Luận văn Các tội phạm tình dục trong luật hình sự Việt Nam (Trên cơ sở số liệu thực tiễn tại địa bàn tỉnh Đắk Lắk)

pdf 89 trang vuhoa 23/08/2022 9340
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Các tội phạm tình dục trong luật hình sự Việt Nam (Trên cơ sở số liệu thực tiễn tại địa bàn tỉnh Đắk Lắk)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_cac_toi_pham_tinh_duc_trong_luat_hinh_su_viet_nam_t.pdf

Nội dung text: Luận văn Các tội phạm tình dục trong luật hình sự Việt Nam (Trên cơ sở số liệu thực tiễn tại địa bàn tỉnh Đắk Lắk)

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRỊNH VĂN TOÀN C¸C TéI PH¹M T×NH DôC TRONG LUËT H×NH Sù VIÖT NAM (Trªn c¬ së sè liÖu thùc tiÔn t¹i ®Þa bµn tØnh §¾k L¾k) LUÂṆ VĂN THAC̣ SI ̃ LUÂṬ HOC̣ HÀ NỘI - 2015
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRỊNH VĂN TOÀN C¸C TéI PH¹M T×NH DôC TRONG LUËT H×NH Sù VIÖT NAM (Trªn c¬ së sè liÖu thùc tiÔn t¹i ®Þa bµn tØnh §¾k L¾k) Chuyên ngành: Luâṭ hiǹ h sư ̣ và tố tuṇ g hiǹ h sư ̣ Mã số: 60 38 01 40 LUÂṆ VĂN THAC̣ SI ̃ LUÂṬ HOC̣ Cán bộ hướ ng dẫn khoa hoc̣ : PGS. TS. TRỊNH QUỐC TOẢN HÀ NỘI - 2015
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nghiên cứu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết lời cam đoan này đề nghị khoa luật xem xét để cho tôi có thể bảo vệ luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! Tác giả luận văn Trịnh Văn Toàn
  4. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tất Danh mục các bảng MỞ ĐẦU 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÁC TỘI PHẠM TÌNH DỤC TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 8 1.1. Khái niệm và đặc điểm của các tội phạm tình dục trong Luật hình sự Việt Nam 8 1.2. Khái quát lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam quy định về các tội phạm tình dục từ sau năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999 13 1.2.1. Giai đoạn từ sau năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 14 1.2.2. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999 21 1.3. Các tội phạm tình dục trong Bộ luật hình sự Liên bang Nga và Cộng hòa nhân dân Trung Hoa 24 1.3.1. Các tội phạm tình dục trong Bộ luật hình sự Liên bang Nga 24 1.3.2. Các tội phạm tình dục trong Bộ luật hình sự Cộng hòa nhân dân Trung Hoa 26 Chương 2: NHỮNG DẤU HIỆU PHÁP LÝ ĐẶC TRƯNG CỦA CÁC TỘI PHẠM TÌNH DỤC TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VÀ THỰC TIỄN XÉT XỬ CÁC TỘI PHẠM NÀY TRÊN ĐẠI BÀN TỈNH ĐẮK LẮK TỪ NĂM 2009 ĐẾN NĂM 2014 28 2.1. Những dấu hiệu pháp lý đặc trưng của các tội phạm tình dục trong Bộ luật hình sự Việt Nam 28
  5. 2.2. Đường lối xử lý đối với các tội phạm tình dục theo Bộ luật hình sự Việt Nam 32 2.3. Thực tiễn xét xử các tội phạm tình dục trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk trong giai đoạn từ năm 2009 đến năm 2014 34 2.3.1. Khái quát tình hình tội phạm nói chung ở tỉnh Đắk Lắk 34 2.3.2. Thực trạng tình hình xét xử các tội phạm tình dục trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk trong giai đoạn từ năm 2009 đến năm 2014 37 2.4. Một số tồn tại, hạn chế và các nguyên nhân cơ bản 51 2.4.1. Một số tồn tại, hạn chế 51 2.4.2. Các nguyên nhân cơ bản 58 Chương 3: NHU CẦU VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ CÁC TỘI PHẠM TÌNH DỤC VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG 65 3.1. Nhu cầu tiếp tục hoàn thiện quy định của Bộ luật hình sự hiện hành về các tội phạm tình dục và nâng cao hiệu quả áp dụng 65 3.2. Hoàn thiện quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về các tội phạm tình dục 68 3.3. Những giải pháp khác nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về các tội phạm tình dục 72 3.3.1. Tăng cường công tác giải thích, hướng dẫn các quy định của PLHS liên quan đến các tội phạm tình dục 72 3.3.2. Nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ, phẩm chất chính trị, đạo đức nghề nghiệp, tinh thần trách nhiệm của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân trong xét xử các vụ án phạm tội tình dục 72 3.3.3. Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật đối với tội phạm về tình dục 76 KẾT LUẬN 78 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 80
  6. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLHS : Bộ luật hình sự CNXH : Chủ nghĩa xã hội DCCH : Dân chủ cộng hòa LHS : Luật hình sự TAND : Tòa án nhân dân TANDTC : Nhân dân tối cao TNHS : Trách nhiệm hình sự TPTD : Tội phạm tình dục XHCN : Xã hội chủ nghĩa XHTD : Xâm hại tình dục
  7. DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu bảng Tên bảng Trang Bảng 2.1: Thống kê án hình sự sơ thẩm từ năm 2009-2014 35 Bảng 2.2: Thống kê án hình sự sơ thẩm từ năm 2009-2014 36 Bảng 2.3: Thống kê các vụ án tình dục trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk từ năm 2009- 2014 38 Bảng 2.4: Thống kê số lượng bị cáo trong các vụ án tình dục từ năm 2009 - 2014 39 Bảng 2.5: Thống kê độ tuổi của người phạm tội 48
  8. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Hơn hai mươi năm qua với những chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước đã thúc đẩy nền kinh tế - xã hội của nước ta phát triển. Đời sống nhân dân ngày được nâng cao rõ rệt. An ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội đang được giữ vững. Cùng với sự phát triển của đất nước nói chung, tình hình kinh tế, văn hóa - xã hội của tỉnh Đắk Lắk nói riêng trong những năm gần đây đã có những bước phát triển đáng kể trên tất cả các mặt. Tuy nhiên, nhiều mặt trái của xã hội cũng song song tồn tại, đó là sự xuất hiện của nhiều loại tội phạm mới như tội phạm công nghệ cao, tội phạm lan truyền virus HIV , và một trong những vấn đề mà xã hội đang quan tâm hiện nay là sự gia tăng các tội phạm tình dục. Theo Báo cáo số 35/BC-BTP về Kết quả tổng kết thực tiễn thi hành Bộ luật hình sự (BLHS) của Bộ Tư pháp ngày 12 tháng 02 năm 2015: Các hành vi xâm hại phụ nữ và trẻ em cũng có chiều hướng gia tăng, chủ yếu tập trung vào nhóm tội xâm hại tình dục như: hiếp dâm, hiếp dâm trẻ em, cưỡng dâm, cưỡng dâm trẻ em, giao cấu với trẻ em hoặc dâm ô với trẻ em. Ngoài ra, tình hình tội phạm cố ý gây thương tích cho phụ nữ là trẻ em (là nạn nhân của những hành vi bạo lực gia đình) cũng đáng báo động. Loại tội phạm mua bán, bắt trộm, đánh tráo trẻ em cũng diễn biến hết sức phức tạp gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến nhân phẩm, danh dự, tâm lý của nạn nhân. Người phạm tội thường lợi dụng sự nhẹ dạ của nạn nhân, hứa sẽ tìm việc làm, hứa sẽ trả thu nhập cao để lừa bán nạn nhân ra nước ngoài [3, tr.12]. Đắk Lắk là một tỉnh nằm ở trung tâm Tây nguyên, với 13.125,37 km, dân số gần 1,8 triệu người, có 44 dân tộc cùng đến đây sinh sống mang nhiều bản sắc văn hóa, tập tục khác nhau. Cùng với sự phát triển của các loại hình 1
  9. giải trí trò chơi, phim ảnh không lành mạnh và cùng với xu thế phát triển của xã hội cho nên tình hình tội phạm trong những năm gần đây ở tỉnh Đắk Lắk có chiều hướng gia tăng, cộng thêm việc dân di cư từ các tỉnh phía bắc vào nên việc quản lý con người cũng rất khó khăn. Là mảnh đất có nhiều bản sắc văn hóa đặc sắc, lịch sử, du lịch được các nơi biết đến, con người ở đây sống hiền lành, chất phát nhưng không có nghĩa là tình hình tội phạm sẽ không xảy ra nhiều. Thực tế mấy năm gần đây tình hình tội phạm nhất là tội phạm tình dục có xu hướng gia tăng trong cả nước nói chung, trong đó có Đắk Lắk nói riêng, chính vì thế đấu tranh chống các tội phạm này trong giai đoạn hiện nay là rất cần thiết nhất là đối với mảnh đất Tây Nguyên đầy nắng, gió này thì càng có ý nghĩa hơn. Do đó, việc xác định đúng tội danh, cũng như xác định đúng ranh giới giữa các vi phạm pháp luật với hành vi phạm tội mới có thể áp dụng pháp luật một cách đúng đắn, khách quan, đầy đủ và chính xác. Tuy nhiên, thực tiễn xét xử các vụ án hình sự cho thấy, các cơ quan tiến hành tố tụng còn gặp phải nhiều khó khăn, vướng mắc trong việc truy cứu TNHS. Việc người phạm tội không thể hiện râ nÐt c¸c ®Æc tr•ng cña yÕu tố cấu thành tội phạm cña lo¹i téi ph¹m cô thÓ mµ lại có nhiều yếu tố của các tội phạm khác nhau. VÒ vÊn ®Ò nµy, chóng ta cã thÓ thÊy rÊt râ ë nhãm téi x©m ph¹m về tình dục, như vừa dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân và dùng mọi thủ đoạn làm cho người bị hại lâm và tình trạng không còn khả năng làm chủ bản thân Đối với những vụ án thuộc những trường hợp này, đòi hỏi những người tiến hành tố tụng phải có trình độ lý luận cơ bản và vững chắc, trên cơ sở đánh giá, phân tích, tổng hợp từng yếu tố của vụ án, áp dụng các văn bản pháp luật liên quan một cách chính xác thì mới xét xử đúng người, đúng tội. Thực tiễn xét xử các vụ án hình sự cho thấy các cơ quan tiến hành tố tụng còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc trong việc định tội, đặc biệt là đối 2
  10. với nhóm tội phạm tình dục. Thời gian gần đây các tội phạm tình dục đang có xu hướng gia tăng, diễn biến phức tạp, làm ảnh hưởng tới tình hình trị an, xã hội với nhiều thủ đoạn tinh vi từ chủ thể thực hiện tội phạm. BLHS do Nhà nước ban hành quy định các hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm, tuy vậy những quy định này chỉ nêu lên các dấu hiệu đặc trưng cơ bản nhất của một cấu thành tội phạm, trong khi trên thực tế tội phạm xảy ra vô cùng phức tạp và đa dạng. Có khá nhiều trường hợp khi tập hợp các dấu hiệu thực tế của cấu thành tội phạm có những dấu hiệu giống nhau nên thường bị lúng túng gây nhiều tranh cãi trong việc định tội danh của TAND. Quá trình giải quyết vụ án một cách công minh, có căn cứ và đúng pháp luật, đồng thời bảo vệ một cách vững chắc các quyền và tự do của công dân bằng Luật hình sự là một trong những nguyên tắc trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện nay. Ý thức được tầm quan trọng đó, TAND tỉnh Đắk Lắk không ngừng đẩy nhanh tiến độ, nâng cao chất lượng giải quyết, xét xử các loại vụ án, phấn đấu không để xảy ra việc kết án oan người không có tội và bỏ lọt tội phạm, hạn chế tới mức thấp nhất các bản án, quyết định bị hủy, sửa do lỗi chủ quan của Thẩm phán, đảm bảo các quyết định của Tòa án đúng pháp luật, đầy đủ, rõ ràng, dễ hiểu, có sức thuyết phục cao và có tính khả thi. Tuy nhiên, trong thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm tình dục vẫn còn tồn tại những thiếu sót, hạn chế. Nguyên nhân chủ yếu là do quy định của BLHS còn hạn chế trong công tác đấu tranh phòng chống loại tội phạm này và một số ít trường hợp khi xét xử áp dụng không đúng, chưa xem xét đầy đủ tính chất, mức độ phạm tội nên dẫn đến việc định tội danh thiếu chính xác, việc hủy án, sửa án vẫn còn tồn tại ở các tội phạm tình dục. Với mong muốn nghiên cứu sâu các quy định của Luật hình sự (LHS) Việt Nam về các tội phạm tình dục và thực tiễn xử lý các tội phạm 3
  11. này trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk, từ đó đề xuất một số biện pháp góp phần hoàn thiện quy định của pháp luật, góp phần vào công tác đấu tranh, phòng chống các tội phạm này trong giai đoạn hiện nay, tác giả chọn đề tài: Các tội phạm tình dục trong Luật hình sự Việt Nam (Trên cơ sở số liệu thực tiễn tại địa bàn tỉnh Đắk Lắk). 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Tình hình nghiên cứu về công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm tình dục trong thời gian qua có thể phân chia thành các nội dung chủ yếu như sau: - Về sách giáo trình, sách chuyên khảo có thể kể đến: Sách giáo trình có “Giáo trình LHS Việt Nam (Phần các tội phạm)” của Khoa Luật, ĐHQGHN do GS.TSKH. Lê Cảm chủ biên), Nxb. ĐHQGHN, 2003, “Giáo trình LHS” của Trường Đại học Luật Hà Nội do GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa chủ biên, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2000; “Bình luận khoa học về BLHS Việt Nam năm 1999 - Phần các tội phạm” của Ths. Đinh Văn Quế, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 2003; Sách chuyên khảo “Định tội danh: Lý luận, hướng dẫn mẫu và 350 bài thực hành” của GS.TSKH. Lê Cảm và PGS.TS. Trịnh Quốc Toản, Nxb ĐHQGHN, 2011; “Tội phạm và TNHS”, của tác giả Trịnh Tiến Việt, Nxb. Chính trị Quốc gia Hà Nội, 2013; v.v - Về đề tài nghiên cứu khoa học, luận văn thạc sỹ có: “Xâm hại tình dục trẻ em ở Việt Nam – thực trạng và giải pháp” của tổ chức ILO năm 1999; “Tội hiếp dâm theo Luật hình sự Việt Nam” của tác giả Nguyễn Văn Thành, Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2009 Ngoài ra, có thể kể đến các bài vết đăng trên tạp chí, trên các báo mạng bàn về vấn đề xâm hại tình dục nói chung nhưng các tác giả trên chưa nghiên cứu một cách chuyên sâu về loại tội phạm này trên địa bàn tỉnh cụ thể, hơn nữa là trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk. Trong giai đoạn hiện nay, các loại tội phạm này cần được nghiên cứu sâu hơn, nhiều hơn để đáp ứng được công tác 4
  12. nghiên cứu và xét xử, đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và các tội phạm tình dục nói riêng. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài 3.1. Mục đích nghiên cứu của đề tài Nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cũng như thực tiễn pháp luật, thực tiễn áp dụng các quy định của LHS Việt Nam liên quan đến các tội phạm tình dục. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn về các tội phạm tình dục, luận văn đề xuất các kiến nghị, giải pháp hoàn thiện LHS và nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của BLHS năm 1999 về các tội phạm này trong thực tiễn. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài - Nghiên cứu những vấn đề chung về các tội phạm tình dục theo LHS Việt Nam và đường lối xử lý đối với nhóm tội phạm này. - Phân tích, đánh giá thực tiễn các quy định của BLHS năm 1999 về các tội phạm tình dục, từ đó rút ra những tồn tại, hạn chế của các quy định này. - Phân tích, đánh giá thực trạng áp dụng các quy định về các tội phạm tình dục trong BLHS năm 1999 của các TAND tỉnh Đắk Lắk từ năm 2009 đến 2014, rút ra những tồn tại, vướng mắc và nguyên nhân của nó. - Trên cơ sở phân tích sự cần thiết, những yêu cầu của việc hoàn thiện LHS quy định về các tội phạm tình dục, tác giả đề xuất các kiến nghị, giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định về loại tội phạm này. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn đúng như tên gọi của nó - Các tội phạm tình dục trong LHS Việt Nam (Trên cơ sở số liệu thực tiễn tại địa bàn tỉnh Đắk Lắk). 5
  13. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận về các tội phạm tình dục trong LHS Việt Nam và thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk trong giai đoạn từ năm 2009 đến năm 2014, từ đó chỉ ra những chủ trương, định hướng cơ bản trong việc hoàn thiện BLHS Việt Nam về các tội phạm tình dục, kiến nghị hoàn thiện, cũng như đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng quy định của BLHS nước ta về các tội phạm này. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mac - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, định hướng của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền, về chính sách hình sự, vấn đề cải cách tư pháp theo Nghị quyết Đại hội Đảng khóa VIII, IX, X,XI và Nghị quyết số 08 – NQ/TW ngày 02/10/2002; Nghị quyết số 49-NQ/TW, ngày 26/5/2005 về chiến lược cải cách Tư pháp đến năm 2020 của Bộ chính trị. Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin. Một số phương pháp cụ thể như: phương pháp thống kê, phân tích và tổng hợp số liệu dựa trên những bản án, quyết định, số liệu thống kê, báo cáo tổng kết của Tòa án các cấp. Phương pháp so sánh pháp luật để đối chiếu với các quy định của pháp luật với nhau nhằm tìm ra những điểm mới trong quá trình nghiên cứu. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn Đây là công trình chuyên khảo đầu tiên ở cấp luận văn thạc sĩ luật học, nghiên cứu hệ thống, toàn diện, đầy đủ về các tội phạm tình dục trong LHS Việt Nam. Kết quả nghiên cứu và những đề xuất được nêu trong luận văn, có ý nghĩa cho việc hoàn thiện BLHS hiện hành, làm phong phú thêm kho tàng lý luận về khoa học pháp LHS và đồng thời góp phần tăng cường 6
  14. hiệu quả trong đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và các tội phạm tình dục nói riêng. Luận văn này còn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho cán bộ làm công tác nghiên cứu, giảng dạy về khoa học pháp lý nói chung, khoa học LHS, tội phạm học và các cán bộ thực tiễn đang công tác tại các cơ quan bảo vệ pháp luật 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề chung về các tội phạm tình dục trong Luật hình sự Việt Nam. Chương 2: Những dấu hiệu pháp lý đặc trưng của các tội phạm tình dục trong Bộ luật hình sự Việt Nam và thực tiễn xét xử các tội phạm này trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk từ năm 2009 đến năm 2014. Chương 3: Nhu cầu và những giải pháp hoàn thiện quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về các tội phạm tình dục và nâng cao hiệu quả áp dụng. 7
  15. Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÁC TỘI PHẠM TÌNH DỤC TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. Khái niệm và đặc điểm của các tội phạm tình dục trong Luật hình sự Việt Nam Trong BLHS Việt Nam năm 1999, có ba điều luật (Điều 8, Điều 277 và Điều 292) đưa ra định nghĩa về khái niệm tội phạm. Điều 8 BLHS định nghĩa khái niệm chung về tội phạm; Điều 277 định nghĩa về khái niệm tội phạm về chức vụ và Điều 292 quy định khái niệm các tội phạm hoạt động tư pháp. Trong BLHS hiện hành không đưa ra định nghĩa khái niệm các tội phạm về tình dục [ 20]. Do đó, khái niệm các tội phạm tình dục hiện nay chỉ tồn tại trong các tài liệu, công trình nghiên cứu dưới dạng các khái niệm khoa học pháp lý, phản ánh quan điểm riêng của các nhà khoa học. Về mặt nhận thức chung, có thể hiểu bất kỳ một hành vi phạm tội nào đều hướng đến một mục đích riêng của người thực hiện hành vi phạm tội. Nó có thể là lợi ích vật chất, lợi ích về tinh thần hay lợi ích về kinh tế để người phạm tội bằng hành vi của mình (có thể bằng hành động hoặc không hành động) tác động một cách tiêu cực vào các quan hệ xã hội, các quyền của con người được pháp luật bảo vệ một cách hợp pháp và những hành vi ấy được nhà làm luật coi là tội phạm và phải chịu những biện pháp cưỡng chế về mặt hình sự. Cũng như các tội phạm khác, đối với các tội phạm tình dục, người phạm tội bằng hành vi của mình xâm hại đến quyền tự do về tình dục và quyền bất khả xâm phạm về tình dục đã được pháp luật bảo vệ hay chính là quyền tự do về thân thể, danh dự nhân phẩm của một con người cụ thể. Người thực hiện hành vi phạm tội đó là nhằm thỏa mãn nhu cầu sinh lý 8
  16. của mình, nhưng nhu cầu ấy là trái với ý muốn của người bị hại (người bị xâm hại). Vì thế, hành vi ấy đã vi phạm đến các quyền cơ bản của con người và cách cư xử của một cá nhân trong một môi trường xã hội văn minh không cho phép hành vi ấy xảy ra, bởi lẽ hành vi ấy chỉ có trong cách cư xử của của thú vật, của thời kỳ mông muội [9, tr.32]. Để có định nghĩa khoa học về các tội xâm phạm tình dục, cần phải nghiên cứu chỉ ra được các đặc điểm chủ yếu thể hiện bản chất của các tội phạm này. Nghiên cứu cho thấy nhóm tội phạm tình dục với tư cách là hiện tượng xã hội mang tính tiêu cực, các tội phạm tình dục của người khác như các hiện tượng xã hội khác, có nhiều các đặc điểm khác nhau. Mỗi một góc độ nghiên cứu, tiếp cận lại có thể rút ra những đặc điểm riêng của nhóm tội phạm này. Do vậy, để giới hạn lại vấn đề nghiên cứu, tác giả luận văn chỉ nêu lên những đặc điểm cơ bản của các tội phạm tình dục từ góc độ pháp lý, dựa trên nền tảng lý luận về các dấu hiệu của tội phạm nói chung. * Các tội phạm tình dục là những hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm phạm nhân phẩm, danh dự, tự do tình dục của người khác Khoa học LHS Việt Nam cho rằng: mọi tội phạm nói chung, trong đó có các tội phạm tình dục con người phải là hành vi của con người. Việc xác định tội phạm tình dục của con người phải là hành vi do con người thực hiện có ý nghĩa hết sức quan trọng. Theo đó, nguyên tắc “hành vi” trong LHS được xác lập và phản ánh vào trong thực tiễn phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm sức khỏe của người khác. Với nguyên tắc “hành vi”, Nhà nước ta nhấn mạnh đối tượng đấu tranh bằng LHS của Nhà nước không phải là các tư tưởng, ý nghĩ, ý đồ phạm tội. Những tư tưởng, ý nghĩ, ý đồ này tuy là lệch lạc, xấu xa song đó không phải là đối tượng đấu tranh, xử lý của LHS mà là đối tượng hướng đến để giải quyết của các giải pháp về tuyên truyền, giáo dục, cảm hóa hay các giải pháp về kinh tế - xã hội nói chung. 9
  17. Hành vi của con người không thể là tội phạm nếu nó chưa mang tính chất nguy hiểm đáng kể cho xã hội dưới những dạng nhất định. Do đó, các tội phạm tình dục con người phải là những hành vi nguy hiểm cho xã hội. Một hành vi được coi là nguy hiểm cho xã hội nói chung, phải có những đặc tính: Hành vi đó phải thực sự gây thiệt hại hoặc đe dọa trực tiếp gây thiệt hại cho một hoặc một số quan hệ xã hội cụ thể được LHS bảo vệ; hành vi đó có mức độ gây thiệt hại cho các quan hệ xã hội được LHS nêu trên phải “đáng kể”; hành vi đó phải không thuộc một trong các trường hợp được loại trừ TNHS. Như vậy, cơ sở để xác định một hành vi có phải là tội phạm tình dục hay không chính là việc trong bản thân hành vi đó có chứa đựng tính chất nguy hiểm cho xã hội hay không. Tính nguy hiểm cho xã hội của các tội phạm sức khỏe ở đây thể hiện qua việc hành vi phạm tội đã thực hiện gây thiệt hại cho nhân phẩm, danh dự, quyền tự do tình dục của người khác. Về lý thuyết, hành vi khách quan trong nhóm tội phạm tình dục của người khác chỉ có thể được thực hiện bằng hình thức là hành động phạm tội tích cực. * Các tội phạm tình dục được quy định trong BLHS Khoản 1 Điều 8 BLHS đã quy định rõ: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, được quy định trong BLHS ” [20, Điều 8]. Do đó, như mọi tội phạm khác, các tội phạm tình dục của người khác được quy định trong BLHS. Phần chung BLHS quy định dấu hiệu pháp lý chung của tội phạm. Phần các tội phạm BLHS quy định dấu hiệu pháp lý đặc trưng của các tội phạm tình dục cụ thể. Trước đây, trong BLHS năm 1985, các tội phạm tình dục được quy định trong Chương 2 Phần các tội phạm BLHS năm 1985. Hiện nay, các tội phạm tình dục của người khác được quy định từ Điều 111 đến Điều 116 BLHS năm 1999, đó là: 10
  18. - Tội hiếp dâm (Điều 111) - Tội hiếp dâm trẻ em (Điều 112) - Tội cưỡng dâm (Điều 113) - Tội cưỡng dâm trẻ em (Điều 114) - Tội giao cấu với người chưa thành niên (Điều 115) - Tội dâm ô với trẻ em (Điều 116) Như vậy, việc Nhà nước ta xác định các tội phạm tình dục của con người phải là những hành vi đã được quy định trong BLHS xâm hại tới khách thể được LHS bảo vệ, đó là quyền được bảo vệ về nhân phẩm, danh dự, tự do về tình dục của con người, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trên nhiều phương diện khác nhau. Trước hết, việc quy định này bảo đảm cơ sở pháp lý để các cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành cuộc đấu tranh với các tội phạm xâm phạm sức khỏe người khác có căn cứ pháp luật, trong giới hạn và trên cơ sở pháp luật, chống mọi hành vi tùy tiện trong việc xử lý người phạm tội, bảo đảm sự thống nhất trong quá trình triển khai các biện pháp đấu tranh, qua đó pháp chế XHCN được tăng cường. Mặt khác, việc thống nhất ghi nhận các tội phạm tình dục của người khác trong BLHS cũng góp phần khẳng định các cam kết quốc tế của Nhà nước Việt Nam trước cộng đồng thế giới về việc quyết tâm thực hiện các nghĩa vụ quốc gia khi tham gia các điều ước quốc tế về quyền con người của Liên Hợp quốc trên cả hai phương diện chủ thể: nạn nhân của hành vi xâm phạm sức khỏe con người và người đã gây ra hành vi phạm tội đó. * Các tội phạm tình dục được thực hiện bằng lỗi cố ý trực tiếp với mục đích giao cấu để thỏa mãn về mặt tình dục Lỗi hình sự là thái độ tâm lý của chủ thể đối với hành vi nguy hiểm 11
  19. cho xã hội của mình và đối với hậu quả của hành vi đó thể hiện dưới dạng cố ý hoặc vô ý. Mọi tội phạm đều phải là những hành vi có lỗi. Các tội phạm tình dục là những hành vi được thực hiện bằng lỗi cố ý trực tiếp. Đó là trường hợp người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến nhân phẩm, đến tự do tình dục của người khác, thấy trước được hậu quả của hành vi nhưng vẫn mong muốn hậu quả xảy ra. Dấu hiệu lỗi của người phạm các tội phạm về tình dục con người nói lên thái độ tâm lý chủ quan của họ. Chỉ đối với những người có lỗi, việc áp dụng hình phạt và các chế tài hình sự khác mới thực sự có ý nghĩa trừng trị, giáo dục và cải tạo, làm cho họ có ý thức và trách nhiệm hơn đối với sức khỏe của người khác trước khi thực hiện một sử sự cụ thể nào đó. * Các tội phạm tình dục do những người có năng lực TNHS và đủ tuổi chịu TNHS thực hiện Năng lực TNHS là điều kiện để một người có lỗi khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. Trong khoa học pháp lý hình sự Việt Nam, năng lực TNHS được hiểu là khả năng của một người nhận thức cũng như khả năng điều khiển được hành vi của mình khi tham gia các quan hệ xã hội. Người phạm các tội phạm về tình dục của người khác phải là người có năng lực TNHS và đạt độ tuổi chịu TNHS do luật định. Độ tuổi do luật định đối với người phạm các tội phạm tình dục được xác định tùy thuộc vào từng tội phạm xâm phạm tình dục con người cụ thể cũng như mức cao nhất của khung hình phạt mà BLHS quy định cho mỗi tội phạm đó, độ tuổi chịu TNHS được quy định khác nhau. Có trường hợp từ 16 tuổi trở lên, nhưng cũng có trường hợp từ đủ 14 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm về các tội phạm tình dục của người khác theo quy định tại Điều 12 của BLHS hiện hành. Từ sự phân tích về các đặc điểm chủ yếu của nhóm tội phạm tình dục 12
  20. của con người nêu trên, tham khảo quan điểm của các nhà khoa học, nhà nghiên cứu đã công bố, có thể rút ra định nghĩa khái niệm các tội phạm tình dục như sau: Các tội phạm tình dục là những hành vi nguy hiểm cho xã hội, được quy định trong BLHS, do người có năng lực TNHS và đủ tuổi chịu TNHS thực hiện bằng lỗi cố ý trực tiếp, xâm phạm quyền được bảo vệ về nhân phẩm, danh dự, tự do tình dục của con người được Hiến pháp và pháp luật ghi nhận, bảo vệ và việc xâm phạm trực tiếp đến quyền được bảo vệ về nhân phẩm, danh dự, tự do tình dục của con người phản ánh đầy đủ nhất bản chất của loại tội phạm này. 1.2. Khái quát lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam quy định về các tội phạm tình dục từ sau năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999 Nói về sự hình thành và phát triển của các LHS Việt Nam thì chúng ta có thể nói nó ra đời rất sớm, ngay từ khi có Nhà nước nhằm để quản lý đất đai, lợi ích của giai cấp thống trị. Chính vì thế, nhà nước nào cùng đặt ra các luật lệ kèm theo nó là các hình phạt nghiêm khắc nhất nhằm bảo vệ cho giai cấp và trừng trị người có tội và thông qua để răn đe những người đó. Nhìn vào lịch sử phong kiến xa xưa của VN, chúng ta có thể thấy các quy định của LHS qua các triều đại phong kiến từ Đinh, Lê, Lý, Trần, Nguyễn cùng với các BLHS của mỗi triều đại như Bộ luật hình thư (1042 của nhà Lý), Bộ Luật Quốc triều hình luật (của nhà Lê năm 1483), hay Hoàng việt luật lệ của nhà Nguyễn (1814). Nhưng trong phạm vi của luận văn tôi xin phép được nghiên cứu các giai đoạn hình thành và phát triển của pháp LHS Việt Nam quy định về các tội này từ năm 1945 trở lại đây. Vì thời điểm này có những bước ngoặt lịch sử lớn đánh dấu sự ra đời của nhà nước Việt nam DCCH năm 1945 và lịch sử lập pháp của nước ta cho đến nay cũng bắt đầu từ đây trải qua bao biến 13
  21. cố hào hùng của cả dân tộc đó là cuộc kháng chiến chống Pháp trường kỳ gian khổ và cuộc kháng chiến chống Mỹ vĩ đại của cả dân tộc Việt Nam và dân tộc ta đã đi đến thống nhất đất nước, đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cùng với nó là những tiền đề cho sự phát triển kinh tế - xã hội cũng đạt được nhiều thành tựu tiến bộ và các quy phạm thì ngày càng được hoàn thiện, trong đó các quy phạm pháp luật về hình sự quy định về các tội phạm tình dục ngày được phát triển và hoàn thiện dần. 1.2.1. Giai đoạn từ sau năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 * Từ năm 1945 đến 1954: Đây là giai đoạn cách mạng đánh dấu bước phát triển quan trọng của quá trình lập pháp hình sự. Sau khi cách mạng Tháng Tám thành công, chính quyền nhân dân non trẻ phải đối mặt với những khó khăn chồng chất. Nền kinh tế của đất nước vốn nghèo nàn, lạc hậu, trong khi đó các thế lực thù địch cấu kết dùng nhiều thủ đoạn thâm độc nhằm đánh đổ chính quyền nhân dân do Đảng, Chủ Tịch Hồ Chí Minh và nhân dân ta phải đánh đổi biết bao mồ hôi, xương máu mới giành được. Miền Nam được sự yểm trợ của quân Anh, Pháp xâm lược chiếm Sài Gòn, rồi sau đó các tỉnh Nam Bộ, Nam Trung Bộ. Trong những ngày đầu giành được chính quyền và liên tiếp thời gian sau đó, để ổn định an ninh trật tự trong điều kiện chưa xây dựng được hệ thống luật pháp hình sự, Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã ký lệnh ban hành hàng loạt sắc lệnh nhằm giải quyết những vấn đề phát sinh trước mắt. Theo giáo trình LHS Việt Nam của Trường Đại học Luật Hà Nội, nhà xuất bản Công an nhân dân, năm 2003, giai đoạn 1945 - 1954 có các văn bản sau: - Sắc lệnh số 21/SL, ngày 14/2/1946 trừng trị bọn phản cách mạng, bọn địa chủ cường hào ngoan cố; - Sắc lệnh số 26/SL, ngày 25/2/1946 trừng trị tội phá hoại cộng sản; 14
  22. - Sắc lệnh số 27/SL, ngày 28/2/1946 trừng trị tội bắt cóc, tống tiền, ám sát; - Sắc lệnh số 40/SL, ngày 29/3/1946 đảm bảo tự do cá nhân; - Sắc lệnh số 223/SL, ngày 20/01/1953 trừng trị tội xâm hại đến an toàn nhà nước; - Sắc lệnh số 150/SL và Sắc lệnh số 151/SL, ngày 12/04/1953 trừng trị địa chủ chống pháp luật; Ở giai đoạn này, LHS phải thực hiện nhiệm vụ chung là bảo vệ chính quyền nhân dân còn non trẻ, trừng trị bọn Việt Gian, phản động để phục vụ cuộc kháng chiến chống Pháp đi đến thắng lợi; trừng trị bọn địa chủ cường hào ngoan cố, các đối tượng hình sự lợi dụng xã hội nước ta còn chưa ổn định có hành vi gây phương hại đến chính quyền, tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, tài sản của nhân dân. Như vậy, sau cách mạng tháng Tám thành công, Nhà nước ta tuy còn rất non trẻ nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tích cực tiến hành hoạt động lập pháp hình sự. Và chỉ trong thời gian ngắn đã ban hành hàng loạt các văn bản quy phạm pháp LHS, đáp ứng yêu cầu giữ vững chính quyền nhân dân, góp phần xây dựng và phát triển lực lượng, chuẩn bị sẵn sàng bước vào cuộc kháng chiến lâu dài của cả nước. Bước vào thời kỳ toàn quốc kháng chiến, kể từ ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến (19/12/1946) đến ngày (20/7/1954), quân dân cả nước đã tiến hành cuộc kháng chiến ròng rã chín năm với nhiều đau thương mất mát và cuối cùng đã giành được thắng lợi: Đánh đuổi đế quốc Pháp ra khỏi đất nước, mở ra thời kỳ mới - Cách mạng xã hội chủ nghĩa Miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ ở Miền Nam. Nghiên cứu các văn bản quy phạm pháp LHS được ban hành trong thời kỳ này liên quan đến các tội xâm phạm tính mạng con người nói riêng và các qui định của LHS nói chung có một số đặc điểm như sau: 15