điều 207). Đặc điểm thứ hai: Hành vi vi phạm phải được BLHS quy định Theo quy định của Điều 2 BLHS 1999 quy định về cơ sở của TNHS: “Chỉ người nào phạm một tội đã được BLHS quy định mới phải chịu TNHS”. Các tội vi phạm an toàn giao thông đường bộ được quy định từ Điều 202 đến Điều 207 của BLHS 1999. Nếu hành vi của chủ thể không cấu thành các tội được quy định trong BLHS thì không bị coi là tội phạm và không phải chịu hình phạt trong BLHS. Đặc điểm thứ ba: Do chủ thể có năng lực TNHS và đạt đủ độ tuổi theo quy định của BLHS thực hiện Người có năng lực TNHS phải đạt độ tuổi theo quy định của BLHS và có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình; + Về độ tuổi: Theo quy định của BLHS 1999 về tuổi chịu TNHS: 1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu TNHS về mọi tội phạm. 2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu TNHS về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng [36, Điều 12]. + Về khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của chủ thể: BLHS 1999 dùng phương pháp loại trừ khi quy định các trường hợp không có năng lực TNHS: Điều 13 BLHS 1999 quy định “Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu TNHS”. Đặc điểm thứ tư: Hành vi phạm tội phải có lỗi của chủ thể 11
  18. Lỗi là trạng thái tâm lý bên trong của chủ thể đối với hành vi phạm tội của mình và hậu quả do hành vi đó gây ra. Lỗi của chủ thể thực hiện tội phạm xâm hại đến trật tự, an toàn giao thông đường bộ thể hiện: Lỗi cố ý và lỗi vô ý. Các lỗi được thể hiện bằng hành vi của chủ thể như sau: “Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra” (Khoản 1, Điều 9 BLHS 1999). “Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể ảx y ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra” (Khoản 2, Điều 9 BLHS 1999). “Người phạm tội tuy thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được” (Khoản 1, Điều 10 BLHS 1999). “Người phạm tội không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó” (Khoản 2, Điều 10 BLHS 1999). Đặc điểm thứ năm: Xâm hại đến trật tự an toàn giao thông đường bộ Các tội vi phạm an toàn giao thông đường bộ là những hành vi nguy hiểm cho xã hội, được quy định trong BLHS, xâm hại đến trật tự an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe hoặc tài sản của công dân, tổ chức hoặc nhà nước. BLHS 1999 quy định các tội xâm phạm đến trật tự, an toàn giao thông đường bộ từ Điều 202 đến 207. Cụ thể: Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ (Điều 202); Tội cản trở giao thông đường bộ (Điều 203); Tội đưa vào sử dụng các phương tiện giao thông đường bộ không bảo đảm an toàn (Điều 204); Tội điều động hoặc giao cho người không đủ điều kiện điều khiển các phương tiện giao thông đường bộ (Điều 205); Tội tổ chức đua xe trái phép (Điều 206); Tội đua xe trái phép (Điều 207). 12
  19. Đặc điểm thứ sáu: Tính phải chịu hình phạt của tội phạm Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người phạm tội. Hình phạt được quy định trong BLHS và do Toà án quyết định. Mục đích của hình phạt được thể hiện: Hình phạt không chỉ nhằm trừng trị người phạm tội mà còn giáo dục họ trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa, ngăn ngừa họ phạm tội mới. Hình phạt còn nhằm giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm [36, Điều 27]. Hình phạt đối với các tội vi phạm an toàn giao thông đường bộ được quy định cụ thể từ Điều 202 đến 207 của BLHS 1999. Trên cơ sở xác định tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của chủ thể và các tình tiết giảm nhẹ TNHS, thì hình phạt “do Toà án quyết định” đối với chủ thể thực hiện hành vi phạm tội. 1.2. Sự cần thiết quy định các tội vi phạm an toàn giao thông đƣờng bộ trong Luật hình sự Việt Nam Giao thông vận tải đường bộ là mạch máu của nền kinh tế quốc dân, giao thông phát triển, an toàn, thuận lợi tạo điều kiện tốt cho sự phát triển về kinh tế, chính trị, văn hoá giữa các vùng miền, giữa thành phố với nông thôn, giữa các quốc gia với nhau. Ngày nay các hoạt động liên quan đến giao thông vận tải là nhu cầu không thể thiếu được của con người, cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, các phương tiện giao thông ngày càng đa dạng, phát triển mạnh và cùng với đó là cơ sở hạ tầng giao thông cũng phát triển vượt bậc nhằm đáp ứng nhu cầu thực tế đặt ra. Vì thế, vấn đề đặt ra cho cả xã hội là 13
  20. duy trì trật tự an toàn giao thông và hoạt động bình thường của các phương tiện giao thông là hết sức cấp thiết. Trật tự an toàn giao thông được hiểu là trạng thái xã hội có trật tự trong lĩnh vực giao thông vận tải công cộng được điều chỉnh bởi các quy phạm pháp luật, nhằm đảm bảo cho hoạt động giao thông thông suốt, trật tự, an toàn, hạn chế đến mức thấp nhất tai nạn hoặc các thiệt hại do hoạt động giao thông gây ra. Trật tự an toàn giao thông, nhất là trật tự an toàn giao thông đường bộ có liên quan chặt chẽ tới các hoạt động kinh tế - văn hóa cũng như cuộc sống của mọi người dân. Vì thế luôn được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước cũng như của toàn xã hội. Với sự tăng trưởng mạnh mẽ về kinh tế và các phương tiện, sự phát triển của hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông đường bộ, thì các vụ án xâm phạm an toàn giao thông đường bộ luôn có chiều hướng gia tăng với tính chất phức tạp, hậu quả ngày càng nghiêm trọng hơn. Đảm bảo trật tự an toàn giao thông là một yêu cầu và nhiệm vụ cơ bản của mọi quốc gia và xem đó là điều kiện cần thiết để phát triển kinh tế, củng cố an ninh quốc phòng và ổn định trật tự xã hội. Đảm bảo trật tự, an toàn giao thông còn là trách nhiệm của tất cả mọi người khi tham gia giao thông. Những người trực tiếp tham gia giao thông phải có văn hóa giao thông, chấp hành đúng, gương mẫu và tự giác đối với luật giao thông đường bộ. Theo đó, các hành vi ứng xử của những người tham gia giao thông trước hết phải đặt ý thức tự giác lên trước tiên, thực hiện đúng quy định của pháp luật, gương mẫu chấp hành và tôn trọng những người liên quan, bảo đảm an toàn tài sản, an toàn công cộng và trật tự công cộng. Nhận định tình trạng trật tự an toàn giao thông và nguyên nhân của các hành vi xâm hại đến trật tự, an toàn giao thông, Chỉ thị số 18-CT/TW ngày 04-09-2012 của Ban Bí thư Trung ương Đảng nhận định rằng: 14
  21. Tình hình vi phạm trật tự, an toàn giao thông còn diễn ra phức tạp; tai nạn giao thông vẫn ở mức cao và nghiêm trọng, nhất là số người chết, tiềm ẩn nhiều nguy cơ gia tăng, gây thiệt hại nghiêm trọng về người và tài sản. Tai nạn giao thông và ùn tắc giao thông đường bộ vẫn đang là vấn đề bức xúc của toàn xã hội, ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững về kinh tế, văn hóa, xã hội và hình ảnh của đất nước Việt Nam với bạn bè quốc tế. Tình hình trên do nhiều nguyên nhân, trong đó chủ yếu là do ý thức tự giác chấp hành kỷ luật về trật tự, an toàn giao thông của người tham gia giao thông còn yếu kém. Kết cấu hạ tầng giao thông còn nhiều hạn chế, bất cập [1]. Trước tình hình trật tự an toàn giao thông vẫn còn nhiều diễn biến phức tạp, ý thức tự giác chấp hành pháp luật của người tham gia giao thông chưa cao; trong khi phương tiện tham gia giao thông ngày một tăng, nguy cơ xảy ra tai nạn, va chạm, ùn tắc giao thông còn nhiều. Để góp phần đảm bảo trật tự an toàn giao thông, thông suốt, an toàn, thời gian qua, Ban Bí thư Trung ương Đảng, Quốc Hội, Chính phủ, các Bộ, ngành đã ban hành các Nghị quyết, Chỉ thị, Thông tư và Quyết định cùng nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhằm thiết lập lại trật tự kỷ cương và từng bước ổn định tình hình trật tự an toàn giao thông trên phạm vi cả nước. Trong những năm gần đây, an toàn giao thông đang là vấn đề được cả xã hội quan tâm. Chúng ta đang nỗ lực xây dựng văn hóa giao thông trong cộng đồng để nâng cao ý thức tham gia giao thông của mọi tầng lớp nhân dân. Xây dựng Văn hoá giao thông nhằm tạo nên thói quen cư xử có văn hoá, đúng pháp luật. Người tham gia giao thông coi việc tự giác tuân thủ pháp luật về đảm bảo trật tự an toàn giao thông như một chuẩn mực đạo đức truyền thống và là biểu hiện văn minh hiện đại. 15
  22. Bên cạnh đó, công tác tuyên truyền, giáo dục về an toàn giao thông là một trong những biện pháp cấp bách nhằm đảm bảo trật tự, an toàn giao thông tiến đến một xã hội trật tự và an toàn. Thực tế cho thấy, những vấn đề gặp phải trong trật tự an toàn giao thông do lỗi chủ quan, ý thức kém của người tham gia giao thông, không chấp hành quy định pháp luật, chở người quá số lượng, quá tải, phóng nhanh, vượt ẩu, coi thường tính mạng của mọi người và của chính mình Vì thế, mục tiêu thay đổi thái độ và hành vi không phù hợp khi tham gia giao thông là rất quan trọng. Để cải thiện tình hình trật tự an toàn giao thông đường bộ, các yêu cầu đặt ra đối với những người tham gia giao thông phải: Thứ nhất, hiểu biết đầy đủ và tự giác chấp hành đúng các quy định của pháp luật về đảm bảo trật tự an toàn giao thông đường bộ. Thứ hai, những người tham gia giao thông đường bộ phải có trách nhiệm với bản thân và cộng đồng, tôn trọng, nhường nhịn và giúp đỡ người khác. Thứ ba, những người tham gia giao thông đường bộ phải có thái độ ứng xử văn minh lịch sự khi xảy ra va chạm giao thông và tinh thần thượng tôn pháp luật. Ngoài ra, những người tham gia giao thông phải có hành vi thể hiện văn hóa giao thông như đi đúng làn đường, đúng phần đường; tuân thủ quy định về tốc độ, dừng đỗ xe đúng nơi quy định, đội mũ bảo hiểm khi đi mô tô, xe máy, không vi phạm về nồng độ cồn khi Điều khiển phương tiện tham gia giao thông; chấp hành quy định xử phạt khi vi phạm hành chính về giao thông. Ứng xử có văn hóa giao thông còn thể hiện qua học thức, hiểu biết về văn hóa, xã hội của mỗi cá nhân. Ứng xử có văn hóa giao thông phải bắt đầu từ những việc nhỏ, từ những hành vi văn hóa đến xây dựng con người văn hóa, tạo nên thói quen cư xử như một chuẩn mực đạo đức truyền thống, biểu hiện văn minh, hiện đại của con người khi tham gia giao thông. 16