Luận văn Các tội phạm liên quan đến đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam (Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh)
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Các tội phạm liên quan đến đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam (Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_cac_toi_pham_lien_quan_den_danh_bac_theo_luat_hinh.pdf
Nội dung text: Luận văn Các tội phạm liên quan đến đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam (Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh)
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRỊNH CÔNG THƢƠNG CÁC TỘI PHẠM LIÊN QUAN ĐẾN ĐÁNH BẠC THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM (Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh) LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌc HÀ NỘI - 2015 1
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRỊNH CÔNG THƢƠNG CÁC TỘI PHẠM LIÊN QUAN ĐẾN ĐÁNH BẠC THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM (Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh) Chuyên ngành : Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số : 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: GS.TSKH Lê Văn Cảm HÀ NỘI - 2015 2
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi và tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về sự trung thực khoa học trong luận văn này. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. TÁC GIẢ LUẬN VĂN Trịnh Công Thƣơng 3
- MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt Danh mục các bảng MỞ ĐẦU 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÁC TỘI PHẠM LIÊN QUAN 8 ĐẾN ĐÁNH BẠC THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. Khái niệm và các đặc điểm cơ bản của các tội phạm liên quan 8 đến đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam 1.2. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của luật hình sự Việt 13 Nam quy định về các tội phạm liên quan đến đánh bạc cho đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999 1.2.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trước 13 khi pháp điển hóa lần thứ nhất luật hình sự - Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985 1.2.2. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 cho đến 19 trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999 Chương 2: CÁC TỘI PHẠM LIÊN QUAN ĐẾN ĐÁNH BẠC THEO 22 QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM NĂM 1999 VÀ THỰC TIỄN XÉT XỬ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 2.1. Các tội phạm liên quan đến đánh bạc theo Bộ luật hình sự năm 22 1999 hiện hành 2.1.1. Một số điểm mới sửa đổi bổ sung 22 2.1.2. Các yếu tố cấu thành của các tội phạm liên quan đến đánh bạc 29 theo Bộ luật hình sự năm 1999 hiện hành 4
- 2.2. Tình hình điều tra, truy tố, xét xử các tội phạm liên quan đến 47 đánh bạc T rên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh 2.3. Một số tồn tại, vướng mắc và nguyên nhân của thực trạng 58 2.3.1. Một số tồn tại trong thực tiễn công tác xét xử 58 2.3.2. Những vướng mắc khi giải quyết vụ án đánh bạc, tổ chức đánh 64 bạc hoặc gá bạc 2.3.3. Nguyên nhân của tồn tại, vướng mắc 72 Chương 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP 75 NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ CÁC TỘI PHẠM LIÊN QUAN ĐẾN ĐÁNH BẠC 3.1. Hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về các 75 tội phạm liên quan đến đánh bạc 3.1.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự 75 năm 1999 được sửa đổi bổ sung năm 2009 về các tội phạm liên quan đến đánh bạc 3.1.2. Nội dung sửa đổi, bổ sung cụ thể 76 3.2. Hoàn thiện các văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật về các 78 tội phạm liên quan đến đánh bạc 3.3. Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng quy định của pháp 82 luật hình sự về tội đánh bạc và tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh 3.3.1. Giải pháp về kinh tế - xã hội 83 3.3.2. Giải pháp về quản lý tổ chức 83 3.3.3. Giải pháp về văn hóa - giáo dục 85 3.3.4. Giải pháp khác 87 KẾT LUẬN 90 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 92 5
- DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLHS : Bộ luật hình sự TAND : Tòa án nhân dân TANDTC : Tòa án nhân dân tối cao TNHS : Trách nhiệm hình sự 6
- DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu Tên bảng Trang bảng 1.1 Thống kê về việc định tội danh, hình phạt, nguyên tắc xử 18 phạt, xử lý vật chứng về các tội phạm về đánh bạc của Nhà nước ta qua các giai đoạn xây dựng pháp luật 2.1 Tổng số vụ án, tổng số bị can công an Thành phố Hồ Chí 47 Minh đã khám phá khởi tố tội đánh bạc, tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc trong thời gian 05 năm (2009 - 2013) trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh 2.2 Tổng số vụ án, tổng số bị cáo đưa ra xét xử về tội đánh 48 bạc, tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc trên tổng số vụ án, tổng số bị cáo đưa ra xét xử trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian 05 năm (2009 - 2013) 2.3 Tổng số vụ án, bị cáo xét xử về tội đánh bạc, tổ chức 49 đánh bạc hoặc gá bạc trong mối tương quan với các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng trong 05 năm (2009-2013) trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh 2.4 Phân tích hình phạt và các biện pháp tha miễn TNHS và 50 áp dụng hình phạt đối với bị cáo phạm tội đánh bạc trong 05 năm (2009 - 2013) trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh 2.5 Phân tích hình phạt và các biện pháp tha miễn TNHS và 51 áp dụng hình phạt đối với bị cáo phạm tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc trong 05 năm (2009 - 2013) trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh 2.6 Phân tích đặc điểm nhân thân đối với bị cáo phạm tội 52 đánh bạc trong 05 năm (2009 - 2013) trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh 2.7 Phân tích đặc điểm nhân thân đối với bị cáo phạm tội tổ 53 chức đánh bạc hoặc gá bạc trong 05 năm (2009 - 2013) trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh 7
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài Trong công cuộc xây dựng đất nước, trong mỗi giai đoạn cụ thể để đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm mà nhà nước xây dựng, soạn thảo một chính sách hình sự phù hợp, có căn cứ và đảm bảo sức thuyết phục nhằm đấu tranh có hiệu quả với tình hình tội phạm. Tội phạm là một hiện tượng xã hội - pháp lý gắn liền với sự ra đời của nhà nước và pháp luật, cũng như với sự xuất hiện của sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và sự phân chia xã hội thành các giai cấp đối kháng [4, tr. 287]. Nghiên cứu lịch sử lập pháp của đất nước ta từ ngày giành được độc lập đến nay nhận thấy vấn đề bảo vệ an toàn công cộng, trật tự công cộng luôn được quan tâm, không ngừng đổi mới hoàn thiện nhằm phục vụ công tác phòng chống tội phạm. Trong điều kiện hiện nay việc xây dựng và quản lý trật tự xã hội cần phải được tiến hành từng bước, có sự tham khảo kinh nghiệm của các quốc gia khác cũng như kết hợp hài hòa yếu tố phòng ngừa và yếu tố xử lý nghiêm khắc các hành vi xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng. Bên cạnh việc dùng biện pháp hành chính, kinh tế, thuyết phục giáo dục thì biện pháp hình sự được xem là biện pháp cần thiết góp phần bảo vệ an toàn công cộng, trật tự công cộng. Theo quy định tại chương XIX của Bộ luật hình sự (BLHS) năm 1999 được sửa đổi bổ sung năm 2009 đối với các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng thì các tội phạm liên quan đến đánh bạc được quy định tại Điều 248 (Tội đánh bạc), Điều 249 (Tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc) của BLHS; Đây là sự kế thừa kinh nghiệm thực tiễn của BLHS năm 1985 tại Điều 200 ở Khoản 1, Khoản 2 đã quy định tội đánh bạc, tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc với mức hình phạt cao nhất đến bảy năm tù. Xuất phát từ lý do đánh bạc là một trong những tệ nạn xã hội làm phát sinh các tệ nạn xã hội khác và tội phạm này cần phải được xử lý nghiêm khắc với một mức hình phạt tương 8
- xứng với hành vi phạm tội. Đây là tội phạm xâm phạm nghiêm trọng đến an toàn công cộng, trật tự công cộng và hậu quả của nó đối với xã hội là vô cùng to lớn và diễn biến của nó ngày càng phức tạp. Chính vì vậy bên cạnh xử lý hành chính, pháp luật hình sự còn quy định đánh bạc, tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc là tội phạm và người vi phạm sẽ bị áp dụng mức chế tài nghiêm khắc nhất là hình phạt. Mặc dù BLHS hiện hành có quy định hành vi và mức hình phạt đối với các tội phạm liên quan đến đánh bạc tuy nhiên do sự đa dạng của các hình thức đánh bạc nên việc xác định hành vi nào cần phải được xử lý hình sự và mức hình phạt tương xứng với hành vi cũng không phải đơn giản. Đối với tội đánh bạc, tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc trong khoảng thời gian từ năm 2003 đến năm 2013 Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 33/2009/NQ-QH12 ngày 19/6/2009 về việc thi hành Luật sửa đổi bổ sung một số điều của BLHS và có hiệu lực ban hành và có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2010 (gọi tắt là Nghị quyết số 33), Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC) đã 3 lần hướng dẫn xử lý đối với loại tội phạm này bao gồm Nghị quyết số 02/2003/NQ-HĐTP ngày 17/4/2003, Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006, Nghị quyết số 01/2010/NQ-HĐTP ngày 22/10/2010; Ngoài ra TANDTC đã có Công văn số 105/2003/TANDTC-KHXX ngày 18/8/2003 về việc áp dụng Điều 248 của BLHS, công văn số 105/2009/ TANDTC-KHXX ngày 17/7/2009 của TANDTC về việc thi hành Khoản 2 Điều 1, Nghị quyết số 33/2009/NQ-QH12 của Quốc hội; Viện kiểm sát nhân dân tối cao có Công văn số 253/VKSTC-V8 ngày 04/02/2008 về việc trao đổi ý kiến áp dụng Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP ngày 25/5/2006 của Hội đồng thẩm phán TANDTC liên quan đến việc xác định trách nhiệm hình sự (TNHS) đối với hành vi chơi lô đề. Nhìn chung hướng dẫn của các cơ quan tư pháp Trung ương đã góp phần quan trọng vào công tác đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này nhưng quá trình thực hiện đã bộc lộ những hạn chế dẫn đến việc các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng nhận thức chưa đầy đủ về các quy 9
- định của BLHS và các văn bản hướng, thiếu thống nhất trong việc áp dụng các điều khoản cụ thể nên việc xử lý tội phạm còn chưa chính xác. Qua thực tiễn áp dụng áp dụng các quy định hiện hành về xử lý hành vi đánh bạc, tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc đã thể hiện sự bất cập cần có sự đánh giá để kiến nghị để hoàn thiện góp phần xử lý TNHS tội phạm đạt hiệu quả hơn. Do đó, việc tiếp tục nghiên cứu các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành về tội đánh bạc, tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc và thực tiễn áp dụng để làm sáng tỏ về mặt khoa học và đưa ra giải pháp hoàn thiện pháp luật và những giải pháp nâng cao hiệu quả của việc áp dụng những quy định đó không chỉ có ý nghĩa lý luận, thực tiễn và pháp lý quan trọng mà còn là lý do luận chứng cho sự cần thiết để chúng tôi lựa chọn đề tài "Các tội phạm liên quan đến đánh bạc theo Luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh)" làm luận văn thạc sĩ luật học. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trong thời gian qua, các nhà khoa học đã có một số công trình nghiên cứu về tội đánh bạc, tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc được đăng trong các giáo trình, sách tham khảo, các bài viết, bình luận như: a) Nguyễn Xuân Yêm, Về sự điều chỉnh pháp luật việc đấu tranh phòng chống tệ nạn xã hội, chính sách xã hội và những vấn đề pháp lý, Nxb khoa học xã hội, Hà Nội, 1994; GS.TS Nguyễn Ngọc Hòa, Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, của Trường Đại học Luật Hà Nội (Chương XXV - Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2000; GS.TS Nguyễn Xuân Yêm, TS. Phan Đình Khánh, Nguyễn Thị Kim Liên, Mại dâm, ma túy, cờ bạc, tội phạm thời hiện đại, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2003; Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm), của Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2003; Bình luận khoa học Bộ luật hình sự 1999 (Phần các tội phạm), của TS. Phùng Thế Vắc, TS. Trần Văn Luyện, ThS. Phạm Thanh Bình, TS. Nguyễn Đức Mai, 10
- ThS. Nguyễn Sĩ Đại, ThS. Nguyễn Mai Bộ, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2001; Bình luận khoa học Bộ luật hình sự, TS. Trần Minh Hưởng chủ biên, Nxb Lao động, Hà Nội. 2009; Tìm hiểu các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng và trật tự quản lý hành chính, TS. Nguyễn Đức Mai, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2014 ; b) Luận án tiến sĩ Phan Đình Khánh - Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh năm 2001, Tăng cường đấu tranh phòng chống tệ nạn xã hội bằng pháp luật ở Việt Nam; Luận văn thạc sĩ của Cao Thị Oanh, Trường Đại học Luật Hà Nội, Đấu tranh phòng chống các tội cờ bạc trên địa bàn thành phố Hà Nội, năm 2002; Luận văn Thạc sĩ của Bùi Minh Giang, Khoa Luật - Đại học quốc gia Hà Nội, Tội phạm đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam và thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Hòa Bình, năm 2013 ; c) Vấn đề hoàn thiện những quy định về các tội cờ bạc trong Bộ luật hình sự 1999, của Cao Thị Oanh, Tạp chí Tòa án nhân dân (TAND), số 01/2003; Về những vướng mắc khi áp dụng Điều 248, 249 Bộ luật hình sự 1999, của Lê Văn Hưng; Tạp chí TAND, số 14/2005; Những bất cập và một vài kiến nghị hoàn thiện đối với hướng dẫn áp dụng tội đánh bạc, của ThS. Thái Chí Bình, TAND thị xã Châu Đốc, tỉnh An Giang; Những vướng mắc khi xét xử hành vi ghi số đề trong tội đánh bạc theo Điều 248 Bộ luật hình sự, của Lê Văn Sua, Tạp chí TAND, số 13/2007 Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu trên chỉ đề cập đến các khía cạnh khác nhau của các tội phạm liên quan đến đánh bạc, chưa có có công trình nghiên cứu nào nghiên cứu một cách tương đối có hệ thống ở cấp độ luận văn thạc sĩ dưới góc độ pháp lý hình sự trên cơ sở thực tiễn tại địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. 3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích của luận văn là làm sáng tỏ một cách cụ thể, khoa học và có hệ thống về mặt lý luận những nội dung liên quan đến các tội phạm liên quan 11
- đến đánh bạc theo quy định của luật hình sự Việt Nam và đi sâu vào nghiên cứu thực tiễn xét xử các tội phạm này trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh, từ đó luận văn đề xuất các kiến giải lập pháp cũng như các giải pháp hoàn thiện pháp luật hình sự về các tội phạm liên quan đến đánh bạc. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ chủ yếu sau: - Về mặt lý luận: Trên cơ sở nghiên cứu lịch sử phát triển về mặt lập pháp của các tội phạm liên quan đến đánh bạc trong pháp luật hình sự Việt Nam, phân tích các khái niệm, các dấu hiệu pháp lý cơ bản trong cấu thành tội phạm của các tội phạm này và đường lối xử lý qua các giai đoạn từ năm 1945 cho đến nay. Từ đó làm sáng tỏ bản chất pháp lý đặc trưng của loại tội phạm này. - Về mặt thực tiễn: Trên cơ sở nghiên cứu, đánh giá thực tiễn việc xét xử và áp dụng các quy định có liên quan đến các tội phạm liên quan đến đánh bạc về định tội danh, quyết định hình phạt đồng thời phân tích những khó khăn, vướng mắc xung quanh việc quy định các dấu hiệu pháp lý cơ bản của tội phạm trên phương diện lý luận với thực tiễn áp dụng nhằm đề xuất các giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật hiện hành về các tội phạm này nhằm nâng cao hiệu quả phòng ngừa, xử lý tội phạm trong giai đoạn hiện nay. 3.3. Phạm vi nghiên cứu Luận văn nghiên cứu dưới góc độ pháp lý hình sự và thực tiễn xét xử các tội phạm liên quan đến đánh bạc trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh, trong thời gian 05 năm từ năm 2009 đến năm 2013. 4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phƣơng pháp nghiên cứu 4.1. Cơ sở lý luận Cơ sở lý luận của luận văn là hệ thống quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền, về chính sách hình sự, về 12
- vấn đề cải cách tư pháp được thể hiện trong các Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VIII, IX, X và các Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 26/5/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 của Bộ Chính trị, những thành tựu của các môn khoa học về triết học, tội phạm học, luật hình sự, những luận điểm trong các công trình nghiên cứu, sách chuyên khảo và các bài viết trên các tạp chí trong nước. 4.2. Cơ sở thực tiễn Dựa trên cơ sở thực tiễn những bản án, quyết định của Tòa án; các số liệu thống kê, báo cáo tổng kết của ngành Tòa án, Viện kiểm sát, công an Thành phố Hồ Chí Minh về các tội phạm liên quan đến đánh bạc. 4.3. Phƣơng pháp nghiên cứu Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả luận văn đã sử dụng các phương pháp cụ thể và đặc thù của khoa học luật hình sự như: phương pháp phân tích và tổng hợp; phương pháp so sánh, đối chiếu; phương pháp diễn dịch; phương pháp quy nạp; phương pháp thống kê, điều tra xã hội học để tổng hợp các tri thức khoa học luật hình sự và luận chứng các vấn đề tương ứng được nghiên cứu trong luận văn. 5. Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận văn Đây là công trình nghiên cứu ở cấp độ luận văn thạc sĩ luật học nghiên cứu tương đối toàn diện và tương đối có hệ thống về các tội phạm liên quan đến đánh bạc trên cả phương diện lý luận và thực tiễn áp dụng trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. Có thể xem những đóng góp sau đây là những đóng góp mới về khoa học của luận văn: - Xây dựng khái niệm tội đánh bạc, tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc và các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của các tội phạm này trong pháp luật hình sự hiện hành. 13
- - Đánh giá đúng thực tiễn xét xử các tội phạm liên quan đến đánh bạc trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh từ đó phân tích làm rõ nguyên nhân của tội phạm. - Đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật và một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng quy định của BLHS Việt Nam hiện hành về các tội phạm liên quan đến đánh bạc. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa quan trọng về phương diện lý luận và thực tiễn nhằm phân tích những tồn tại xung quanh việc nghiên cứu những vấn đề nảy sinh trong thực tiễn xét xử từ đó kiến nghị một số giải pháp nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật hình sự hiện hành về các tội phạm liên quan đến đánh bạc trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền và tiến trình cải cách tư pháp hiện nay ở Việt Nam. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề chung về các tội phạm liên quan đến đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam. Chương 2: Các tội phạm liên quan đến đánh bạc theo quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 và thực tiễn xét xử trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. Chương 3: Hoàn thiện pháp luật và một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về các tội phạm liên quan đến đánh bạc. 14
- Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÁC TỘI PHẠM LIÊN QUAN ĐẾN ĐÁNH BẠC THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. KHÁI NIỆM VÀ CÁC ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA CÁC TỘI PHẠM LIÊN QUAN ĐẾN ĐÁNH BẠC THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 (đã được sửa đổi bổ sung năm 2009) định nghĩa tội phạm tại Điều 8 như sau: Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa [29]. Khái niệm tội phạm đánh bạc là cụ thể hóa khái niệm tội phạm chung, qua nghiên cứu còn có những nhận xét đánh giá khác nhau cụ thể như sau: Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia thì: Đánh bạc là được thua bằng tiền hay lợi ích khác trên cơ sở một kết quả không hiển nhiên hoặc một biến cố xảy ra trong tương lai. Thông thường, các kết quả hay biến cố nói trên sẽ biết được rõ ràng trong thời gian ngắn. Ngoài ra, đánh bạc cũng được hiểu khác nhau tùy thuộc vào bối cảnh văn hóa, lịch sử [62]. Dưới góc độ xã hội học thì những hành vi đánh bạc là một trong những tệ nạn xã hội mà người ta thường gọi là tệ nạn cờ bạc. Tệ nạn xã hội luôn luôn là vấn đề của nhiều xã hội, để xã hội được ổn định và phát triển thì những nhà 15
- lãnh đạo phải luôn quan tâm đề ra những biện pháp để đấu tranh và từng bước đẩy lùi chúng. Theo GS,TS. Nguyễn Xuân Yêm: Tệ nạn xã hội là những hành vi vi phạm pháp luật, là những sai lệch chuẩn mực xã hội, có tính phổ biến, gây thiệt hại nghiêm trọng trong đời sống kinh tế - văn hóa - xã hội. Tệ nạn xã hội là một phạm trù bao gồm. Mại dâm, nghiện hút ma túy, cờ bạc, người lang thang, văn hóa phẩm đồi trụy [59, tr. 17]. Ở nước ta, hành vi đánh bạc đã xuất hiện lâu đời trong đời sống xã hội như một trò chơi giải trí, đặc biệt là trong những dịp hội hè, lễ tết. Gặp nhau trong tiệc cưới, trong đám tang người ta cũng thường đánh bạc để khuây khỏa thời gian nhằm tạo không khí vui vẻ, cởi mở, lành mạnh, một số cuộc họp mặt cũng thường tổ chức đánh bạc để góp trả tiền cho các khoản ăn, uống Cho nên đánh bạc thường xuất hiện như là một tập quán, một thói quen giao tiếp, giải trí của cộng đồng, là một phần nhu cầu của con người. Tuy nhiên, nếu đánh bạc không còn đơn thuần là giải trí mà nhằm mục đích ăn thua để chiếm đoạt tài sản nhau là hành vi vi phạm pháp luật cần phải được pháp luật Nhà nước điều chỉnh. Bởi hậu quả của tệ nạn này là gây mất trật tự trị an xã hội mà trực tiếp là trật tự công cộng là nguồn gốc dẫn đến các hành vi vi phạm pháp luật khác. Trong thời kỳ nền kinh tế bao cấp, tệ nạn cờ bạc được Đảng và Nhà nước quan tâm khống chế ở mức thấp, bằng những biện pháp hành chính, chính quyền đã làm cho tệ nạn này khó có điều kiện phát triển, song từ khi chuyển sang giai đoạn xây dựng nền kinh tế thị trường nhiều thành phần với chính sách mở cửa, tình trạng cờ bạc, nhất là hình thức đánh số đề có chiều hướng gia tăng. Ở một số lĩnh vực, địa phương tệ nạn cờ bạc phát triển cùng với tệ nạn tham nhũng, khiến cho việc đấu tranh đẩy lùi đối với tệ nạn này càng gặp nhiều khó khăn, trở ngại. 16
- Quan điểm cho rằng: "Đánh bạc là tham gia trò chơi có được thua bằng tiền hoặc tài sản dưới bất kỳ hình thức nào" [26, tr. 176]. Đây mới chỉ là định nghĩa hành vi đánh bạc, chưa làm rõ khái niệm tội đánh bạc. Theo Từ điển Luật học thì: Đánh bạc là (hành vi) tham gia vào trò chơi được tổ chức bất hợp pháp mà sự được (hoặc thua) kèm theo việc được (hoặc mất) lợi ích vật chất đáng kể (tiền, hiện vật hoặc các hình thức tài sản khác). Đánh bạc là hành vi nguy hiểm cho xã hội, không chỉ ảnh hưởng xấu đến gia đình và cá nhân người chơi mà còn có thể là nguyên nhân của tệ nạn xã hội và tội phạm khác [52, tr. 227]. Vậy vấn đề khi nào thì đánh bạc được xem là tội phạm phải điều chỉnh bằng pháp luật hình sự nên cần nghiên cứu nó trên cơ sở các dấu hiệu pháp lý đã nêu là thuộc về tội phạm. Ngày nay, việc tách riêng các tội về đánh bạc từ một điều luật thành hai điều luật, đồng thời đưa các dấu hiệu định tội vào các cấu thành tội phạm của từng điều luật của Nhà nước ta đã giúp cho việc phân biệt rạch ròi giữa các loại tội phạm cũng như tạo được một ranh giới cụ thể phân biệt đâu là quan hệ pháp luật hình sự, đâu là quan hệ pháp luật hành chính như quy định của BLHS năm 1999 đã tạo ra một bước tiến bộ hơn, khoa học hơn trong kỹ thuật lập pháp. Quá trình thi hành BLHS năm 1999, tương tự như các thời kỳ trước, các cơ quan pháp luật vẫn còn chưa đi đến thống nhất trong việc đưa ra một khái niệm hoàn chỉnh về hành vi của các tội phạm liên quan đến đánh bạc. Căn cứ vào hướng dẫn của Bản tổng kết số 9-NCPL thì khái niệm của các hành vi về đánh bạc được ghi nhận như sau: Hành vi đánh bạc: Là hành vi chơi có được thua bằng tiền mặt hay không dùng tiền mặt, nhưng thanh toán với nhau bằng tiền Hành vi tổ chức, chứa gá cờ bạc: Tổ chức, chứa gá cờ bạc là gây ra vụ đánh bạc, lôi cuốn người khác vào vòng phạm pháp để vụ 17
- lợi. Do đó, chỉ cần tổ chức chứa gá một đám bạc là đã cấu thành tội phạm. Động cơ trục lợi ở đây rất nguy hiểm, nó dẫn đến chứa gá nhiều canh bạc, sát phạt nhau to, kéo dài, đông người tham gia, để trục lợi được nhiều hơn Trường hợp có rủ rê người khác đánh bạc có tổ chức đánh bạc trong nhà mình, nhưng chỉ nhằm tạo cơ hội cho bản thân tham gia đánh bạc, thỏa mãn tính máu mê của mình. Trường hợp này chỉ xử phạt về hành vi đánh bạc, còn hành vi tổ chức, chứa bạc chỉ để cân nhắc, đánh giá tính chất con bạc và lượng hình Nếu không có yếu tố vụ lợi, cho đánh bạc trong nhà mình chỉ một vài lần và chỉ vì nể nang, cảm tình, hay tổ chức đánh bạc, chứa bạc để có đánh bạc, để có cơ hội đánh bạc thì hoặc không xử lý về hình sự, hoặc chỉ xử lý về hành vi đánh bạc như đã nói ở trên [38]. Những khái niệm trên trong một thời gian dài sử dụng đã có nhiều phát huy tác dụng, giúp cho quá trình vận dụng pháp luật được thuận lợi và có cơ sở pháp lý nhất định, song đến nay thì nó đã trở nên bất cập bởi nội dung của pháp luật hình sự hiện hành đã được thay đổi và khác quá xa các thời kỳ trước nhất là chính sách hình sự của Nhà nước đối với các tội phạm về đánh bạc ngày càng có xu hướng giảm nhẹ hơn so với các thời kỳ trước. Cụ thể nếu như Khoản 1, Điều 200 của BLHS năm 1985 - đã được phân tích là phần chế tài được xem là nhẹ nhất, chỉ quy định: "Người nào đánh bạc dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật thì bị phạt " [27], quy định này thể hiện sự nghiêm khắc của Nhà nước ở chỗ chỉ cần xác định là có hành vi đánh bạc mà không cần biết tiền và hiện vật có giá trị là bao nhiêu thì sẽ bị điều chỉnh bằng pháp luật hình sự. Trong khi đó ở Điều 248 BLHS năm 1999 được sửa đổi bổ sung năm 2009 quy định về tội đánh bạc là: Người nào đánh bạc dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi 18
- triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 249 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm [29]. Như vậy quy định của BLHS hiện hành nhẹ hơn ở chỗ để xác định hành vi đánh bạc thì phải thỏa các điều kiện được quy định tại Khoản 1 Điều 248 BLHS thì mới cấu thành tội Đánh bạc Theo Nghị quyết số 01/2010/HĐTP thì: Đánh bạc trái phép là hành vi đánh bạc được thực hiện hành vi dưới bất kỳ hình thức nào với mục đích được, thua bằng tiền hay hiện vật mà không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép hoặc được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép nhưng thực hiện không đúng với quy định trong giấy phép được cấp [45]. Tương tự như vậy khi so sánh Khoản 2, Điều 200 của BLHS năm 1985 với Điều 249 của BLHS năm 1999 quy định về tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc thì vẫn thấy quy định Điều 249 của BLHS hiện hành cũng nhẹ hơn thể hiện: Người nào tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc trái phép với quy mô lớn hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi quy định tại Điều này và Điều 248 của bộ luật này hoặc đã bị kết án về một trong các tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm thì bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến ba trăm triệu đồng hoặc phạt tù từ một năm đến năm năm [28]. Để xác định hành vi tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc thì phải thỏa mãn các điều kiện sau: - Người tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc phải với quy mô lớn. - Người có hành vi tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc tuy không không phải quy mô lớn nhưng trước đó đã bị xử lý hành chính về hành vi đánh bạc hoặc hành vi tổ chức đánh bạc hoặc hành vi gá bạc. 19
- - Người có hành vi tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc tuy không phải với quy mô lớn nhưng trước đó đã bị kết án về tội đánh bạc hoặc tội tổ chức đánh bạc hoặc tội gá bạc mà chưa được xóa án tích, lại còn vi phạm. Tuy vậy khi so sánh Điều 249 của BLHS năm 1999 với các khái niệm được hướng dẫn ở Bản tổng kết số 9-NCPL thì động cơ vụ lợi của tội tổ chức đánh bạc và gá bạc (Điều 249) không phải là dấu hiệu bắt buộc. Điều này dẫn dấn đối tượng bị truy cứu TNHS về tổ chức đánh bạc và gá bạc có mở rộng hơn so với thời kỳ trước (trước cả BLHS năm 1985). Cho đến nay ngoài Bản tổng kết số 9 thì ta vẫn chưa có văn bản pháp luật nào hướng dẫn cụ thể, đầy đủ về các khái niệm của các tội về đánh bạc. 1.2. KHÁI QUÁT LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM QUY ĐỊNH VỀ CÁC TỘI PHẠM LIÊN QUAN ĐẾN ĐÁNH BẠC CHO ĐẾN TRƢỚC KHI BAN HÀNH BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 1.2.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trƣớc khi pháp điển hóa lần thứ nhất luật hình sự - Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985 Về mặt xã hội: Đánh bạc là một trò chơi tiêu khiển được biểu hiện một cách trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua nhiều loại hình khác nhau. Ngoài ra, đánh bạc cũng được hiểu khác nhau tùy thuộc vào bối cảnh văn hóa, lịch sử. Tuy nhiên, tùy mỗi giai đoạn lịch sử mà nhà làm luật cho đó là hành vi phạm tội hay không phải là hành vi phạm tội. Trong thời kỳ thực dân Pháp thống trị nước ta, nhằm thực hiện chính sách nô dịch ngu dân để dễ cai trị và với mục đích làm phai nhòa lý tưởng đấu tranh dành độc lập của nhân dân ta, đặc biệt là gây tâm lý tự ty, vong bản, đầu độc tư tưởng trong thế hệ trẻ, nhà nước Pháp đã cho phép mở các tiệm hút, chích á phiện, cờ bạc, cũng như cho phép các sòng bài được tự do mở trên đất nước ta. Ở Thành phố Hồ Chí Minh, trước đây là Sài Gòn đã từng có sòng bài rất lớn gọi là Đại Thế Giới, tổ chức trên địa bàn Quận 5 nay là Nhà Văn hóa Quận 5. Ngoài ra, tại các phủ, huyện trước đây thuộc Sài Gòn, chính quyền 20
- Pháp cho tuyển người từ trong giáo dân hoặc lớp tú tài, cử nhân cam tâm theo chúng để đặt cạnh các viên tri phủ, tri huyện làm chức Tham biện Huyện vụ thực hiện nhiệm vụ thu các loại thuế trong đó có cả loại thuế sòng bạc với định mức thu rất nặng. Nhân dân thì bất luận già, trẻ, tàn tật mỗi người phải nộp một quan năm tiền và phải phụ thêm một quan: Dân xã Minh Hương mỗi năm phải nộp hai lạng bạc, người Thanh phải nộp thêm hai quan. Gái điếm mỗi thị phải nộp 10 quan mỗi tháng. Người Thanh lập phố để nấu a phiến, mở sòng bạc thì phải nộp từ 2000 đến 5000 quan [61, tr. 33]. Sau khi giành được độc lập, ngày 2-9-1945, trong bản Tuyên ngôn độc lập. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chính thức tuyên bố với thế giới "thoát ly hẳn quan hệ thực dân với Pháp, xóa bỏ những hiệp ước mà Pháp đã ký về nước Việt Nam ". Tuy vậy, dù bản chất chế độ mới hoàn toàn đối lập với bản chất chế độ thực dân phong kiến, nhưng hệ thống pháp luật của nước ta không thể trong một thời gian ngắn có thể ban hành đầy đủ trên mọi lĩnh vực nên ngày 10-10-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh quy định "Điều thứ 1: Cho đến khi ban hành những bộ luật pháp duy nhất cho toàn cõi nước Việt Nam, các luật lệ hiện hành ở Bắc, Trung, Nam bộ vẫn tạm thời giữ nguyên như cũ, nếu những luật lệ ấy không trái với những điều thay đổi ấn định trong sắc lệnh này". Đây là những luật pháp đã được ban hành trong thời kỳ thuộc địa thực dân, phong kiến trong đó có BLHS và tố tụng hình sự. Một mặt vẫn giữ lại, áp dụng một số chế định cũ còn chứa đựng các yếu tố tích cực, mặt khác từng bước xây dựng và hoàn chỉnh các chế định luật cần thiết đáp ứng nhu cầu thực tiễn. Dần dần trong quá trình xây dựng Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, các văn bản về pháp luật hình sự về từng loại tội phạm mới, lần lượt được ban hành bằng các Sắc lệnh của Chủ tịch Hồ Chí Minh [22, tr. 5-6]. Các quy định về các tội đánh bạc, tổ chức đánh bạc, gá bạc ở nước ta được các văn bản pháp luật ghi nhận, ban hành từ năm 1948 đến trước khi pháp điển hóa lần thứ nhất luật hình sự gồm: 21