Luận văn Các tội phạm được thực hiện trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh theo luật hình sự Việt Nam
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Các tội phạm được thực hiện trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh theo luật hình sự Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_cac_toi_pham_duoc_thuc_hien_trong_trang_thai_tinh_t.pdf
Nội dung text: Luận văn Các tội phạm được thực hiện trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh theo luật hình sự Việt Nam
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ HẰNG CÁC TỘI PHẠM ĐƯỢC THỰC HIỆN TRONG TRẠNG THÁI TINH THẦN BỊ KÍCH ĐỘNG MẠNH THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI – 2015
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ HẰNG CÁC TỘI PHẠM ĐƯỢC THỰC HIỆN TRONG TRẠNG THÁI TINH THẦN BỊ KÍCH ĐỘNG MẠNH THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: GS.TS ĐỖ NGỌC QUANG HÀ NỘI – 2015
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! TÁC GIẢ LUẬN VĂN NGUYỄN THỊ HẰNG
- MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt Danh mục các bảng MỞ ĐẦU 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÁC TỘI PHẠM THỰC HIỆN TRONG TRẠNG THÁI THẦN KINH BỊ KÍCH ĐỘNG MẠNH THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 6 1.1. Các khái niệm có liên quan 6 1.1.1. Khái niệm trạng thái tinh thần bị kích động mạnh 6 1.1.2. Khái niệm các tội phạm thực hiện trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh 10 1.1.3. Các dấu hiệu nhận biết tội phạm thực hiện trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh 10 1.2. Phân biệt tội phạm thực hiện trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh với một số trường hợp phạm tội khác 17 1.2.1. Với trường hợp phạm tội bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của người khác gây ra quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự 17 1.2.2. Với trường hợp phạm tội do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng 18 1.3. Quá trình phát triển của Luật hình sự Việt Nam quy định về tội phạm thực hiện trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh 20
- 1.3.1. Giai đoạn từ cách mạng tháng 8 năm 1945 đến trước khi pháp điển hóa Bộ luật hình sự 1985 20 1.3.2. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985 đến trước khi pháp điển hóa Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 22 1.3.3. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 đến nay 25 1.4. Quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam 1999 về các tội phạm thực hiện trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh 27 1.4.1. Các quy định chung về tội phạm thực hiện trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh 27 1.4.2. Các quy định riêng về các tội phạm thực hiện trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh 33 Chương 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ CÁC TỘI PHẠM THỰC HIỆN TRONG TRẠNG THÁI TINH THẦN BỊ KÍCH ĐỘNG MẠNH VÀ NHỮNG KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT 39 2.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về các tội được thực hiện trong tình trạng thần kinh bị kích động mạnh từ năm 2010 đến 2014 39 2.1.1. Tình hình xét xử của Tòa án về các tội phạm thực hiện trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh 39 2.1.2. Những nguyên nhân làm phát sinh những tồn tại trong thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về các tội phạm thực hiện trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh 52 2.2. Những kiến nghị, giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về các tội phạm thực hiện trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh 58
- 2.2.1. Quan điểm của Đảng và chính sách hình sự của Nhà nước Việt Nam trong xử lý các tội phạm thực hiện trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh 58 2.2.2. Hoàn thiện pháp luật hình sự về các tội phạm thực hiện trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh 61 2.2.3. Bồi dưỡng kiến thức nhằm nâng cao trình độ những người tiến hành tố tụng giải quyết vụ án có tình tiết phạm tội trong tình trạng thần kinh bị kích động mạnh 65 2.2.4 Áp dụng án lệ vào hoạt động xét xử của Tòa án 66 2.2.5. Tuyên truyền giáo dục pháp luật và giải quyết các mâu thuẫn trong nhân dân 67 KẾT LUẬN 69 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 71
- DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự CTTP: Cấu thành tội phạm HĐTP: Hội đồng thẩm phán HSPT: Hình sự phúc thẩm HSST: Hình sự sơ thầm TANDTC: Tòa án nhân dân tối cao TNHS: Trách nhiệm hình sự VKS: Viện kiểm sát VKSND: Viện kiểm sát nhân dân
- DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu bảng Tên bảng Trang Bảng 2.1: Số lượng vụ án hình sự và số lượng bị cáo được đưa ra xét xử về tội giết người trong tình trạng thần kinh bị kích động mạnh 40 Bảng 2. 2: Số lượng vụ án hình sự và số lượng bị cáo được đưa ra xét xử về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho người kháctrong tình trạng thần kinh bị kích động mạnh 42
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Pháp luật hình sự Việt Nam qua cả hai lần pháp điển hóa đều ghi nhận việc thực hiện tội phạm trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh. Tại Bộ luật hình sự 1985 việc thực hiện tội phạm trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh được thể hiện tại khoản 3 Điều 101 về tội giết người và khoản 4 Điều 109 về tội cố ý gây thương tích. Đến Bộ luật hình sự 1999 các tội phạm thực hiện trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh đã được tách ra thành những điều luật độc lập ghi nhận tại Điều 95 và Điều 105. Bộ luật hình sự 1999 so với Bộ luật hình sự 1985 có một số thay đổi nhưng bản chất của các tội phạm này liên quan đến việc thực hiện việc phạm tội trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh vẫn giữ nguyên. Tuy nhiên ở cả hai bộ luật tại phần chung vẫn chưa ghi nhận khái niệm pháp lý thế nào là thực hiện tội phạm trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh, các dấu hiệu của chúng để phân biệt với việc thực hiện tội phạm trong trạng thái tinh thần bị kích động do hành vi trái pháp luật của người bị hại hoặc của người khác gây ra tại khoản 1 Điều 46. Do vậy việc nghiên cứu để hoàn thiện là một việc cần thiết. Việc áp dụng pháp luật liên quan đến vấn đề này trên thực tế không dễ dàng. Việc phân biệt trường hợp phạm tội trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh với trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của người bị hại hoặc do người khác gây ra (khoản 1 Điều 46) và với trường hợp phạm tội vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng đòi hỏi phải có sự quy định rõ ràng, cụ thể về các vấn đề pháp lý trên. Việc không phân biệt rõ ràng cũng như không hiểu rõ bản chất của việc thực hiện tội phạm trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh sẽ gây ra nhiều vướng mắc, lúng túng và áp dụng không thống nhất các quy định của Bộ luật hình sự trong hoạt động xét xử của Tòa án. Từ đó ảnh hưởng đến việc xử lý tội phạm công minh, đúng người, đúng tội. 1
- Việc tiếp tục nghiên cứu các quy định pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành về các tội phạm thực hiện trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh để làm sáng tỏ về mặt khoa học và đưa ra các giải pháp hoàn thiện, nâng cao hiệu quả áp dụng những quy định đó không chỉ có ý nghĩa lý luận, thực tiễn, pháp lý quan trọng mà còn là lý do luận chứng cho sự cần thiết để Tôi lựa chọn đề tài “Các tội phạm được thực hiện trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh theo Luật Hình sự Việt Nam” làm luận văn thạc sĩ luật học. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài Thực hiện tội phạm trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh vừa là dấu hiệu định tội vừa là hình thức hoạt động thể hiện sự đánh giá về mặt pháp lý đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội. Do đó, ở trong và ngoài nước đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học ở những mức độ khác nhau, những khía cạnh, những phương diện khác nhau về vấn đề này. Ở cấp độ luận văn thạc sỹ có các đề tài của các tác giả Đoàn Văn Lâm “Các tội xâm phạm tính mạng con người trong luật hình sự Việt Nam, Hà Nội, 2013.Ở cấp độ luận án tiến sĩ có các đề tài của các nhà nghiên cứu Đỗ Đức Hồng Hà “Tội giết người trong Bộ luật hình sự Việt Nam” luận án tiến sĩ. Tiến sĩ Trần Văn Luyên (2000) “Các tội xâm phạm tính mạng con người trong luật hình sự Việt Nam” Nxb chính trị quốc gia.Bên cạnh đó, về giáo trình, sách chuyên khảo, bình luận có các công trình sau: Lê Cảm (chủ biên 2001), Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần chung), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, (tái bản lần thứ nhất – 2003); Lê Cảm (chủ biên 2003), Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Đỗ Ngọc Quang, Trịnh Quốc Toản, Nguyễn Ngọc Hòa (1997) Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần chung), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội; Võ Khánh Vinh (chủ biên) giáo trình luật hình sự Việt Nam (phần các tội phạm) Nxb Công an nhân dân, Hà Nội 2005; Đinh Văn Quế, Bình luận khoa học luật hình sự (phần các tội phạm) tập I, 2
- Nxb TP. HCM 2003; Lê Cảm “một số vấn đề lý luận chung về định tội danh Chương XXXI – giáo trình Luật hình sự Việt Nam, Nxb CAND, Hà Nội; Trường đại học Luật Hà Nội (2008) giáo trình Luật hình sự Việt Nam (phần các tội phạm) Nxb DHQGHN, Hà Nội. Trên cơ sở khảo sát cho thấy ở nước ta đã có một số công trình nghiên cứu về tội phạm thực hiện trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh nhưng chưa được xem xét riêng với tư cách là một dấu hiệu định tội mà chỉ tập trung phân tích các cấu thành tội phạm cũng như hình phạt áp dụng hoặc nghiên cứu chúng trong hệ thống các tội phạm xâm phạm về tính mạng, sức khỏe. Các nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở khái niệm mà chưa đi sâu nghiên cứu các dấu hiệu nhận biết thực hiện tội phạm trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh. Như vậy, tình hình nghiên cứu trên đây một lần nữa cho phép khẳng định việc nghiên cứu đề tài “Các tội phạm được thực hiện trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh theo Luật Hình sự Việt Nam” là đòi hỏi khách quan, cấp thiết, vừa có tính lý luận vừa có tính thực tiễn. 3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của đề tài Mục đích nghiên cứu của luận văn là nghiên cứu các quy định của pháp luật về các tội phạm thực hiện trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh dưới khía cạnh lập pháp hình sự và áp dụng chúng trong thực tiễn, từ đó luận văn đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định đó, cũng như đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng trên thực tế. Từ mục đích trên luận văn có những nhiệm vụ chỉ yếu sau đây: - Từ cơ sở tổng hợp các quan điểm của các tác giả trong và ngoài nước về các tội phạm thực hiện trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh luận văn nghiên cứu một số vấn đề như: khái niệm;Các dấu hiệu nhận biết trạng thái tinh thần bị kích động mạnh;Phân biệt tinh thần bị kích động mạnh với 3
- tinh thần bị kích động (khoản 1 Điều 46); Phân biệt tội phạm thực hiện trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh với trường hợp phạm tội vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng. - Khái quát sự phát triển của việc ghi nhận thực hiện tội phạm trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh trong lịch sử lập pháp của Việt Nam từ 1945 đến nay; - Nghiên cứu những quy định cụ thể về hai tội: tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (Điều 95 BLHS 1999) và tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (Điều 105 BLHS 1999); - Nghiên cứu, đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định về thực hiện tội phạm trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh. Đồng thời làm rõ những hạn chế xung quanh việc áp dụng và những nguyên nhân của nó; - Đề xuất những định hướng và giải pháp hoàn thiện các quy định về thực hiện tội phạm trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh trong BLHS Việt Nam hiện hành và nâng cao hiệu quả áp dụng trên thực tiễn. Phạm vi nghiên cứu của luận văn tập trung vào nghiên cứu và giải quyết những vấn đề xung quanh các tội phạm thực hiện trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh,cụ thể phân tích hai tội phạm có liên quan: tội giết người trọng trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (Điều 95) và tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (Điều 105) trong thời gian từ 2010 đến 2014. 4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng mác- xít, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng và nhà nước ta về xây dựng nhà nước pháp quyền, về chính sách hình sự, về vân đề cải cách tư pháp thể hiện trong các nghị quyết của Đại hội Đảng. 4
- Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả luận văn đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể và đặc thù của khoa học luật hình sự như: phương pháp phân tích tổng hợp; phương pháp so sánh; phương pháp quy nạp; phương pháp diễn dịch; phương pháp thống kê; phương pháp xã hội học . để tổng hợp các tri thức khoa học và luận chứng các vấn đề nghiên cứu trong luận văn. 5. Những đóng góp và điểm mới của luận văn Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa quan trọng về phương diện lý luận và thực tiễn. Giải quyết nhiều vấn đề liên quan đến các tội phạm thực hiện trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh. Thông qua việc nghiên cứu chúng dưới góc độ là một dấu hiệu định tội 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 2 chương: Chương 1. Những vấn đề chung về các tội phạm thực hiện trong trạng thái thần kinh bị kích động mạnh theo Luật hình sự Việt Nam. Chương 2. Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về các tội phạm thực hiện trong trạng thái thần kinh bị kích động mạnh và những kiến nghị, đề xuất. 5
- Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÁC TỘI PHẠM THỰC HIỆN TRONG TRẠNG THÁI THẦN KINH BỊ KÍCH ĐỘNG MẠNH THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. Các khái niệm có liên quan 1.1.1. Khái niệm trạng thái tinh thần bị kích động mạnh Để chủ thể định tội nhận thức đúng các dấu hiệu của CTTP, các dấu hiệu của chúng phải được mô tả chính xác, rõ ràng trong Bộ luật hình sự năm 1999. Sự mô tả các dấu hiệu CTTP của từng tội phạm cụ thể trong Bộ luật hình sự năm 1999 giúp cho chủ thể định tội thực hiện tốt công việc của mình, trong đó có mục đích rất quan trọng là xác định sự khác nhau giữa tội phạm này với tội phạm khác. Vì thế, CTTP phải có tính đặc trưng. Khi mô tả các dấu hiệu của CTTP, nhà làm luật phải hết sức chú ý đến đặc điểm này của CTTP. Hầu hết các tội phạm trong Bộ luật hình sự năm 1999 được các nhà làm luật mô tả một cách chính xác, rõ ràng, giúp cho chủ thể định tội nhận thức đúng đắn sự khác nhau giữa tội phạm này với tội phạm khác. Tuy nhiên, trong Bộ luật hình sự năm 1999 vẫn còn một vài tội phạm mà tính đặc trưng của chúng chưa rõ khiến cho chủ thể định tội gặp khó khăn khi xác định một hành vi là phạm tội này hay tội khác. Minh chứng cụ thể là CTTP của hai tội: Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (Điều 95 của Bộ luật hình sự năm 1999) và Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn tại cho sức khoẻ của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (Điều 105 của Bộ luật hình sự năm 1999). Cả hai CTTP của hai tội đều chứa đựng dấu hiệu “trạng thái tinh thần bị kích động mạnh” Việc xác định một người có bị kích động mạnh về tinh thần hay không là một vấn đề phức tạp. Trạng thái tâm lý của mỗi người khác nhau, cùng một sự việc nhưng người này xử sự khác người kia; có người bị kích động 6
- về tinh thần, thậm chí "điên lên", nhưng cũng có người vẫn bình thường, thản nhiên như không có chuyện gì xảy ra [22, tr.27]. Và cách xử sự của mỗi người cũng rất khác nhau. Hiện nay có nhiều quan điểm về trạng thái tinh thần bị kích động mạnh. Có quan điểm cho rằng, tình trạng tinh thần bị kích động mạnh là tình trạng (tâm lý) không hoàn toàn tự chủ, tự kiềm chế được hành vi của mình [11, tr.193]; [32, tr.74]. Gần giống với quan điểm này là quan điểm cho rằng, trạng thái tinh thần bị kích động mạnh là tình trạng ý thức bị hạn chế ở mức độ cao do không chế ngự được tình cảm dẫn đến sự hạn chế đáng kể khả năng kiểm soát và điều khiển hành vi [15, tr.247]. Như vậy, hai quan điểm nói trên đều thừa nhận trạng thái tinh thần bị kích động mạnh là trạng thái mà tâm lý bị ức chế ở mức độ cao dẫn đến nhận thức bị hạn chế làm giảm đáng kể khả năng điều khiển hành vi, nhưng vẫn còn khả năng điều khiển hành vi của mình. Quan điểm thứ ba lại coi trạng thái tinh thần bị kích động mạnh là trạng thái của một người không còn nhận thức đầy đủ về hành vi của mình như lúc bình thường, nhưng chưa mất hẳn khả năng nhận thức. Lúc đó, họ mất khả năng tự chủ và không thấy hết được tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình; trạng thái tinh thần của họ gần như người điên (người mất trí). Đây là cơ sở để phân biệt với trường hợp phạm tội do tinh thần bị kích động [22, tr.56-57]. Theo quan điểm này, người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh dù chưa mất hoàn toàn khả năng nhận thức, nhưng đã mất khả năng tự chủ - khả năng kiềm chế và điều khiển hành vi của mình. Theo quan điểm thứ ba thì khả năng kiềm chế và điều khiển hành vi của họ mất và có thể coi họ là một trong những trường hợp không có năng lực trách nhiệm hình sự. Điều 13 của Bộ luật hình sự năm 1999 quy định “nếu một người mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác (nguyên nhân khách quan) mà dẫn đến mất khả năng nhận thức hoặc mất khả năng điều khiển hành vi, thì 7
- được xem là người không có năng lực trách nhiệm hình sự” [26, Điều 13]. Người phạm tội trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh có nguyên nhân xuất phát từ người bị hại. Như vậy, có thể coi việc họ mất khả năng tự chủ và điều khiển hành vi là nguyên nhân ngoài ý muốn của họ. Nếu xem họ mất khả năng nhận thức và điều khiển hành vi, họ sẽ không chịu trách nhiệm hình sự về hành vi nguy hiểm của mình theo quy định của Điều 13 của Bộ luật hình sự 1999. Như vậy, hai quan điểm đầu sẽ là hợp lý hơn tức là một người phạm tội trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh là người dù chịu tác động mạnh mẽ về mặt tâm lý nhưng khả năng nhận thức vẫn còn, nghĩa là khả năng kiềm chế và điều khiển hành vi của họ vẫn còn. Theo quy định của pháp luật thì cho đến hiện tại hướng dẫn về trạng thái tinh thần bị kích động mạnh mới chỉ có tại Nghị quyết số 04/HĐTP ngày 29.11.1986 của HĐTP TANDTC, mà chưa có một khái niệm hay hướng dẫn cụ thể nào khác. Theo hướng dẫn của nghị quyết trên thì: Tình trạng tinh thần bị kích động mạnh là tình trạng người phạm tội không hoàn toàn tự chủ, tự kiềm chế được hành vi phạm tội của mình. Nói chung, sự kích động mạnh đó phải là tức thời do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân gây nên sự phản ứng dẫn tới hành vi giết người. Nhưng cá biệt có trường hợp do hành vi trái pháp luật của nạn nhân có tính chất đè nén, áp bức tương đối nặng nề, lặp đi lặp lại, sự kích động đó đã âm ỷ, kéo dài, đến thời điểm nào đó hành vi trái pháp luật của nạn nhân lại tiếp diễn làm cho người bị kích động không tự kiềm chế được; nếu tách riêng sự kích động mới này thì không coi là kích động mạnh, nhưng nếu xét cả quá trình phát triển của sự việc, thì lại được coi là mạnh hoặc rất mạnh. Trong trường hợp cá biệt hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân cấu thành tội phạm nhưng là tội 8
- phạm ít nghiêm trọng (như tội làm nhục người khác, tội vu khống) thì cũng được coi là giết người trong tình trạng tinh thần bị kích động mạnh [26]. Người bị kích động về tinh thần là người không còn nhận thức đầy đủ về hành vi của mình như lúc bình thường, nhưng chưa mất hẳn khả năng nhận thức. Trạng thái này chỉ xảy ra trong chốc lát, sau đó tinh thần của họ trở lại bình thường như trước. Do vậy có thể hiểu trong trường hợp bình thường họ không phạm tội mà trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh họ phạm tội thông qua mức độ nhận thức của họ trong lúc này. Bình thường, họ nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm, nhận thức được hậu quả nguy hiểm cho xã hội và nhận thức được điều đó là sai, trái pháp luật, phải gánh lấy trách nhiệm pháp lý nên họ kiềm chế hành vi của mình. Tuy nhiên, trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh, mức độ nhận thức của họ giảm đi đáng kể. Họ vẫn có thể nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội ở mức độ nào đó, nhận thức một cách khái quát về hậu quả mà họ không quan tâm đến, không nhận thức được hành vi của mình là trái pháp luật cũng như không nhận thức được sẽ phải gánh lấy hậu quả pháp lý từ hành vi của mình. Thực tế đó làm giảm đi đáng kể khả năng tự chủ và điều khiển hành vi của mình (chứ không phải mất hẳn khả năng đó) và hành vi phạm tội xảy ra. Ví dụ vụ án: Do tranh chấp lối đi giữa hai nhà, Nguyễn Văn T đã xông vào nhà hàng xóm chửi bới và đánh gãy tay bà Phan Thị H. Con trai bà H là Đặng Minh D vừa đi làm về thấy mẹ bị đánh ngất xỉu và nghe sự việc em gái kể lại đã không kiềm chế được chạy vào bếp lấy con dao đâm Nguyễn Văn T một nhát làm người này chết trên đường đi cấp cứu. Ví dụ trên đây cho thấy anh Đặng Minh D đã không hoàn toàn tự chủ, kiềm chế được hành vi phạm tội của mình do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân (chửi bới và đánh gãy tay) đối với người thân thích là mẹ của D. 9
- Từ những phân tích trên có thể rút ra khái niệm thế nào là trạng thái tinh thần bị kích động mạnh: “Trạng thái tinh thần bị kích động mạnh là trạng thái một người không hoàn toàn tự chủ, tự kìm chế được hành vi của mình một cách tức thời do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân đối với họ hoặc người thân thích của họ gây nên sự phản ứng dẫn đến hành vi vi phạm pháp luật” 1.1.2. Khái niệm các tội phạm thực hiện trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh Như đã phân tích ở trên thì trạng thái tinh thần bị kích động mạnh là tình trạng không còn nhận thức đầy đủ về hành vi của mình, nhưng chưa mất hẳn khả năng nhận thức; khả năng tự chủ và tự điều khiển hành vi bị hạn chế ở mức độ cao. Trong phần các tội phạm của Bộ luật hình sự 1999 thì việc thực hiện tội phạm trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh được ghi nhận ở hai Điều luật (Điều 95 – Giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh và Điều 105 - Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác) tại Chương về các tội phạm xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người. Theo đó, cấu thành định tội của hai tội phạm này đều phải thỏa mãn các dấu hiệu sau: Thực hiện tội phạm trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh là người phạm tội thực hiện những hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm các quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ một cách có lỗi trong trạng thái không nhận thức đầy đủ được hết tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội từ hành vi của mình. Hành vi nguy hiểm cho xã hội là hành vi đã gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại đáng kể đến các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Mà cụ thể ở trường hợp thực hiện tội phạm trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh là đe dọa gây ra thiệt hại đến tính mạng và sức khỏe của con 10
- người được quy định tại Điều 95 và Điều 105 Bộ luật hình sự 1999. Hành vi nguy hiểm này được thực hiện trong trạng thái người phạm tội không hoàn toàn kiềm chế và điều khiển được hành vi của mình bởi hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân. Hậu quả mang lại là nạn nhân bị chết hoặc thương tật trên 31%. Người thực hiện tội phạm trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh phải là người đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và đủ năng lực nhận thức, điều khiển hành vi của mình. Lỗi là thái độ tâm lý của một người đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội và hậu quả của hành vi đó dưới hình thức cố ý hoặc vô ý. Trường hợp thực hiện tội phạm trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh thì lỗi ở đây phải là lỗi cố ý.Vì người phạm tội không kiềm chế, điều khiển được hành vi của mình nhưng vẫn chưa mất khả năng nhận thức. Khi thực hiện tội phạm người phạm tội vẫn nhận biết được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội nhưng có thái độ mong muốn hoặc bỏ mặc cho hậu quả xảy ra. Như vậy, từ các phân tích trên có thể kết luận: Các tội phạm thực hiện trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh là các tội phạm được ghi nhận tại phần riêng của Bộ luật hình sự mà cụ thể là tội Giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh và tội Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh được quy định tại Điều 95 và Điều 105 Bộ luật hình sự 1999. Các tội phạm này vừa phải đáp ứng các dấu hiệu của tội phạm được quy định tại Phần chung Bộ luật hình sự vừa phải có đầy đủ các dấu hiệu của tinh thần bị kích động mạnh. 1.1.3. Các dấu hiệu nhận biết tội phạm thực hiện trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh Dấu hiệu định tội là những dấu hiệu đặc trưng điển hình, phản ánh được đầy đủ tính chất nguy hiểm của một tội phạm và để phân biệt tội phạm 11
- này với tội phạm khác. Đó là những dấu hiệu được quy định trong cấu thành tội phạm cơ bản của một tội phạm cụ thể được quy định trong phần các tội Bộ luật hình sự. Trạng thái tinh thần bị kích động mạnh được coi là một dấu hiệu định tội của hai tội: Giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (Điều 95 Bộ luật hình sự 1999) và tội Cố ý gây thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (Điều 105 Bộ luật hình sự 1999). Để xem xét, đánh giá một người có thực hiện tội phạm trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh hay không thì cần dựa vào các dấu hiệu nhận biết sau: Thứ nhất, phải có hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân. Hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân, trước hết bao gồm nhưng hành vi vi phạm pháp luật hình sự, xâm phạm đến lợi ích của người phạm tội hoặc đối với những người thân thích của người phạm tội. Những người thân thích là những người có quan hệ huyết thống, quan hệ hôn nhân như: vợ đối với chồng; cha mẹ với con cái; anh chị em ruột, anh chị em cùng cha khác mẹ đối với nhau; ông bà nội ngoại đối với các cháu v.v Trong thực tiễn xét xử Tòa án cũng đã công nhận một số trường hợp tuy không phải là quan hệ huyết thống hay quan hệ hôn nhân mà chỉ là quan hệ thân thuộc cũng được xác định là người thân thích của nhau ví dụ như mối quan hệ giữa con rể với bố mẹ vợ Thông thường những hành vi trái pháp luật của nạn nhân xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của người phạm tội và những người thân thích của người phạm tội, nhưng cũng có một số trường hợp xâm phạm đến tài sản của người phạm tội như: đập phá tài sản, đốt cháy, cướp giật, trộm cắp v.v Ngoài hành vi vi phạm pháp luật hình sự, nạn nhân còn cả những hành vi vi phạm nghiêm trọng pháp luật khác như: Luật hành chính, Luật lao động; Luật giao thông, Luật dân sự; Luật hôn nhân và gia 12
- đình v.v Việc xác định một hành vi trái pháp luật của nạn nhân đã tới mức nghiêm trọng hay chưa cũng phải đánh giá một cách toàn diện. Có hành vi chỉ xảy ra một lần đã là nghiêm trọng, ví dụ: Do có mâu thuẫn từ trước trong việc làm ăn nên C và D chặn xe của vợ chồng A khi họ đang trên đường về nhà, C khống chế A còn D đẩy vợ A từ trên xe xuống và liên tiếp đạp vào bụng vợ A dù A có thông báo là vợ mình đang mang thai và xin D dừng lại. D vẫn đánh vợ A cho đến khi thấy vợ A bị chảy máu thì dừng và ra hiệu cho C đi về. khi C và D chuẩn bị lên xe đi về thì A cầm được hòn đá ven đường chạy đến đập liên tiếp vào đầu D.Kết quả D bị chấn thương sọ não và bị thương tật 61%. Hành vi phạm tội của A được thực hiện do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của D, mặc dù biết vợ A đang mang thai nhưng D vẫn cố tình đánh và đạp vào bụng vợ A khiến cho tinh thần của A bị kích động và trong tức thời A đã không điều khiển, kiềm chế được hành vi của mình và gây ra thương tật cho D. Ngoài ra, cũng có hành vi nếu chỉ xảy ra một lần thì chưa nghiêm trọng, nhưng nó được lặp đi lặp lại nhiều lần thì lại thành nghiêm trọng. Hành vi trái pháp luật của nạn nhân có tính chất đè nén, áp bức tương đối nặng nề, lặp đi lặp lại, sự kích động đó đã âm ỷ, kéo dài, đến thời điểm nào đó hành vi trái pháp luật của nạn nhân lại tiếp diễn làm cho người bị kích động không tự kiềm chế được. Ví dụ: A và B nhà ở cạnh nhau, chung một bức tường. B đục tường từ phía nhà mình sang nhà A trong lúc vợ của A đang bị ốm nặng cần sự yên tĩnh. A đã nhiều lần yêu cầu B chấm dứt hành động đó, nhưng B không nghe, A bực tức giằng búa của B đánh B một cái làm B ngã gục. Trên đường đưa đi cấp cứu thì B chết. Trong trường hợp này, hành vi giết người của A cũng được coi là bị kích động mạnh do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của B. Như vậy, rõ ràng không phải tự nhiên mà tinh thần của người phạm tội 13
- bị kích động khi không có một yếu tố nào tác động và họ cũng không thể tự tạo được cho mình trạng thái tinh thần bị kích động mạnh. Chính những hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân mới chính là nguyên nhân dẫn đến trạng thái tinh thần bị kích động mạnh ở người phạm tội. Tính chất và mức độ nghiêm trọng của hành vi trái pháp luật của nạn nhân là một căn cứ để xem tinh thần của người phạm tội có bị kích động mạnh hay không. Thứ hai, trạng thái tinh thần của người khi thực hiện tội phạm là bị kích động mạnh. Nếu hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân là điều kiện cần thì trạng thái tinh thần bị kích động mạnh của người thực hiện tội phạm là điều kiện đủ để xác định có hay không có tội phạm thực hiện trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh. Như đã phân tích ở phần khái niệm, người bị kích động về tinh thần là người không còn nhận thức đầy đủ về hành vi của mình như lúc bình thường, nhưng chưa mất hẳn khả năng nhận thức. Lúc đó họ mất khả năng tự chủ và không thấy hết được tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình; trạng thái tinh thần của họ gần như người điên (người mất trí). Trạng thái này chỉ xảy ra trong chốc lát, sau đó tinh thần của họ trở lại bình thường như trước. Không phải dễ dàng để xác định một người bị kích động mạnh hay chưa mạnh về tinh thần. Có trường hợp hành vi có cường độ mạnh nhưng chỉ xảy ra một lần cũng đủ dẫn đến kích động mạnh cũng có trường hợp hành vi dù cường độ thấp nhưng xảy ra nhiều lần cũng có thể dẫn đến tinh thần bị kích động mạnh. Hiện Bộ luật hình sự và các văn bản hướng dẫn cũng thi hành cũng chưa có một tiêu chí cụ thể xác định thế nào là bị kích động mạnh về tinh thần. Do vậy, phải căn cứ vào từng trường hợp cụ thể, xem xét một cách toàn diện các tình tiết của vụ án, nhân thân người phạm tội, quá trình 14