Luận văn Các tội phạm trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai trong luật hình sự Việt Nam (Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn trên địa bàn Thành phố Hà Nội)

pdf 130 trang vuhoa 25/08/2022 9760
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Các tội phạm trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai trong luật hình sự Việt Nam (Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn trên địa bàn Thành phố Hà Nội)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_cac_toi_pham_trong_linh_vuc_quan_ly_va_su_dung_dat.pdf

Nội dung text: Luận văn Các tội phạm trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai trong luật hình sự Việt Nam (Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn trên địa bàn Thành phố Hà Nội)

  1. ®¹i häc quèc gia hµ néi KHOA LUẬT l•¬ng duy hinh CÁC TỘI PHẠM TRONG LĨNH VỰC QUẢN LÝ VÀ SỬ DỤNG ĐẤT ĐAI TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM (Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn trên địa bàn thành phố Hà Nội) luËn v¨n th¹c sÜ luËt häc Hµ néi - 2013
  2. ®¹i häc quèc gia hµ néi KHOA LUẬT l•¬ng duy hinh CÁC TỘI PHẠM TRONG LĨNH VỰC QUẢN LÝ VÀ SỬ DỤNG ĐẤT ĐAI TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM (Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn trên địa bàn thành phố Hà Nội) Chuyên ngành : Luật Hình sự Mã số : 60 38 40 luËn v¨n th¹c sÜ luËt häc Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Trịnh Quốc Toản Hµ néi - 2013 2
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Lương Duy Hinh 3
  4. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt Danh mục các bảng MỞ ĐẦU 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI PHẠM TRONG LĨNH 7 VỰC QUẢN LÝ VÀ SỬ DỤNG ĐẤT ĐAI THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. Trật tự quản lý đất đai với tư cách là khách thể bảo vệ của luật 7 hình sự Việt Nam 1.2. Khái niệm và ý nghĩa của việc quy định các tội phạm trong 13 lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai trong luật hình sự 1.2.1. Khái niệm các tội phạm trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai 13 1.2.2. Ý nghĩa của việc quy định các tội phạm trong lĩnh vực quản lý 19 và sử dụng đất đai trong luật hình sự 1.3. Khái quát lịch sử pháp luật hình sự Việt Nam quy định về các 22 tội phạm trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai 1.3.1. Giai đoạn từ Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến trước khi 22 ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 1.3.2. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến trước 28 khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999 Chương 2: CÁC TỘI PHẠM TRONG LĨNH VỰC QUẢN LÝ VÀ SỬ 35 DỤNG ĐẤT ĐAI THEO BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 2.1. Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai 35 4
  5. 2.1.1. Dấu hiệu pháp lý của tội phạm 35 2.1.2. Hình phạt 52 2.2. Tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai 58 2.2.1. Dấu hiệu pháp lý của tội phạm 58 2.2.2. Hình phạt 70 2.3. Phân biệt các tội phạm trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất 73 đai với một số tội khác trong Bộ luật hình sự năm 1999 Chương 3: THỰC TIỄN XÉT XỬ CÁC TỘI PHẠM TRONG LĨNH 79 VỰC QUẢN LÝ VÀ SỬ DỤNG ĐẤT ĐAI TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI; MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG 3.1. Thực tiễn xét xử các tội phạm trong lĩnh vực quản lý và sử 79 dụng đất đai trên địa bàn thành phố Hà Nội 3.1.1. Đặc điểm tình hình vi phạm pháp luật và tội phạm trong lĩnh 79 vực quản lý và sử dụng đất đai trên địa bàn thành phố Hà Nội 3.1.2. Kết quả xét xử các tội phạm trong lĩnh vực quản lý và sử dụng 89 đất đai trên địa bàn thành phố Hà Nội 3.1.3. Những tồn tại, hạn chế trong xét xử các tội phạm trong lĩnh 95 vực quản lý, sử dụng đất đai trên địa bàn thành phố và những nguyên nhân của nó 3.2. Nhu cầu hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự về tội 101 phạm trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai và nâng cao hiệu quả áp dụng 3.3. Các giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự 105 về tội phạm trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai 3.3.1. Về dấu hiệu "đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn 105 vi phạm" 3.3.2. Về dấu hiệu "đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm" 107 3.3.3. Về các dấu hiệu: đất có diện tích "lớn", "rất lớn", "đặc biệt 108 5
  6. lớn"; đất có giá trị "lớn", "rất lớn", "đặc biệt lớn" và gây hậu quả "nghiêm trọng", "rất nghiêm trọng", "đặc biệt nghiêm trọng" 3.3.4. Về cấu trúc điều luật 109 3.3.5. Về khung hình phạt 110 3.3.6. Về hình phạt 110 3.3.7. Tăng cường hiệu lực và thực thi các quy định pháp luật hình sự 111 3.4. Một số giải pháp khác nhằm nâng cao hiệu quả xét xử các tội 113 phạm trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai trên địa bàn thành phố Hà Nội 3.4.1. Nâng cao chất lượng tiếp nhận, xử lý thông tin và hiệu quả 113 điều tra các tội phạm trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai 3.4.2. Nâng cao vai trò của Viện kiểm sát và chất lượng thực hành 114 quyền công tố 3.4.3. Nâng cao chất lượng xét xử của Tòa án 115 3.4.4. Thực hiện tốt một số biện pháp hỗ trợ phòng ngừa tội phạm 116 KẾT LUẬN 117 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 119 6
  7. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLHS : Bộ luật hình sự CNXH : Chủ nghĩa xã hội CTTP : Cấu thành tội phạm TAND : Tòa án nhân dân TANDTC : Tòa án nhân dân tối cao TNHS : Trách nhiệm hình sự VKSNDTC : Viện kiểm sát nhân dân tối cao UBND : Ủy ban nhân dân XHCN : Xã hội chủ nghĩa 7
  8. DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu Tên bảng Trang bảng 2.1 Phân biệt tội Vi phạm các quy định về quản lý đất đai với 74 tội Cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng 2.2 Phân biệt tội Vi phạm các quy định về quản lý đất đai với 75 các tội phạm tham nhũng 2.3 Phân biệt tội Vi phạm các quy định về sử dụng đất đai 78 với tội Sử dụng trái phép tài sản 3.1 Tình hình vi phạm pháp luật do Công an thành phố khám 82 phá, phát hiện 3.2 So sánh tình hình tội phạm vi phạm các quy định về quản 83 lý và sử dụng đất đai với tình hình tội phạm về trật tự quản lý kinh tế, tội phạm về chức vụ và tổng số tội phạm xảy ra trên địa bàn thành phố Hà Nội 3.3 Số vụ vi phạm các quy định về quản lý và sử dụng đất đai 86 đã khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử 3.4 So sánh giữa án xét xử sơ thẩm các tội phạm trong lĩnh 90 vực quản lý và sử dụng đất đai với tổng số án hình sự sơ thẩm, các tội phạm về trật tự quản lý kinh tế và các tội phạm về chức vụ trên địa bàn Hà Nội 3.5 Cơ cấu loại tội phạm trong lĩnh vực quản lý và sử dụng 91 đất đai trên địa bàn Hà Nội 3.6 So sánh kết quả giải quyết án phạm tội về sử dụng đất đai 92 trên địa bàn Hà Nội và cả nước 3.7 So sánh kết quả xét xử bị cáo phạm tội vi phạm các quy 93 định về sử dụng đất đai trên địa bàn Hà Nội và cả nước 3.8 Đặc điểm nhân thân người phạm tội vi phạm các quy 93 định về sử dụng đất đai trên địa bàn Hà Nội và cả nước 8
  9. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đặt ra những yêu cầu to lớn đối với công tác quản lý nhà nước về mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội, trong đó, quản lý về đất đai là một nội dung quan trọng liên quan tới các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình sử dụng đất của các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân. Những năm gần đây, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến vấn đề đất đai; ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh các mối quan hệ liên quan đến đất đai cho phù hợp với tình hình đổi mới của đất nước. Sự ra đời của Luật đất đai năm 2003 và các văn bản có liên quan góp phần không nhỏ trong việc quản lý "lĩnh vực nóng" và được coi là nhạy cảm này. Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, chúng ta cần thẳng thắn nhìn nhận vẫn còn không ít tồn tại, hạn chế nhất định trong công tác quản lý nhà nước về đất đai, như: công tác quản lý đất đai ở nhiều địa phương còn bị buông lỏng; ý thức và hiểu biết pháp luật đất đai của nhiều tổ chức, cá nhân còn hạn chế; tình trạng một bộ phận cán bộ, công chức, người có thẩm quyền trong các cơ quan nhà nước vì động cơ tư lợi cá nhân đã có hành vi làm trái, lợi dụng, lạm dụng chức vụ, quyền hạn dẫn đến gây ra nhiều hậu quả xấu về kinh tế - xã hội. Khi "tấc đất" ngày càng khẳng định giá trị là "tấc vàng", những sai phạm về đất đai cũng ngày càng nhiều hơn. Liên tục xảy ra những vụ án liên quan đến sai phạm trong quản lý và sử dụng đất đai thời gian qua, cho thấy loại tội phạm này đang có chiều hướng gia tăng và phức tạp. Sự phức tạp không chỉ thể hiện ở số người vi phạm, mức độ thiệt hại mà còn là sự cấu kết của một số cán bộ có chức, có quyền, với những thủ đoạn hết sức tinh vi, xảo quyệt. Nhiều vụ việc gây bức xúc trong dư luận cả nước, đủ yếu tố cấu thành tội phạm để truy cứu trách nhiệm hình sự, đòi hỏi cần có sự vào cuộc sát sao, mạnh mẽ của các cấp, các ngành, trong đó, không thể không kể đến vai trò của các cơ quan bảo vệ pháp luật cần phải nghiêm khắc xử lý. 9
  10. Thủ đô Hà Nội - trung tâm kinh tế, văn hóa, chính trị, khoa học kỹ thuật và giao lưu quốc tế của cả nước. Những năm gần đây, cùng với tác động của cơ chế thị trường và xu hướng đô thị hóa ở nhiều địa phương, trên địa bàn thành phố đang ngày càng gia tăng số vụ vi phạm về quản lý và sử dụng đất đai, mà đối tượng bao gồm cả đội ngũ cán bộ, công chức, người có thẩm quyền trong các cơ quan nhà nước cho đến mọi người dân. Yêu cầu trên đặt ra công tác quản lý và sử dụng đất đai một cách hiệu quả, hợp lý là mục tiêu quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của thành phố giai đoạn 2010 - 2020, tầm nhìn đến 2050 mà Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ XV đã đề ra. Để đạt được những mục tiêu đó, cần phải có sự phối hợp chặt chẽ của các cấp chính quyền, ban, ngành thành phố có liên quan. Bên cạnh việc tăng cường công tác tuyên truyền nâng cao ý thức chấp hành pháp luật về đất đai cho mọi tầng lớp nhân dân, phải đi đôi với việc xử lý nghiêm những trường hợp vi phạm; truy cứu TNHS đối với những vụ việc đã đủ yếu tố CTTP, nhằm lập lại trật tự kỷ cương ngay trong hệ thống các cơ quan nhà nước và tại các địa phương. Giải quyết tình trạng này là một vấn đề không đơn giản và nóng vội, yêu cầu chúng ta lần lượt chỉ ra từng nguyên nhân sâu xa và đưa ra những giải pháp đồng bộ mới có thể từng bước khắc phục được. Nhận thấy việc nghiên cứu về các tội phạm trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai thực sự mang tính cấp thiết không những về lý luận, mà còn là đòi hỏi của thực tiễn hiện nay. Để góp phần vào việc nâng cao hiệu quả công cuộc đấu tranh phòng, chống nhóm tội phạm này, tác giả chọn đề tài nghiên cứu: "Các tội phạm trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai trong Luật Hình sự Việt Nam (Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn trên địa bàn thành phố Hà Nội)" làm luận văn thạc sĩ luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài Xuất phát từ thực trạng về các tội phạm trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai trên phạm vi cả nước, cho đến nay đã có một số công trình nghiên cứu khoa học có liên quan đến đề tài, có thể kể đến: Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm), của TSKH.PGS. Lê Văn Cảm chủ biên (2007); 10
  11. Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm), của GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa chủ biên (2000); Tìm hiểu Luật hình sự Việt Nam, của PGS.TS. Kiều Đình Thụ (1998); Bình luận Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự năm 1999, của Nguyễn Ngọc Anh, Đỗ Khắc Hưởng (2010); Bình luận khoa học Bộ luật hình sự (Phần các tội phạm), của ThS. Đinh Văn Quế (2006); Pháp luật hình sự về các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, của Nguyễn Mai Bộ (2004) và nhiều công trình nghiên cứu khoa học khác Tuy nhiên, hiện vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu về các tội phạm trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai. Trong công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam hiện nay, nhất là khi thực hiện chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 theo Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị, vấn đề nghiên cứu chuyên sâu về từng lĩnh vực cần được làm sáng tỏ cả về mặt lý luận và thực tiễn là cơ sở cho việc hoàn thiện các quy định của pháp luật về đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung, các tội phạm trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai nói riêng, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực thi pháp luật. Nhìn chung, không chỉ ở Việt Nam mà nhiều quốc gia trên thế giới đều dựa trên các điều kiện về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội cụ thể để đưa ra những thiết chế pháp luật riêng cho mình nhằm đấu tranh phòng, chống tội phạm trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai. Chọn đề tài này tác giải mong muốn góp tiếng nói nhất định trong quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung, đẩy mạnh công tác đấu tranh phòng ngừa loại tội phạm này nói riêng trên địa bàn Hà Nội. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở lý luận và thực tiễn công tác đấu tranh phòng, chống các tội phạm trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai, nêu được thực trạng tình hình vi phạm cũng như công tác đấu tranh xử lý nhóm tội phạm này. Qua đó, chỉ ra được những vấn đề đang tồn tại, bất cập trong xử lý tội phạm; đề xuất những giải pháp mang tính đồng bộ, có hệ thống về công tác phòng, chống tội 11
  12. phạm trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai trên phạm vi cả nước nói chung và thành phố Hà Nội nói riêng cho phù hợp với sự phát triển của Thủ đô trong giai đoạn hiện nay, góp phần nâng cao tính khả thi trong quá trình áp dụng pháp luật trên thực tế. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ nghiên cứu những quy định của pháp luật liên quan đến các tội phạm trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai; phát hiện những tồn tại, bất cập trong những quy định của pháp luật cũng như thực tế đấu tranh phòng, chống tội phạm, để từ đó đưa ra những kiến nghị, giải pháp, đề xuất hợp lý. 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các tội phạm trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu của luận văn là thực tiễn công tác đấu tranh phòng, chống các tội phạm trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai (trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn đấu tranh xử lý trên địa bàn thành phố Hà Nội giai đoạn từ năm 2008 đến 2012). 5. Cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Cơ sở lý luận của đề tài là hệ thống các quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật; các quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về tăng cường pháp chế XHCN, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. 5.2. Cơ sở thực tiễn 12
  13. Cơ sở thực tiễn của luận văn là những bản án, quyết định của Tòa án về các tội phạm trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai; các báo cáo tổng kết, số liệu thống kê của các cơ quan có liên quan đến các tội phạm trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai trên địa bàn thành phố Hà Nội. 5.3. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu của đề tài là phương pháp luận biện chứng lịch sử, kết hợp một số phương pháp khác như: phương pháp phân tích - tổng hợp, phương pháp điều tra xã hội học, phương pháp nghiên cứu và xử lý thông tin, phương pháp thống kê, phương pháp lôgic, phương pháp khảo sát thực tế, phương pháp so sánh - đối chiếu, phương pháp phân tích - dẫn giải các quy định của pháp luật về đấu tranh phòng, chống các tội phạm trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai. 6. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn Đây là công trình chuyên khảo trong khoa học pháp lý Việt Nam ở cấp độ luận văn thạc sĩ luật học, nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống về thực trạng đấu tranh phòng, chống các tội phạm trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai (trên cơ sở nghiên cứu thực trạng đấu tranh xử lý trên địa bàn thành phố Hà Nội). Có thể xem những nội dung sau đây là những đóng góp mới về khoa học của luận văn: - Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận chung về các tội phạm trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai; - Đánh giá đúng thực trạng tình hình tội phạm trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai cả nước nói chung, trên địa bàn thành phố Hà Nội nói riêng. Phân tích, làm rõ những tồn tại và hạn chế trong xét xử các tội phạm trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai trên địa bàn thành phố Hà Nội và những nguyên nhân của nó; - Xác định sự cần thiết hoàn thiện các quy định pháp luật hình sự về tội phạm trong lĩnh vực quản lý, sử dụng đất đai và nâng cao hiệu quả áp 13
  14. dụng. Đồng thời đề xuất các giải pháp có tính khả thi nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật hình sự cũng như nhằm nâng cao hiệu quả đấu tranh chống, phòng ngừa các tội phạm trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai nói chung, trên địa bàn Hà Nội nói riêng. 7. Ý nghĩa của luận văn Kết quả nghiên cứu và những kiến nghị của luận văn có ý nghĩa quan trọng đối với việc nâng cao hiệu quả đấu tranh chống và phòng ngừa các tội phạm trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai trên phạm vi cả nước nói chung và thành phố Hà Nội nói riêng. Thông qua kết quả nghiên cứu và các kiến nghị, tác giả mong muốn đóng góp một phần vào kho tàng lý luận về luật hình sự, cũng như công cuộc đấu tranh phòng, chống nhóm tội phạm có tính phức tạp, nhạy cảm này. Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu, giảng dạy về khoa học pháp lý nói chung, khoa học luật hình sự nói riêng và cho các cán bộ thực tiễn đang công tác tại các cơ quan Công an, Viện kiểm sát, Tòa án, đặc biệt là trên địa bàn thành phố Hà Nội. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1. Những vấn đề chung về tội phạm trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai theo luật hình sự Việt Nam. Chương 2. Các tội phạm trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai theo Bộ luật hình sự năm 1999 và thực tiễn áp dụng. Chương 3. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định về tội phạm trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai trên địa bàn Hà Nội và nâng cao hiệu quả áp dụng. 14
  15. Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI PHẠM TRONG LĨNH VỰC QUẢN LÝ VÀ SỬ DỤNG ĐẤT ĐAI THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. TRẬT TỰ QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI VỚI TƯ CÁCH LÀ KHÁCH THỂ BẢO VỆ CỦA LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM Đất đai là một trong những bộ phận cấu thành lãnh thổ của mỗi quốc gia. Nói đến chủ quyền quốc gia, không thể không nhắc đến lãnh thổ, mà nền tảng pháp lý của nó chính là đất đai. Trong tiến trình lịch sử của xã hội loài người, con người và đất đai ngày càng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Đất đai tham gia vào tất cả các hoạt động của đời sống kinh tế, xã hội; là cơ sở hình thành làng mạc, khu đô thị, thành phố, các công trình công cộng, thể thao, văn hóa và các ngành sản xuất vật chất phục vụ cho nhu cầu của con người. Tuy nhiên, đối với từng ngành cụ thể trong nền kinh tế quốc dân, đất đai có vị trí khác nhau: là nguồn của cải, tài sản cố định; là thước đo nguồn lực giàu có của mỗi người, mỗi quốc gia; là sự bảo hiểm cho cuộc sống, bảo hiểm về tài chính thông qua sự chuyển nhượng của cải qua các thế hệ và là nguồn lực cho các mục đích sản xuất và tiêu dùng. Ở nước ta, việc quản lý đất đai đã được Đảng, Nhà nước đặc biệt quan tâm ngay từ những ngày đầu giành độc lập, thống nhất đất nước. Tại phần mở đầu của Luật Đất đai năm 1993 đã ghi: Đất đai là tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống, là địa bàn phân bố các khu dân cư, xây dựng các cơ sở kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh và quốc phòng. Trải qua nhiều thế hệ, nhân dân ta đã tốn bao công sức, xương máu mới tạo lập, bảo vệ được vốn đất đai như ngày nay [53]. 15
  16. Từ khi chuyển đổi nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCH thì nhu cầu sử dụng đất (nhất là đất đô thị) của người dân, các tổ chức kinh tế, chính trị, xã hội nhằm phục vụ cho việc phát triển đất nước là rất lớn. Cho nên, có nhiều vấn đề đã nảy sinh trong quá trình quản lý và sử dụng đất đai, như việc sử dụng đất không theo quy hoạch, kế hoạch đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt; sử dụng lãng phí, sử dụng không đúng mục đích hoặc vi phạm các quy định về giao đất, thu hồi, cho thuê, chuyển quyền, chuyển mục đích sử dụng, lấn chiếm đất đang diễn ra hết sức phức tạp. Có nơi, có lúc còn để xảy ra tình trạng buông lỏng quản lý dẫn đến hàng loạt các vi phạm nghiêm trọng trong việc sử dụng đất. Thực trạng này đặt ra cho Nhà nước phải quan tâm hơn trong công tác quản lý đất đai, tăng cường việc phát hiện, xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm, cố tình vi phạm và lợi dụng hoặc lạm dụng chức vụ, quyền hạn để vi phạm. Công tác đấu tranh phòng, chống các vi phạm nói chung, tội phạm nói riêng trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai nhằm giữ vững an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội luôn là đòi hỏi cấp bách trong sự nghiệp xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH của Đảng ta năm 1991 đã viết: "Kết hợp lực lượng chuyên trách, nửa chuyên trách, các cơ quan bảo vệ pháp luật với phong trào quần chúng. Kết hợp biện pháp phòng ngừa, giáo dục là cơ bản với trấn áp, trừng trị các loại tội phạm" [36]. Thực hiện nhiệm vụ quan trọng này, trước tiên phải xây dựng được một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, bảo đảm Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế XHCN. Theo đó, "pháp chế như là tính thiêng liêng của pháp luật, tính bền vững của các quy phạm pháp lý Pháp chế có mối quan hệ chặt chẽ với pháp luật, với bình đẳng và với sự tuân thủ luật pháp, không một ai, không một người nào có bất kỳ một đặc quyền nào trước pháp luật " [73, tr. 100-102]. Đến lượt mình, pháp chế bảo đảm sự ổn định và phát triển về mọi mặt của đời sống xã hội, bảo vệ vững chắc các thành quả của cách mạng, phục vụ đắc lực công cuộc đổi mới của xã hội. Pháp chế góp phần đưa pháp luật có hiệu lực, hiệu 16
  17. quả thực sự trong thực tiễn; mọi công dân không phân biệt địa vị xã hội, dân tộc, tôn giáo, giới tính, tuổi tác đều bình đẳng trước pháp luật; được pháp luật bảo đảm, bảo vệ các quyền của công dân. Ngược lại, pháp luật đòi hỏi sự tuân thủ nghiêm chỉnh của các chủ thể trong xã hội, khẳng định tính tối cao của Hiến pháp và các đạo luật, mọi chủ thể đều có nghĩa vụ phải chấp hành và phải xử sự phù hợp với pháp luật. Trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm vi phạm các quy định về quản lý và sử dụng đất đai, nhiệm vụ phòng ngừa tội phạm có ý nghĩa rất quan trọng, là một trong những điều kiện cơ bản để "ổn định xã hội, góp phần đẩy mạnh quá trình phát triển và tiến bộ xã hội, làm tiền đề cho sự nghiệp đổi mới đạt những kết quả vững chắc, là một bộ phận quan trọng trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng của nhân dân " [18, tr. 224-225]. Cùng với đó, một nhiệm vụ cũng vô cùng quan trọng, đó là phải tổ chức được mọi tầng lớp nhân dân, cùng các cơ quan bảo vệ pháp luật và các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, chính trị - xã hội, xã hội, đoàn thể tham gia vào cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm về đất đai, bảo đảm mọi hành vi xâm phạm đều bị phát hiện, xử lý nghiêm minh, kịp thời và đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, tránh làm oan - sai người vô tội. Đóng vai trò là một công cụ pháp lý quan trọng trong cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung, trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai nói riêng, phải kể đến Luật hình sự với tư cách là một ngành luật duy nhất trong hệ thống pháp luật của Nhà nước, có chức năng bảo vệ các quan hệ xã hội quan trọng thuộc các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân và trật tự xã hội; quy định những hành vi nguy hiểm cho xã hội nào là tội phạm, TNHS, hình phạt và các biện pháp pháp lý hình sự cần áp dụng đối với những người đã thực hiện các hành vi nguy hiểm cho xã hội đó. Song song với việc bảo vệ an ninh quốc gia, Luật hình sự còn bảo vệ các lợi ích khác của xã hội, đó là chế độ kinh tế, nền văn hóa, trật tự, an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân nhằm giữ vững pháp chế, kỷ cương và bảo đảm trật tự pháp luật XHCN. Trong đó, 17
  18. nhóm khách thể loại - các quan hệ xã hội thuộc lĩnh vực trật tự quản lý kinh tế được quy định và bảo vệ tại Chương XVI của Bộ luật hình sự (BLHS), còn trật tự quản lý đất đai là các quan hệ xã hội (khách thể) trực tiếp nằm trong số đó. Trật tự quản lý kinh tế là các quan hệ xã hội đảm bảo cho sự ổn định và phát triển của nền kinh tế quốc dân, nói cách khác, là sự quản lý của Nhà nước đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân bằng quyền lực của Nhà nước, thông qua pháp luật, chính sách, công cụ, môi trường, lực lượng vật chất và tài chính trên tất cả các lĩnh vực bao gồm tất cả các thành phần kinh tế. Nền kinh tế đó phải là "nền kinh tế độc lập, tự chủ trên cơ sở phát huy nội lực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế" được Nhà nước thực hiện bằng "chính sách phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa" [47, Điều 15]. Việc xác định một cách đầy đủ và chính xác nội hàm khái niệm "trật tự quản lý kinh tế" có ý nghĩa quan trọng trong việc quy định giới hạn các hành vi xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, tạo cơ sở pháp lý cho việc áp dụng các biện pháp bảo vệ trật tự quản lý kinh tế và đấu tranh phòng, chống các tội phạm trong lĩnh vực đó. Trên cơ sở khái niệm "trật tự quản lý kinh tế", chúng ta có thể đưa ra cách hiểu về "trật tự quản lý đất đai", đó là sự quản lý của Nhà nước về mọi mặt đối với đất đai bằng quyền lực của Nhà nước, thông qua pháp luật, chính sách, môi trường, lực lượng vật chất và tài chính, nhằm xác lập một trật tự kinh tế, chính trị, xã hội ổn định, bền vững, có tổ chức, đảm bảo cho việc quản lý, sử dụng, phát triển quỹ đất, khai thác các lợi ích từ đất, giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo và xử lý các vi phạm trong quản lý, sử dụng đất đai, hướng tới bảo vệ chế độ "đất đai thuộc sở hữu toàn dân" [46, Điều 17], do Nhà nước đại diện làm chủ sở hữu và “thống nhất quản lý" [46, Điều 18]. Là quan hệ xã hội cụ thể nằm trong nhóm quan hệ về "trật tự quản lý kinh tế" được điều chỉnh và bảo vệ bởi những quy phạm pháp luật nhất định của Nhà nước, "trật tự quản lý đất đai" được coi là điều kiện, cơ sở để Nhà nước quản lý vững chắc, an toàn, tiết kiệm và hiệu quả nguồn tài nguyên vô cùng quý giá. Đây là một chủ trương lớn, có tầm chiến lược quan trọng của 18
  19. mỗi quốc gia, bởi nó đóng vai trò làm tiền đề để hình thành một nền kinh tế quan trọng - nền kinh tế quốc dân, góp phần tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước, tạo việc làm, tạo môi trường sống cho dân cư, đồng thời còn đảm bảo cho việc nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng đất đô thị và nông thôn theo đúng quy hoạch và pháp luật. Cho nên, bằng cách này hay cách khác, dưới bất kỳ hình thức nào, việc đảm bảo sự ổn định, kỷ cương, tăng cường pháp chế trong quản lý và sử dụng đất đai không những là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN, của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Đến lượt mình, Nhà nước đòi hỏi tất cả các cơ quan, tổ chức, công dân phải tuân thủ nghiêm chỉnh pháp luật và các quy tắc XHCN. Cho nên, dưới góc độ pháp luật, tất cả các hành vi xâm phạm "trật tự quản lý đất đai" đều gây nên những thiệt hại nhất định cho Nhà nước, tổ chức, công dân và gây mất ổn định trật tự xã hội. Do đó cần thiết phải bị xử lý. Tùy theo tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi vi phạm mà áp dụng hình thức xử lý khác nhau, từ kỷ luật, xử phạt hành chính đến xử lý hình sự. Có thể nói, ngay từ khi giành được chính quyền, bên cạnh việc bảo vệ thành quả cách mạng, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến việc xây dựng và bảo vệ nền kinh tế của đất nước nói chung, các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực quản lý đất đai nói riêng không chỉ trên phương diện ban hành hàng loạt các văn bản có liên quan, mà còn có những biện pháp thiết thực để cụ thể hóa và đưa các văn bản đó vào thực tiễn cuộc sống. Từ Hiến pháp năm 1959 quy định: "đất hoang là của Nhà nước, đều thuộc sở hữu của toàn dân" [44 , Điều 12], Hiến pháp 1980: "Đất đai là của Nhà nước - đều thuộc sở hữu toàn dân" [45, Điều 19] và "Nhà nước thống nhất quản lý đất đai theo quy hoạch chung, nhằm bảo đảm đất đai được sử dụng hợp lý và tiết kiệm" [45, Điều 20]; đến Hiến pháp 1992 thì Nhà nước ta khẳng định nhất quán quan điểm: "đất đai là của Nhà nước, đều thuộc sở hữu toàn dân" [46, Điều 17], "Nhà nước thống nhất quản lý toàn bộ đất đai theo quy hoạch và pháp luật, bảo đảm sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả Tổ chức và cá nhân có trách nhiệm 19
  20. bảo vệ, bồi bổ, khai thác hợp lý, sử dụng tiết kiệm đất, được chuyển quyền sử dụng đất được Nhà nước giao theo quy định của pháp luật" [ 46, Điều 18]. Để bảo vệ "trật tự quản lý đất đai" với tư cách là khách thể quan trọng của Luật hình sự, ngay từ lần pháp điển hóa BLHS đầu tiên của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 1985, đã được quy định tại Điều 180 (thuộc Chương XIII- Các tội phạm về kinh tế). Tuy nhiên, quá trình áp dụng pháp luật và nhận thức dưới góc độ khoa học pháp lý cho thấy: việc xây dựng tên gọi của điều luật (Tội vi phạm các quy định về quản lý và bảo vệ đất đai) và mô tả các khách thể được ghi trong điều luật còn chung chung, chưa cụ thể, dẫn đến việc áp dụng pháp luật gặp nhiều khó khăn. Bên cạnh đó, chính sách hình sự và đường lối xử lý đối với người phạm tội tương đối nhẹ, không có sự phân biệt tội phạm và hậu quả pháp lý giữa chủ thể đặc biệt (người có chức vụ, quyền hạn) với chủ thể thường, do đó không đủ sức răn đe, phòng ngừa chung, thậm chí còn tạo kẽ hở cho một số cán bộ tha hóa, biến chất về đạo đức nghề nghiệp trong các cơ quan tố tụng hình sự lợi dụng để bao che, làm trái. Nhằm khắc phục những bất cập đó, trong lần pháp điển hóa BLHS năm 1999, nhà làm luật đã sửa lại tên, tách phạm vi điều chỉnh các quan hệ xã hội tại Điều 180 BLHS 1985 thành hai nhóm được quy định tại hai điều luật riêng biệt với tên gọi khác nhau: tội Vi phạm các quy định về quản lý đất đai (Điều 174) và tội Vi phạm các quy định về sử dụng đất đai (Điều 173). Sự thay đổi này của BLHS 1999 đã khắc phục được sự thiếu chính xác về học thuật khoa học pháp lý cũng như trong thực tiễn áp dụng pháp luật đối với các tội phạm về trật tự quản lý đất đai của Nhà nước; đảm bảo việc xử lý đúng người, đúng tội, tương xứng với tính chất, hậu quả của tội phạm đã xảy ra, góp phần từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật, xây dựng nhà nước pháp quyền, tăng cường pháp chế XHCN ở Việt Nam. 20