Luận văn Các tội phạm do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng theo luật hình sự Việt Nam (Trên cơ sở số liệu thực tiễn ở Tây Nguyên)

pdf 112 trang vuhoa 23/08/2022 9320
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Các tội phạm do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng theo luật hình sự Việt Nam (Trên cơ sở số liệu thực tiễn ở Tây Nguyên)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_cac_toi_pham_do_vuot_qua_gioi_han_phong_ve_chinh_da.pdf

Nội dung text: Luận văn Các tội phạm do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng theo luật hình sự Việt Nam (Trên cơ sở số liệu thực tiễn ở Tây Nguyên)

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRẦN THỊ THANH TÂM C¸C TéI PH¹M DO V¦îT QU¸ GIíI H¹N PHßNG VÖ CHÝNH §¸NG THEO LUËT H×NH Sù VIÖT NAM (Trªn c¬ së sè liÖu thùc tiÔn ë T©y Nguyªn) LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2015
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRẦN THỊ THANH TÂM C¸C TéI PH¹M DO V¦îT QU¸ GIíI H¹N PHßNG VÖ CHÝNH §¸NG THEO LUËT H×NH Sù VIÖT NAM (Trªn c¬ së sè liÖu thùc tiÔn ë T©y Nguyªn) Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN KHẮC HẢI HÀ NỘI - 2015
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu nêu trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chƣa từng đƣợc công bố trong bất kì công trình nào khác. TÁC GIẢ LUẬN VĂN Trần Thị Thanh Tâm
  4. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các chữ viết tắt Danh mục các bảng MỞ ĐẦU 1 Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÁC TỘI PHẠM DO VƢỢT QUÁ GIỚI HẠN PHÒNG VỆ CHÍNH ĐÁNG 10 1.1. KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA CÁC TỘI DO VƢỢT QUÁ GIỚI HẠN PHÒNG VỆ CHÍNH ĐÁNG 10 1.1.1. Khái niệm các tội phạm do vƣợt quá giới hạn phòng vệ chính đáng 10 1.1.2. Khái niệm về tội phạm do vƣợt quá giới hạn phòng vệ chính đáng 22 1.1.3. Đặc điểm của tội phạm do vƣợt quá giới hạn phòng vệ chính đáng 25 1.2. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ CÁC TỘI PHẠM DO VƢỢT QUÁ GIỚI HẠN PHÒNG VỆ CHÍNH ĐÁNG 29 1.2.1. Giai đoạn trƣớc Cách mạng tháng 8 năm 1945 29 1.2.2. Giai đoạn từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến pháp điển hóa lần thứ nhất - Bộ luật Hình sự năm 1985 32 1.2.3. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến trƣớc khi pháp điển hóa lần thứ hai - Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 38 1.2.4. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999 đến nay 40 1.3. CÁC TỘI PHẠM DO VƢỢT QUÁ GIỚI HẠN PHÒNG VỆ CHÍNH ĐÁNG TRONG LUẬT HÌNH SỰ MỘT SỐ NƢỚC 42 1.3.1. Bộ luật hình sự Liên bang Nga 42 1.3.2. Bộ luật hình sự nƣớc Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa 45 1.3.3. Bộ luật hình sự Thụy Điển 47
  5. Chƣơng 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VÀ THỰC TIỄN XÉT XỬ CÁC TỘI PHẠM DO VƢỢT QUÁ GIỚI HẠN PHÒNG VỆ CHÍNH ĐÁNG TẠI TÂY NGUYÊN 50 2.1. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ CÁC TỘI PHẠM DO VƢỢT QUÁ GIỚI HẠN PHÒNG VỆ CHÍNH ĐÁNG 50 2.1.1. Tội giết ngƣời do vƣợt quá giới hạn phòng vệ chính đáng (Điều 96 – Bộ luật hình sự) 50 2.1.2. Tội cố ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của ngƣời khác do vƣợt quá giới hạn phòng vệ chính đáng (Điều 106 – Bộ luật hình sự) 54 2.2. THỰC TRẠNG ĐIỀU TRA, TRUY TỐ, XÉT XỬ VỀ CÁC TỘI PHẠM DO VƢỢT QUÁ GIỚI HẠN PHÒNG VỆ CHÍNH ĐÁNG TẠI CÁC TỈNH TÂY NGUYÊN GIAI ĐOẠN TỪ NĂM 2010 ĐẾN NĂM 2014 58 2.2.1. Tình hình chính trị, kinh tế xã hội trên địa bàn Tây Nguyên 58 2.2.2. Thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử các tội phạm do vƣợt quá giới hạn phòng vệ chính đáng trên địa bàn các tỉnh Tây Nguyên 59 2.3. MỘT SỐ TỒN TẠI, HẠN CHẾ TRONG XỬ LÝ CÁC TỘI PHẠM DO VƢỢT QUÁ GIỚI HẠN PHÒNG VỆ CHÍNH ĐÁNG 63 Chƣơng 3: SỰ CẦN THIẾT, CƠ SỞ VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ CÁC TỘI PHẠM DO VƢỢT QUÁ GIỚI HẠN PHÒNG VỆ CHÍNH ĐÁNG 78 3.1. SỰ CẦN THIẾT CỦA VIỆC HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH VỀ PHÒNG VỆ CHÍNH ĐÁNG VÀ CÁC TỘI PHẠM DO VƢỢT QUÁ GIỚI HẠN PHÒNG VỆ CHÍNH ĐÁNG 78 3.2. CƠ SỞ HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ ĐỐI VỚI CÁC TỘI PHẠM DO VƢỢT QUÁ GIỚI HẠN PHÒNG VỆ CHÍNH ĐÁNG 80 3.3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI CÁC TỘI PHẠM DO VƢỢT QUÁ GIỚI HẠN PHÒNG VỆ CHÍNH ĐÁNG 84
  6. 3.3.1. Quy định văn bản hƣớng dẫn dƣới dạng Nghị định hay Thông tƣ nêu căn cứ xác định hành vi chống trả của ngƣời phòng vệ đƣợc coi là cần thiết 84 3.3.2. Quy định chế định phòng vệ chính đáng quy định tại Điều 15 BLHS hiện hành thành một phần riêng, tách biệt ra với phần quy định trong Chƣơng tội phạm cùng với các trƣờng hợp loại trừ trách nhiệm hình sự khác 86 3.3.3. Sửa đổi quy định về phòng vệ chính đáng theo hƣớng cụ thể hóa các trƣờng hợp đƣợc quyền phòng vệ 87 3.3.4. Quy định cụ thể gây thƣơng tích cho nhiều ngƣời và “làm chết nhiều ngƣời” vào khoản 2 Điều 106 BLHS hiện hành và giảm mức hình phạt đối với các tội phạm do vƣợt quá giới hạn phòng vệ chính đáng 90 3.3.5. Hình phạt tù trong các tội phạm do vƣợt quá giới hạn phòng vệ chính đáng nên giảm xuống để thể hiện rõ hơn chính sách hình sự của nhà nƣớc về các trƣờng hợp phạm tội này. Ngoài ra cần cụ thể hóa số nạn nhân để tiện cho việc áp dụng pháp luật 92 3.3.6. Quy định hƣớng dẫn rõ ràng hơn về vấn đề phƣơng tiện và phƣơng pháp của ngƣời phòng vệ và ngƣời xâm hại 93 3.3.7. Không quy định tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm c khoản 1 Điều 46 BLHS 94 KẾT LUẬN 96 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 99
  7. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLHS: Bộ luật hình sự DTTS: Dân tộc thiểu số LHS: Luật hình sự TAND: Tòa án nhân dân VKSND: Viện kiểm sát nhân dân XHCN: Xã hội chủ nghĩa
  8. DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu bảng Tên bảng Trang Bảng 2.1: Bảng thông kê số vụ án giết ngƣời mà Cơ quan điều tra Công an các tỉnh Tây Nguyên đã thụ lý điều tra từ năm 2010 đến năm 2014 59 Bảng 2.2: Bảng thông kê số vụ án giết ngƣời do vƣợt quá giới hạn phòng vệ chính đáng mà Cơ quan điều tra Công an các tỉnh Tây Nguyên đã thụ lý điều tra từ năm 2010 đến năm 2014 60 Bảng 2.3: Thống kê số vụ án cố ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của ngƣời khác mà Cơ quan điều tra Công an các tỉnh Tây Nguyên đã thụ lý điều tra từ năm 2010 đến năm 2014 60 Bảng 2.4: Bảng thông kê số vụ án cố ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của ngƣời khác do vƣợt quá giới hạn phòng vệ chính đáng mà Cơ quan điều tra Công an các tỉnh Tây Nguyên đã thụ lý điều tra từ năm 2010 đến năm 2014 61 Bảng 2.5: Bảng thông kê số vụ án về các tội phạm do vƣợt quá giới hạn phòng vệ chính đáng mà viện kiểm sát đã truy tố, Tòa án nhân dân trên địa bản các tỉnh Tây Nguyên đã đƣa ra xét xử từ năm 2010 đến năm 2014 63
  9. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Phòng vệ chính đáng là quyền rất quan trọng đƣợc ghi nhận trực tiếp hay gián tiếp trong các văn bản pháp luật của Việt Nam, mà đậm nét nhất là trong Bộ luật hình sự. Quyền phòng vệ tồn tại trên cơ sở quyền vốn có là quyền con ngƣời, ngoài ra đây còn là quyền quan trọng góp phần đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm, giúp cho Bộ luật hình sự đạt đƣợc mục đích và nhiệm vụ, góp phần gìn giữ những giá trị đƣợc thừa nhận chung của xã hội. Về mặt lập pháp thì quyền phòng vệ chính đáng đã đƣợc ghi nhận rõ nét đặc biệt là từ khi xuất hiện Bộ luật hình sự năm 1985. Cho đến Bộ luật hình sự hiện hành năm 1999, sửa đổi bổ sung 2009 thì những quy định này đã đƣợc chỉnh sửa để phù hợp hơn với thực tiễn và tạo điều kiện cho việc phát huy trên thực tế. Bằng quy định này, pháp luật cho phép công dân đƣợc quyền chống trả lại các hành vi xâm hại các lợi ích của Nhà nƣớc, tổ chức, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân. Tuy nhiên, để ngăn ngừa tình trạng lạm dụng quyền phòng vệ xâm phạm tính mạng sức khỏe, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân Bộ luật hình sự quy định trách nhiệm hình sự đối với hành vi vƣợt quá giới hạn phòng vệ chính đáng. Tình tiết vƣợt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là tình tiết định tội của hai tội danh, giết ngƣời do vƣợt quá giới hạn phòng vệ chính đáng và cố ý gây thƣơng tích hoặc tổn hại sức khỏe của ngƣời khác do vƣợt quá giới hạn phòng vệ chính đáng. Tuy nhiên trong lần sửa đổi sắp tới thì việc hoàn thiện các quy định về phòng vệ chính đáng, cũng nhƣ các tội do vƣợt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, vẫn đƣợc đặt ra. Về mặt lý luận, phòng vệ chính đáng luôn là vấn đề cần đƣợc quan tâm nghiên cứu do những cách hiểu và các quan điểm khác nhau đặt ra từ hoạt động lập pháp cũng nhƣ áp dụng pháp luật. Từ những nhận thức về thời điểm 1
  10. xuất hiện quyền phòng vệ đến bản chất, đặc điểm, cách gọi của quyền phòng vệ vẫn còn đang có những quan điểm gây tranh cãi nhƣ phòng vệ hay tự vệ, chính đáng hay cần thiết v.v Về mặt thực tiễn, phòng vệ chính đáng trên thực tế đã và đang phát huy những tác dụng tích cực. Tuy nhiên vẫn còn có nhận thức chƣa đúng khiến cho việc sử dụng quyền này từ phía ngƣời tự vệ lẫn việc áp dụng những quy định trong Bộ luật hình sự về quyền phòng vệ chính đáng này còn nhiều vấn đề trên thực tế, làm giảm hiệu quả của việc bảo vệ quyền con ngƣời, lợi ích của xã hội, cũng nhƣ giảm hiệu quả của Bộ luật hình sự. Tây nguyên là địa bàn có mặt bằng dân trí còn thấp so với các vùng miền khác của cả nƣớc đặc biệt là sự hiểu biết pháp luật. Trong xử lí các quan hệ xã hội, ngƣời dân vẫn xử sự theo các phong tục, tập quán trƣớc đây còn nhiều, dẫn đến tình trạng xâm phạm tính mạng sức khỏe của ngƣời khác do hành vi vi phạm pháp luật của nạn nhân vẫn xảy ra phổ biến. Nhƣng với quy định của pháp luật hiện hành, cũng nhƣ thiếu vắng các giải thích chính thức dẫn tới những tiêu chí để xác định phòng vệ chính đáng không cụ thể, rõ ràng. Vì vậy trong thực tiễn áp dụng pháp luật xử lý các hành vi liên quan đến vấn đề phòng vệ chính đáng không bảo đảm tính thống nhất, chƣa phát huy đƣợc giá trị bảo vệ của pháp luật. Từ các luận chứng trên cho thấy việc nghiên cứu sâu sắc về mặt lý luận và lập pháp, trên cơ sở nghiên cứu kinh nghiệm lập pháp của một số quốc gia, gắn với thực tiễn tại Tây Nguyên sẽ giúp tạo những cơ sở đáng tin cậy cho việc hoàn thiện pháp luật hình sự và nâng cao hiệu quả áp dụng về các quy định về phòng vệ chính đáng và các tội phạm do vƣợt quá giới hạn phòng vệ chính đáng. Với những lý do trên, tác giả đã lựa chọn vấn đề "Các tội phạm do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng theo Luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở số liệu thực tiễn ở Tây Nguyên)" làm đề tài nghiên cứu khoa học cho luận văn thạc sĩ. 2
  11. 2. Tình hình nghiên cứu Phòng vệ chính đáng và vƣợt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là một trong những vấn đề phức tạp của luật hình sự, nên từ trƣớc đến nay luôn đƣợc các nhà khoa học luật quan tâm. Thời gian qua, đã có nhiều công trình nghiên cứu về các nội dung liên quan đến chế định phòng vệ chính đáng, Tuy nhiên, nội dung nghiên cứu của nó mới gián tiếp đƣợc lồng ghép ở các mức độ khác nhau. Trong Sách chuyên khảo Sau đại học của GS. TSKH. Lê Văn Cảm "Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự (Phần chung)" có thống kê các công trình tiêu biểu ở Liên Xô cũ nhƣ: “Những điều kiện và các giới hạn của phòng vệ chính đáng” (Nxb. Sách pháp lý, Mátxcơva, 1969) của tác giả Trixkevich I. X.; “Các tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự” (Nxb. Trƣờng Đại học Tổng hợp Xaratôv, 1978) của tác giả Xtrutchkôv N.A.; “Chương X - Các trường hợp loại trừ tính chất tội phạm của hành vi”, Giáo trình Luật hình sự, Phần chung (Nxb. Sách pháp lý, Mátxcơva, 1994) của tác giả Tkatrenko V.I.; “Các trường hợp loại trừ tính chất tội phạm của hành vi” (Nxb. Trƣờng Đại học Tổng hợp Xaratôv, 1991) của tác giả Babulon Iu.V; v.v Các công trình nói trên đã đề cập những vấn đề chung nhất về khái niệm, bản chất, tên gọi và hệ thống các trƣờng hợp loại trừ tính chất tội phạm của hành vi hoặc đi sâu vào một số trƣờng hợp cụ thể là phòng vệ chính đáng hoặc tình thế cấp thiết. Hơn nữa, các nghiên cứu này đã từ rất lâu, hiện nay, Liên bang Nga đã ban hành Bộ luật hình sự năm 1996, sửa đổi năm 2010. Ngoài ra, nội dung nghiên cứu cũng đƣợc gián tiếp đề cập trong một số sách báo pháp lý, chẳng hạn nhƣ tác giả Ashworth (ngƣời Anh) có cuốn sách “Principles of Criminal Law” (Các nguyên tắc của luật hình sự) (Nxb. Oxford University Press, Inc., 1995). Công trình đề cập khái quát đến các vấn đề nguyên tắc và chính sách liên quan đến sự hình thành của pháp luật hình sự, 3
  12. của các nguyên tắc và việc áp dụng của các cơ quan lập pháp, Tòa án, cơ quan cải cách pháp luật, trong đó có đề cập đến phòng vệ chính đáng và tình thế cấp thiết là hai trƣờng hợp đƣợc loại trừ trách nhiệm hình sự. Hay tác giả Jerome Hall (ngƣời Anh) có cuốn sách “Criminal Law” (Luật hình sự) (Nxb. Bobbs Merrill Company, 1947, tái bản năm 2005. Cuốn sách đề cập đến cơ sở lý luận nền tảng của các nguyên tắc của luật hình sự, các vấn đề cơ bản về tội phạm, trách nhiệm hình sự và hình phạt, cũng nhƣ các lý thuyết vận dụng, trong đó cũng có đề cập đến trƣờng hợp phòng vệ chính đáng và tình trạng khẩn cấp. Chƣơng 4 - “Các trƣờng hợp miễn trách nhiệm hình sự” trong sách: "Swedish Law in the New Millennium" (Luật hình sự Thụy Điển trong giai đoạn mới) do GS. Michael Bogdan chủ biên (Norstedts Juridik, Printed in Sweden by Elanders Gotab, Stockholm, 2000). Chƣơng sách đã đề cập đến lý luận chung về các trƣờng hợp miễn trách nhiệm hình sự, nhƣng lại mang bản chất của một số trƣờng hợp loại trừ trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt Nam nhƣ: phòng vệ chính đáng, tình thế cấp thiết, thi hành mệnh lệnh của cấp trên; Ở Việt Nam, trƣớc đây đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này nhƣ: Chƣơng thứ năm - “Những trường hợp (tình tiết) loại trừ tính chất tội phạm của hành vi” trong “Sách chuyên khảo Sau đại học: Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự (Phần chung)” (Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội, 2005); Sách tham khảo “Về vấn đề phòng vệ chính đáng” (Nxb. Pháp lý, Hà Nội, 1987) của tác giả Đặng Văn Doãn; “Những trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự trong luật hình sự Việt Nam” (Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1998) và “Bình luận khoa học về loại trừ trách nhiệm hình sự” (Nxb. Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, 2009) của ThS. Đinh Văn Quế; “Chương IX - Các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự” trong sách: Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần chung) (Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001, tái bản 2007) của PGS.TS. Nguyễn Ngọc Chí; mục 4 Chƣơng 2 “Những trường 4
  13. hợp không phải là tội phạm” trong sách: Tội phạm và trách nhiệm hình sự (Nxb. Chính trị Quốc gia Hà Nội, 2013) của TS. Trịnh Tiến Việt; Những công trình này đã phân tích khái niệm, nội dung, bản chất pháp lý và điều kiện áp dụng của các trƣờng hợp loại trừ trách nhiệm hình sự, trong đó có phòng vệ chính đáng. Bên cạnh đó, cũng có một số bài viết có giá trị liên quan trực tiếp đến vấn đề này nhƣng chỉ đề cập ở mức độ chung nhƣ: “Một vài suy nghĩ về phòng vệ chính đáng“ (Tạp chí Luật học, Trƣờng Đại học Luật Hà Nội, số 2/1996) của TS. Hoàng Văn Hùng; “Về chế định loại trừ trách nhiệm hình sự” (Tạp chí Nhà nƣớc và pháp luật, số 4/1999) của PGS.TS. Nguyễn Ngọc Chí; “Những trường hợp đặc biệt liên quan đến các yếu tố loại trừ tính chất tội phạm của hành vi” (Tạp chí Nhà nƣớc và pháp luật, số 4/2001) và “Quy định về phòng vệ chính đáng theo Bộ luật hình sự năm 1999” (Tạp chí Nhà nƣớc và pháp luật, số 8/2001) của TS. Giang Sơn; “Phải coi đây là phòng vệ chính đáng” (Tạp chí Khoa học pháp lý, số 5/2001) và “Chế định loại trừ trách nhiệm hình sự và những vấn đề đặt ra khi sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự Việt Nam“ (Tạp chí Khoa học, chuyên san Luật học, số 4/2013) của TS. Trịnh Tiến Việt; Nhƣ vậy, các công trình nghiên cứu nói trên đã đề cập đến vấn đề về phòng vệ chính đáng và gián tiếp là trách nhiệm hình sự do vƣợt quá giới hạn phòng vệ chính đáng trong luật hình sự Việt Nam. Tuy nhiên, về phƣơng diện nghiên cứu lý luận chuyên sâu và có hệ thống vấn đề thì phòng vệ chính đáng và các tội phạm do vƣợt quá giới hạn phòng vệ chính đáng theo luật hình sự Việt Nam vẫn chƣa đƣợc quan tâm một cách đúng mức. Về thực tiễn, còn nhiều nội dung của phòng vệ chính đáng và các tội phạm do vƣợt quá giới hạn phòng vệ chính đáng chƣa đạt đến sự đồng thuận và gây tranh luận, dẫn đến các cơ quan tiến hành tố tụng ở địa bàn Tây Nguyên còn áp dụng khác nhau. 5
  14. Do vậy, trong luận văn này học viên muốn tiếp tục phát triển và kế thừa những công trình khoa học của các nhà nghiên cứu và thực tiễn nhằm làm sáng tỏ thêm vấn đề lý luận về phòng vệ chính đáng và các tội phạm vƣợt quá giới hạn phòng vệ chính đáng để xác định rõ ranh giới giữa ngƣời phạm tội và ngƣời không phạm tội từ đó truy cứu trách nhiệm hình sự đúng ngƣời, đúng tội, tránh bỏ lọt tội phạm và ngƣời phạm tội, không làm oan ngƣời vô tội. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu - Mục đích của luận văn là làm sáng tỏ một cách có hệ thống về mặt lý luận những nội dung cơ bản của các tội phạm do vƣợt quá giới hạn phòng vệ chính đáng theo luật hình sự Việt Nam, xác định những bất cập để đề xuất những giải pháp cụ thể, góp phần tiếp tục hoàn thiện các quy định này trong thời gian tới. Đồng thời, đề tài cũng nhằm giải quyết một số vƣớng mắc trong thực tiễn áp dụng các quy định về phòng vệ chính đáng và các tội phạm do vƣợt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, góp phần nâng cao hiệu quả của cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm ở nƣớc ta nói chung và ở Tây Nguyên nói riêng. - Để đạt đƣợc mục đích trên, luận văn tập trung giải quyết những nhiệm vụ cụ thể sau: + Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của quy định các tội phạm do vƣợt quá giới hạn phòng vệ chính đáng trong lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam qua các thời kỳ. + Nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện những vấn đề lí luận về các tội phạm do vƣợt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, làm sáng tỏ bản chất pháp lý của các tội phạm do vƣợt quá giới hạn phòng vệ chính đáng theo luật hình sự Việt Nam. + Khảo sát đánh giá tình hình xét xử của tòa án đối với các tội phạm do 6
  15. vƣợt quá giới hạn phòng vệ chính đáng từ năm 2010 đến năm 2014 tại địa bàn các tỉnh Tây Nguyên; tìm ra những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân, điều kiện của những tồn tại, hạn chế đó trong quá trình áp dụng pháp luật. + Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện cơ sở pháp lý, nhận thức đầy đủ và áp dụng đúng đắn thống nhất các tội phạm này. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn là một số vấn đề lí luận về các tội phạm do vƣợt quá giới hạn phòng vệ chính đáng và thực tiễn áp dụng chế định này trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử trên địa bàn các tỉnh Tây Nguyên. - Phạm vi nghiên cứu: + Phạm vi về nội dung: Luận văn nghiên cứu các quy định về các tội phạm do vƣợt quá giới hạn phòng vệ chính đáng trong pháp luật Việt Nam qua các thời kỳ trong đó chú trọng quy định của pháp luật hiện hành và thực tiễn áp dụng pháp luật trong quá trình xét xử của Tòa án nhân dân trên địa bàn các tỉnh Tây Nguyên; + Phạm vi về chủ thể tiến hành: Tòa án nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện. Các chủ thể khác sẽ đƣợc đề cập đến khi có liên quan. + Phạm vi về địa bàn: Luận văn đƣợc nghiên cứu trên địa bàn các tỉnh Tây Nguyên; + Thời gian nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu thực tiễn áp dụng các tội phạm này từ năm 2010 đến năm 2014. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu - Phƣơng pháp luận: Luận án đƣợc nghiên cứu trên cơ sở phép duy vật biện chứng và phép duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, quan điểm chỉ đạo của Đảng, Nhà nƣớc về công tác đấu tranh phòng chống tội phạm. 7
  16. - Phƣơng pháp nghiên cứu cụ thể: Trong quá trình nghiên cứu, tác giả sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu nhƣ: phƣơng pháp phân tích, tổng hợp, quy nạp, thống kê, so sánh, tọa đàm, trao đổi, chuyên gia, phƣơng pháp nghiên cứu án điển hình. 6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của đề tài - Ý nghĩa lí luận Luận văn đƣợc hình thành trên cơ sở khái quát lí luận và đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về các tội phạm do vƣợt quá giới hạn phòng vệ chính đáng trong xét xử của Tòa án nhân dân trên địa bàn các tỉnh Tây Nguyên thời gian qua, nên kết quả nghiên cứu sẽ góp phần hoàn thiện cơ sở pháp lý và làm rõ các vấn đề pháp lý của chế định phong vệ chính đáng và các tội phạm dơ vƣợt quá giới hạn phòng vệ chính đáng. Luận văn là một tài liệu tham khảo dùng cho các nhà nghiên cứu, giảng dạy học tập chuyên ngành luật hình sự trong các cơ sở đào tạo pháp luật. - Ý nghĩa thực tiễn Các giải pháp nêu trong luận văn có thể giúp cho các cơ quan tiến hành tố tụng nói chung và Tòa án nói riêng áp dụng trong thực tiễn giải quyết các vụ án liên quan đến phòng vệ chính đáng và vƣợt quá giới hạn của phòng vệ chính đáng để bảo vệ những ngƣời có hành vi phòng vệ chính đáng và xử lý nghiêm minh những ngƣời lợi dụng quyền phòng vệ để xâm phạm tính mạng, sức khỏe của những ngƣời khác. Bên cạnh đó, những kết quả nghiên cứu của luận văn còn củng cố niềm tin cho các cá nhân, cơ quan tổ chức và nâng cao ý thức trong đấu tranh tội phạm và các hành vi khác xâm phạm lợi ích của Nhà nƣớc, tổ chức, quyền và lợi ích chính đáng của công dân. 8
  17. 7. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn đƣợc chia thành 3 chƣơng. Chương 1. Một số vấn đề lý luận về các tội phạm do vƣợt quá giới hạn phòng vệ chính đáng. Chương 2. Thực trạng pháp luật hình sự Việt Nam và thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử các tội phạm do vƣợt quá giới hạn phòng vệ chính đáng tại Tây Nguyên. Chương 3. Sự cần thiết, cơ sở và một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về các tội phạm do vƣợt quá giới hạn phòng vệ chính đáng. 9
  18. Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÁC TỘI PHẠM DO VƢỢT QUÁ GIỚI HẠN PHÒNG VỆ CHÍNH ĐÁNG 1.1. KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA CÁC TỘI DO VƢỢT QUÁ GIỚI HẠN PHÒNG VỆ CHÍNH ĐÁNG 1.1.1. Khái niệm các tội phạm do vƣợt quá giới hạn phòng vệ chính đáng 1.1.1.1. Khái niệm phòng vệ chính đáng Để khuyến khích, động viên mọi ngƣời dân tự bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình và của ngƣời khác, cũng nhƣ của xã hội, pháp luật hình sự của đa số các quốc gia, trong đó có Việt Nam quy định chế định phòng vệ chính đáng. Lịch sử hình thành và phát triển chế định phòng vệ chính đáng trong luật hình sự Việt Nam thể hiện thông qua một loạt các văn bản nhƣ Luật số 103/SL ngày 20/5/1957 và Bản tổng kết số 452/SL ngày 10/6/1970 của Tòa án nhân dân tối cao cũng đề cập đến quyền tự do thân thể, trong đó cho phép ngƣời thi hành công vụ dùng vũ khí và việc giết ngƣời do vƣợt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, Chỉ thị số 07/CT ngày 22/12/1983 về việc xét xử các hành xâm phạm tính mạng hoặc sức khỏe của ngƣời khác do vƣợt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc trong khi thi hành công vụ và tại Phần II Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 05/01/1986 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao “Về hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự năm 1985” đã đề cập đến ở một chừng mực nhất định những vấn đề chủ yếu có liên quan đến chế định phòng vệ chính đáng. Những quy định về phòng vệ chính đáng trong Bộ luật hình sự năm 1985 trải qua quá trình áp dụng vào thực tiễn công tác đấu tranh phòng chống tội phạm đã bộc lộ những điểm cần phải sửa đổi bổ sung cho phù hợp với sự thay đổi của xã hội, cụm từ tập thể đƣợc sử dụng trong Bộ luật hình sự năm 10
  19. 1985 không còn phù hợp, tập thể đƣợc dùng cho nền kinh tế tập trung bao cấp, thuật ngữ này đƣợc Bộ luật hình sự năm 1999 thay bằng từ tổ chức. Bên cạnh đó trong Bộ luật hình sự năm 1985 sử dụng thuật ngữ: “Chống trả một cách tƣơng xứng”, qua tổng kết 10 năm thì hành Bộ luật hình sự năm 1985 (kể cả các lần sửa đổi bổ sung) thấy nổi lên một vấn đề là cần phải làm rõ khái niệm “tƣơng xứng”, vì trong thực tế rất khó xác định hành vi chống trả ở mức độ nhƣ thế nào thì đƣợc coi là tƣơng xứng, việc sử dụng cụm từ này cũng rất dễ dẫn đến các hiểu không đúng là ngƣời phạm tội sử dụng công cụ, phƣơng tiện, phƣơng pháp gì, thì ngƣời phòng vệ cũng phải sử dụng công cụ, phƣơng tiện, phƣơng pháp tƣơng tự, hoặc có nghĩa là thiệt hại do ngƣời phòng vệ gây ra cho ngƣời có hành vi xâm hại phải ngang bằng hoặc nhỏ hơn thiệt hại mà ngƣời xâm hại gây ra hoặc đe dọa gây ra [1, tr.62]. Mặt khác, việc dùng từ tƣơng xứng mới chỉ thể hiện sự đánh giá của ngƣời thứ ba đứng ngoài cuộc chứ chƣa xuất phát từ cái nhìn của ngƣời trong cuộc. Do vậy để khuyến khích mọi ngƣời tích cực tham gia chống trả các hành vi phạm tội, đồng thời để khắc phục những nhƣợc điểm nêu trên, Bộ luật hình sự năm 1999 đã thay thế cụm từ “tƣơng xứng” bằng cụm từ “cần thiết”, theo đó tại khoản 1 Điều 15 Bộ Luật hình sự quy định: Phòng vệ chính đáng là hành vi của ngƣời vì bảo vệ lợi ích của Nhà nƣớc, của tổ chức, bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của mình hoặc của ngƣời khác, mà chống trả lại một cách cần thiết ngƣời đang có hành vi xâm phạm các lợi ích nói trên. Phòng vệ chính đáng không phải là tội phạm. 1.1.1.2 Các đặc điểm pháp lý của phòng vệ chính đáng Hiện nay có nhiều tài liệu, giáo trình đề cập đến điều kiện của phòng vệ chính đáng. Một số tài liệu, giáo trình đề cập đến điều kiện của phòng vệ chính đáng bao gồm phải đầy đủ về cơ sở, nội dung và phạm vi 11
  20. phòng vệ [61, tr.204-208]. Cũng gần giống với quan điểm trên theo giáo trình Luật hình sự phần chung của Đại học Huế đề cập điều kiện của phòng vệ chính đáng bao gồm cơ sở phát sinh quyền phòng vệ và phạm vi phòng vệ [14, tr.320-323]. Trong khi đó theo quan điểm của một tác giả khác thì đề cập điều kiện của phòng vệ chính đáng theo góc độ về phía nạn nhân, về phía ngƣời phòng vệ và về hành vi chống trả là cần thiết [44, tr.59-62]. Ngoài ra một bình luận khác cho rằng điều kiện của phòng vệ chính đáng bao gồm điều kiện làm xuất hiện quyền phòng vệ và điều kiện về tính hợp pháp của hành vi chống trả [65, tr.33-36]. Tất cả những quan điểm trên đều có những luận cứ khá hợp lí, bản chất đều theo hƣớng phân loại các hành vi trong phòng vệ chính đáng. Tuy nhiên để có thể rạch ròi, phân định rõ về điều kiện phòng vệ chính đáng chúng tôi cho rằng nghiên cứu về điều kiện phòng vệ chính đáng cần đề cập đến bốn điều kiện theo quan điểm của một số giáo trình, tài liệu: Đó là có hành vi xâm hại vào lợi ích hợp pháp, hành vi xâm hại đó đang xảy ra, hành vi chống trả lại chính ngƣời có hành vi xâm hại và sự chống trả đó là cần thiết [27, tr.64]. Việc phân chia điều kiện của phòng vệ chính đáng có ý nghĩa tƣơng đối, giúp chúng ta nhận thức sâu sắc hơn về bản chất của phòng vệ chính đáng chứ không có ý nghĩa về pháp lí. Trong phạm vi của đề tài chúng tôi đề cập điều kiện của phòng vệ chính đáng theo tinh thần của hƣớng dẫn tại Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 05 tháng 01 năm 1986 hƣớng dẫn một số quy định của phần chung Bộ luật hình sự và Chỉ thị số 07/CT ngày 22 tháng 12 năm 1983, theo đó một hành vi đƣợc coi là phòng vệ chính đáng khi thõa mãn bốn điều kiện sau: Có hành vi tấn công xâm hại lợi ích hợp pháp; Hành vi tấn công phải có thật và đang diễn ra; Phòng vệ chính đáng phải gây thiệt hại cho chính ngƣời đang có hành vi tấn công; Sự chống trả trong phòng vệ chính đáng là cần thiết. 12
  21. - Điều kiện thứ nhất: Có hành vi tấn công xâm hại lợi ích hợp pháp Một trong những nhiệm vụ của Bộ luật hình sự đƣợc ghi nhận tại Điều 1 đó là: “Bộ luật hình sự có nhiệm vụ bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ quyền bình đẳng giữa đồng bào các dân tộc, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa, chống mọi hành vi phạm tội”. Để thực hiện nhiệm vụ đó Bộ luật hình sự quy định các hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm và quy định các chế tài để áp dụng đối với ngƣời có hành vi vi phạm. Ngoài ra nhằm ngăn ngừa, hạn chế thiệt hại cho các quan hệ xã hội đƣợc pháp luật hình sự bảo vệ do hành vi tấn công gây ra, Nhà nƣớc còn quy định cho công dân đƣợc quyền chống trả lại hành vi tấn công xâm hại tới lợi ích hợp pháp. Vì vậy, quy định về phòng vệ chính đáng có tính chất phòng ngừa và ngăn chặn hành vi tấn công xâm hại đến các quan hệ xã hội đƣợc pháp luật bảo vệ. Xuất phát từ quan điểm đó thì có hành vi tấn công xâm hại lợi ích của Nhà nƣớc, của tổ chức, lợi ích hợp pháp của bản thân ngƣời phòng vệ hoặc của ngƣời khác có tính chất làm tiền đề, cơ sở cho phép một ngƣời đƣợc thực hiện quyền phòng vệ của mình, và do đó nếu không có hành vi tấn công xâm phạm lợi ích hợp pháp thì không có phòng vệ chính đáng. Lợi ích hợp pháp là những lợi ích của Nhà nƣớc, tổ chức, của con ngƣời pháp luật ghi nhận và quy định nhƣ các quyền về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, về tài sản Nói cách khác, đó là những lợi ích về vật chất và tinh thần đƣợc pháp luật quy định và bảo vệ. Điều 15 Bộ luật hình sự xác định khi lợi ích của nhà nƣớc, tổ chức, lợi ích hợp pháp của bản thân ngƣời phòng vệ hoặc của ngƣời khác bị hành vi tấn công xâm hại thì cơ sở của quyền phòng vệ chính đáng xuất hiện. Vì vậy, hành vi chống trả để bảo vệ một lợi ích bất hợp pháp sẽ không đƣợc coi là phòng vệ chính đáng và phải 13
  22. chịu trách nhiệm hình sự, ví dụ: Hành vi của ngƣời bị truy nã chống lại lực lƣợng bắt giữ, hành vi chống lại lệnh bắt để tạm giam bị can của cơ quan tiến hành tố tụng Vậy hiểu thế nào là có hành vi tấn công xâm hại các lợi ích hợp pháp, theo chúng tôi, đầu tiên hành vi đó phải do con ngƣời thực hiện. Trong thực tế thì có thể có nhiều nguồn có thể gây ra nguy hiểm tới lợi ích của Nhà nƣớc, tổ chức, quyền và lợi ích chính đáng của con ngƣời nhƣng trong phòng vệ chính đáng thì nguồn nguy hiểm duy nhất là hành vi xâm hại của con ngƣời. Hành vi đó có thể do ngƣời có đủ năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện nhƣng cũng có thể do ngƣời không có đủ năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện.Thứ hai, hành vi xâm hại phải là hành vi có tính chất, mức độ nguy hiểm đáng kể cho xã hội, mang tính chất bạo lực tấn công. Hành vi xâm hại là hành vi nguy hiểm cho xã hội, trái pháp luật, gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nƣớc, của tổ chức, quyền lợi ích hợp pháp của con ngƣời nhƣng không phải với mọi hành vi xâm phạm chúng ta đều đƣợc thực hiện hành vi phòng vệ. Theo hƣớng dẫn tại Nghị quyết 02/HĐTP ngày 05 tháng 01 năm 1986 thì: Hành vi xâm hại phải là hành vi nguy hiểm cho xã hội ở mức độ đáng kể mới phát sinh quyền phòng vệ. Nếu hành vi xâm hại ở mức độ nguy hiểm không đáng kể thì vấn đề phòng vệ không đƣợc đặt ra. Ví dụ: A chỉ tát B một cái, B đã rút dao trong ngƣời đâm chết A thì hành vi của B ở trƣờng hợp đó không đƣợc coi là hành vi phòng vệ. Hành vi tấn công xâm hại các lợi ích hợp pháp nhƣ đã trình bày ở trên có thể là hành vi phạm tội nhƣng cũng có thể là hành vi nguy hiểm cho xã hội nhƣng không phải là tội phạm nhƣ do ngƣời chƣa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, hành vi của ngƣời không có năng lực trách nhiệm hình sự Tuy cùng là cơ sở làm phát sinh quyền phòng vệ và pháp luật cũng không quy định sự 14