Luận văn Các tội phạm bí mật Nhà nước trong luật hình sự Việt Nam

pdf 109 trang vuhoa 23/08/2022 10140
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Các tội phạm bí mật Nhà nước trong luật hình sự Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_cac_toi_pham_bi_mat_nha_nuoc_trong_luat_hinh_su_vie.pdf

Nội dung text: Luận văn Các tội phạm bí mật Nhà nước trong luật hình sự Việt Nam

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT PHẠM VĂN SÍNH C¸C TéI X¢M PH¹M BÝ MËT NHµ N¦íC TRONG LUËT H×NH Sù VIÖT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2015
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT PHẠM VĂN SÍNH C¸C TéI X¢M PH¹M BÝ MËT NHµ N¦íC TRONG LUËT H×NH Sù VIÖT NAM Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS. TS. TRẦN VĂN LUYỆN HÀ NỘI - 2015
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Phạm Văn Sính
  4. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Các chữ các chữ viết tắt Danh mục các bảng MỞ ĐẦU 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM BÍ MẬT NHÀ NƯỚC TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 8 1.1. Khái niệm các tội xâm phạm bí mật nhà nước 8 1.1.1. Khái niệm bí mật nhà nước 8 1.1.2. Phân biệt bí mật nhà nước với bí mật công tác, bí mật công tác quân sự 13 1.1.3. Phân loại bí mật nhà nước 14 1.1.4. Hậu quả khi bí mật nhà nước bị tiết lộ 15 1.1.5. Khái niệm tội cố ý làm lộ bí mật nhà nước; tội chiếm đoạt, mua bán, tiêu hủy tài liệu bí mật nhà nước 15 1.1.6. Khái niệm tội vô ý làm lộ bí mật nhà nước, tội làm mất tài liệu bí mật nhà nước 17 1.2. Lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam về các tội xâm phạm bí mật nhà nước 18 1.2.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 18 1.2.2. Các tội xâm phạm bí mật nhà nước trong Bộ luật hình sự năm 1985 22 Kết luận chương 1 25
  5. Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM NĂM 1999 VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM BÍ MẬT NHÀ NƯỚC VÀ THỰC TIẾN ÁP DỤNG 26 2.1. Dấu hiệu pháp lý của các tội xâm phạm bí mật nhà nước 26 2.1.1. Khách thể của tội phạm 26 2.1.2. Mặt khách quan của tội phạm 29 2.1.3. Mặt chủ quan của tội phạm 41 2.1.4. Chủ thể của tội phạm 42 2.2. Hình phạt 45 2.2.1. Khung hình phạt cơ bản 45 2.2.2. Khung hình phạt tăng nặng 45 2.2.3. Hình phạt bổ sung 46 2.3. Thực tiễn áp dụng 47 2.3.1. Thực trạng lộ, mất bí mật nhà nước 47 2.3.2. Kết quả điều tra, truy tố, xét xử các tội xâm phạm bí mật nhà nước 51 2.3.3. Định tội danh 53 2.3.4. Áp dụng các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự 59 2.3.5. Áp dụng hình phạt chính và hình phạt bổ sung 65 2.3.6. Nguyên nhân của những hạn chế, bất cập trong áp dụng các tội xâm phạm bí mật nhà nước 68 Kết luận chương 2 70 Chương 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM NĂM 1999 VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM BÍ MẬT NHÀ NƯỚC 71 3.1. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật hình sự quy định các tội xâm phạm bí mật nhà nước 72
  6. 3.1.1. Kiến nghị sửa đổi, hoàn thiện Điều 263 72 3.1.2. Kiến nghị sửa đổi, hoàn thiện Điều 264 74 3.1.3. Kiến nghị xây dựng Thông tư liên tịch hướng dẫn áp dụng các tội xâm phạm bí mật nhà nước 75 3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự về các tội xâm phạm bí mật nhà nước 77 3.2.1. Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước 77 3.2.2. Bồi dưỡng, đào tạo nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trực tiếp điều tra, truy tố, xét xử các tội xâm phạm bí mật nhà nước 79 3.2.3. Nâng cao chất lượng áp dụng pháp luật trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử các tội xâm phạm bí mật nhà nước 82 3.2.4. Tăng cường quan hệ phối hợp giữa các cơ quan tư pháp trong điều tra, truy tố, xét xử các tội xâm phạm bí mật nhà nước 85 3.2.5. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, hướng dẫn nghiệp vụ, sơ kết, tổng kết trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử các tội xâm phạm bí mật nhà nước 88 3.2.6. Nâng cao vai trò giám sát của nhân dân, Mặt trận Tổ quốc và các phương tiện truyền thông đại chúng trong áp dụng pháp luật về các tội xâm phạm bí mật nhà nước 90 KẾT LUẬN 93 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 95 PHỤ LỤC 98
  7. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BMNN: Bí mật nhà nước UBND: Uỷ ban nhân dân XHCN: Xã hội chủ nghĩa BLHS: Bộ luật hình sự
  8. DANH MỤC CÁC BẢNG PHỤ LỤC Số hiệu bảng Tên bảng Trang Bảng 2.1: Thống kê xét xử sơ thẩm hình sự năm 2004 98 Bảng 2.2: Thống kê số bị cáo đã xử năm 2004 98 Bảng 2.3: Thống kê đặc điểm nhân thân bị cáo đã xét xử năm 2004 98 Bảng 2.4: Thống kê xét xử sơ thẩm hình sự năm 2005-2006 99 Bảng 2.5: Thống kê số bị cáo đã xử năm 2005-2006 99 Bảng 2.6: Thống kê đặc điểm nhân thân bị cáo đã xét xử năm 2005-2006 99 Bảng 2.7: Thống kê xét xử sơ thẩm hình sự năm 2007-2010 100 Bảng 2.8: Thống kê số bị cáo đã xử năm 2007-2010 100 Bảng 2.9: Thống kê đặc điểm nhân thân bị cáo đã xét xử năm 2007-2010 100 Bảng 2.10: Thống kê xét xử sơ thẩm hình sự năm 2011-2014 101 Bảng 2.11: Thống kê số bị cáo đã xử năm 2011-2014 101 Bảng 2.12: Thống kê đặc điểm nhân thân bị cáo đã xét xử năm 2011-2014 101
  9. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã đạt được những thành tựu quan trọng: Chính trị ổn định, kinh tế - xã hội phát triển, quan hệ hợp tác đối ngoại được mở rộng, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ngày càng được cải thiện và nâng cao. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển của đất nước, các thế lực thù địch vẫn tiếp tục tiến hành các hoạt động chống phá, thu thập BMNN, thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”, “bạo loạn lật đổ” nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa đối với Việt Nam. Trong bối cảnh đó, công tác bảo vệ BMNN càng trở nên cấp bách hơn bao giờ hết và có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội phục vụ đắc lực sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế của đất nước. Pháp lệnh Bảo vệ BMNN năm 2000 được các cấp, các ngành, các địa phương quan tâm chỉ đạo thực hiện và đạt được những kết quả quan trọng. Tuy nhiên, tình trạng lộ, mất BMNN vẫn diễn biến phức tạp, xảy ra trên nhiều lĩnh vực, gây thiệt nghiêm trọng về chính trị, đối ngoại, kinh tế, an ninh, quốc phòng Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật xử lý hành vi vi phạm quy định của pháp luật về bảo vệ BMNN. Theo đó, hành vi xâm phạm BMNN đủ yếu tố cấu thành tội phạm sẽ bị xử lý theo quy định BLHS năm 1999 tại Điều 263 (tội cố ý làm lộ BMNN; tội chiếm đoạt, mua bán, tiêu hủy tài liệu BMNN); Điều 264 (tội vô ý làm lộ BMNN, tội làm mất tài liệu BMNN). Công tác xử lý bằng pháp luật hình sự đối với hành vi xâm phạm BMNN còn ít so với vụ, việc lộ, mất BMNN đã xảy ra. Thống kê xét xử cho thấy, từ năm 2004 đến năm 2014, Tòa án nhân dân các cấp mới thụ lý, xét xử 53 vụ án, với 177 bị cáo xâm phạm BMNN theo quy định của pháp luật hình sự [24]; [25]. 1
  10. Bên cạnh đó, thực tiễn công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm xâm phạm BMNN theo Luật hình sự nước ta còn nảy sinh một số vướng mắc, bất cập chưa được sửa đổi, bổ sung hoặc hướng dẫn áp dụng của các cơ quan chức năng, như: Vấn đề định tội danh, hành vi tiêu hủy tài liệu BMNN, chiếm đoạt tài liệu BMNN; gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng Những vướng mắc, bất cập nêu trên đã gây khó khăn, lúng túng trong áp dụng các quy định của Luật hình sự trong hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án xâm phạm BMNN. Hiện nay, trong nước đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về công tác bảo vệ BMNN, nhưng chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu có hệ thống, toàn diện và sâu sắc về các tội xâm phạm BMNN trong Luật hình sự Việt Nam trên cả phương diện lý luận cũng như thực tiễn áp dụng. Để làm sáng tỏ mặt lý luận, nguyên nhân, hạn chế của việc áp dụng pháp luật hình sự đối với tội phạm này và hoàn thiện pháp luật, kiến nghị những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của Luật hình sự Việt Nam năm 1999 đối với các tội xâm phạm BMNN là vấn đề quan trọng và mang tính cấp thiết. Vì vậy, học viên chọn đề tài "Các tội xâm phạm bí mật nhà nước trong Luật Hình sự Việt Nam" làm luận văn thạc sĩ luật học. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài Công tác bảo vệ BMNN là công tác được nhiều quốc gia coi trọng, tuy nhiên do điều kiện có hạn nên tác giả chưa có điều kiện nghiên cứu sâu để tham khảo các công trình khoa học của các nước liên quan đến lĩnh vực này. Ở nước ta, cho đến nay đã có bốn đề tài khoa học cấp Bộ, hai đề tài cấp cơ sở, một Luận án tiến sĩ, một luận văn thạc sĩ nghiên cứu liên quan đến công tác bảo vệ BMNN và hơn sáu mươi bài viết đăng trên Tạp chí Công an nhân dân, Tạp chí khoa học và Chiến lược Công an, cụ thể: Đề tài khoa học cấp Bộ: “Giải pháp của lực lượng An ninh nhân dân 2
  11. nhằm nâng cao hiệu quả công tác bảo vệ BMNN trong lĩnh vực kinh tế trọng điểm ở Việt Nam hiện nay” của PGS.TS Đỗ Hữu Vấn, Trưởng khoa đào tạo, Học viện An ninh nhân dân (bảo vệ năm 2005). Đề tài khoa học cấp Bộ: “Công tác bảo vệ BMNN của lực lượng An ninh - Những vấn đề lý luận và thực tiễn” của PGS.TS Đặng Văn Đoài, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học An ninh nhân dân (bảo vệ năm 2009). Đề tài khoa học cấp Bộ: “Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác bảo vệ BMNN trong lực lượng Công an nhân dân” của Thiếu tướng Ma Văn Kỳ, Phó Chánh Thanh tra Bộ Công an (bảo vệ năm 2011). Đề tài khoa học cấp Bộ: “Giải pháp hoàn thiện pháp luật và cơ chế áp dụng pháp luật về bảo vệ BMNN trong tình hình hiện nay” của Đại tá Phạm Văn Trung, Phó Cục trưởng Cục Tham mưu An ninh, Tổng cục I, Bộ Công an (đề tài đang nghiên cứu). Đề tài khoa học cấp cơ sở: “Công tác bảo vệ BMNN của lực lượng An ninh trong lĩnh vực an ninh truyền thông” của Ths Mai Tùng Lâm, Phó Trưởng phòng 4/V11, Bộ Công an (bảo vệ năm 2012). Đề tài khoa học cấp cơ sở: “Công tác quản lý nhà nước về bảo vệ BMNN của lực lượng Công an nhân dân - Thực trạng và giải pháp” của Ths Đặng Thị Hồng Nhung, Phó Trưởng phòng Cục Tham mưu An ninh, Tổng cục I, Bộ Công an (bảo vệ năm 2014). Luận án tiến sĩ: “Bảo vệ BMNN ở các ban Đảng - Thực trạng và giải pháp” của nghiên cứu sinh Nguyễn Kim Hồng, Phó Chủ nhiệm Ủy ban pháp luật của Quốc hội (bảo vệ năm 2008). Luận văn thạc sĩ: “Phòng, chống lộ, lọt BMNN trong lực lượng Công an nhân dân qua các phương tiện thông tin, liên lạc” của Ths Mai Tùng Lâm, Phó Trưởng phòng 4/V11, Bộ Công an (bảo vệ năm 2012). Ngoài ra, một số tác giả cũng đã công bố những bài báo khoa học có đề 3
  12. cập đến công tác bảo vệ BMNN, như: Tăng cường công tác bảo vệ BMNN trong tình hình mới của Giáo sư, Tiến sĩ Trần Đại Quang, Bộ trưởng Bộ Công an; Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ BMNN trong tình hình mới của Trung tướng Trần Văn Thành, Phó Tổng Cục trưởng Tổng cục I, Bộ Công an; Một số ý kiến về truy xét, truy tìm các vụ lộ, mất BMNN của Đại tá Nhữ Quốc Sỹ, Phó Cục trưởng Cục Bảo vệ an ninh chính trị nội bộ, Tổng cục I, Bộ Công an; Quan hệ phối hợp giữa các cơ quan tư pháp trong điều tra, truy tố, xét xử các vụ án làm lộ BMNN của ông Vũ Trọng Thưởng, Phó Vụ trưởng Vụ 2, Viện kiểm sát nhân dân tối cao Tuy nhiên, các đề tài, luận án, luận văn và các bài viết nêu trên chủ yếu đề cập và giải quyết những vấn đề nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác bảo vệ BMNN trong từng lĩnh vực cụ thể: Bảo vệ BMNN ở các ban Đảng; bảo vệ BMNN trong lực lượng Công an nhân dân; bảo vệ BMNN trong lĩnh vực kinh tế trọng điểm; bảo vệ BMNN trong lĩnh vực thông tin, liên lạc hoặc hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ BMNN Chưa có đề tài nào nghiên cứu về các tội xâm BMNN trong Luật hình sự Việt Nam. Vì vậy, có thể khẳng định, đây là đề tài đầu tiên nghiên cứu về vấn đề này và việc nghiên cứu đề tài “Các tội xâm phạm BMNN trong Luật hình sự Việt Nam” là đòi hỏi khách quan, có ý nghĩa quan trọng trên cả phương diện lý luận và thực tiễn. 3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích của luận văn là nghiên cứu các quy định của pháp luật về các tội xâm phạm BMNN dưới khía cạnh lập pháp hình sự và áp dụng pháp luật trong thực tiễn, từ đó luận văn đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện quy định về các tội xâm phạm BMNN trong Luật hình sự Việt Nam, cũng như đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng những quy định này trong thực tiễn. 4
  13. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ chủ yếu sau: - Trên cơ sở kết quả tổng hợp các quan điểm của các tác giả trong nước về bảo vệ BMNN và tội xâm phạm BMNN, luận văn nghiên cứu làm sáng tỏ một số vấn đề chung về bảo vệ BMNN như: Khái niệm BMNN, đặc điểm của BMNN; tội xâm phạm các BMNN trong Luật hình sự Việt Nam. - Khái quát lịch sử phát triển của pháp luật hình sự của nước ta từ năm 1945 đến nay về các tội xâm phạm BMNN và dấu hiệu pháp lý của các tội xâm phạm BMNN theo quy định của BLHS Việt Nam năm 1999 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009) để rút ra những nhận xét, đánh giá. - Nghiên cứu, đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật hình sự về tội xâm phạm BMNN, từ đó phân tích làm rõ những tồn tại, hạn chế xung quanh việc áp dụng pháp luật và những nguyên nhân của tồn tại, hạn chế. - Kiến nghị, đề xuất những định hướng và giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật về các tội xâm phạm BMNN trong BLHS Việt Nam năm 1999 cũng như những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định này trong thực tiễn. 3.3. Phạm vi nghiên cứu Luận văn nghiên cứu và giải quyết những vấn đề xung quanh các quy định về các tội xâm phạm BMNN trong luật hình sự Việt Nam, kết hợp với việc nghiên cứu, đánh giá tình hình áp dụng pháp luật trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử và những nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế để kiến nghị những giải pháp hoàn thiện luật thực định và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật trong thực tiễn. Luận văn nghiên cứu trong phạm vi toàn quốc. Về thời gian: Luận văn nghiên cứu thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật về các tội xâm phạm BMNN trong 10 năm (2004-2014). 5
  14. 4. Phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng mác-xít, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền, về chính sách hình sự, về vấn đề cải cách tư pháp được thể hiện trong các Nghị quyết Đại hội Đảng VIII, IX, X, XI và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 26/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả luận văn đã sử dụng các phương pháp cụ thể và đặc thù của khoa học luật hình sự như: phương pháp phân tích và tổng hợp; phương pháp so sánh, đối chiếu; phương pháp diễn dịch; phương pháp quy nạp; phương pháp thống kê, điều tra xã hội học, phương pháp chuyên gia để tổng hợp các tri thức khoa học luật hình sự và luận chứng các vấn đề tương ứng được nghiên cứu trong luận văn. 5. Những điểm mới và đóng góp của luận văn Kết quả nghiên cứu luận văn có ý nghĩa quan trọng về phương diện lý luận và thực tiễn. Đây là công trình nghiên cứu đầu tiên và có hệ thống ở cấp độ một luận văn thạc sĩ luật học về các tội xâm phạm BMNN trong Luật hình sự Việt Nam; giải quyết nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan các tội xâm phạm BMNN trong luật hình sự Việt Nam. Những điểm mới cơ bản của luận văn là: - Tổng hợp các quan điểm khoa học trong nước về BMNN, đặc điểm của BMNN để xây dựng khái niệm các tội xâm phạm BMNN; - Nghiên cứu chỉ ra những đặc điểm chủ yếu của quá trình hình thành và phát triển các tội xâm phạm BMNN trong luật hình sự Việt Nam từ năm 1945 cho đến nay; - Nghiên cứu, đánh giá thực trạng áp dụng các quy định của pháp luật về các tội xâm phạm BMNN trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử; tồn tại, 6
  15. hạn chế và nguyên nhân của các tồn tại, hạn chế trong áp dụng các quy định của pháp luật về các tội xâm phạm BMNN; - Trên cơ sở kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn, luận văn đã kiến nghị giải pháp hoàn thiện pháp luật thực định và nâng cao hiệu quả áp dụng quy định này trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền và cải cách tư pháp hiện nay ở Việt Nam. Bên cạnh đó, luận văn sẽ là tài liệu tham khảo cần thiết và bổ ích cho các nhà lập pháp, các nhà nghiên cứu; cán bộ giảng dạy pháp luật, các nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh viên tại các cơ sở đào tạo luật, các trường Công an nhân dân. Kết quả nghiên cứu của luận văn còn phục vụ cán bộ đang công tác tại các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án và cơ quan Thi hành án trong quá trình giải quyết vụ án hình sự được khách quan, có căn cứ và đúng pháp luật. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về các tội xâm phạm BMNN trong Luật hình sự Việt Nam. Chương 2: Các quy định của BLHS Việt Nam năm 1999 về các tội xâm phạm BMNN và thực tiễn áp dụng. Chương 3: Hoàn thiện pháp luật và những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của BLHS Việt Nam năm 1999 về các tội xâm phạm BMNN. 7
  16. Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM BÍ MẬT NHÀ NƯỚC TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. Khái niệm các tội xâm phạm bí mật nhà nước 1.1.1. Khái niệm bí mật nhà nước Trong giai đoạn từ năm 1948 đến năm 1956, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có nhiều bài viết liên quan đến BMNN đăng trên các báo của nước ta: Ngày 30 tháng 7 năm 1948, Bác viết bài “Giữ bí mật” đăng trên báo Sự Thật (Số 97, bút danh A.G). Trong bài viết này, Bác nhấn mạnh tầm quan trọng của công tác giữ bí mật, phân tích nguyên nhân dẫn đến lộ, lọt bí mật và yêu cầu cơ quan, tổ chức, cán bộ phải nêu cao cảnh giác, có ý thức bảo mật và giáo dục, vận động nhân dân tham gia bảo mật, phòng gian. Ngày 01 tháng 6 năm 1950, Bác viết bài “Phải giữ bí mật” đăng trên báo Sự Thật (Số 134, bút danh X.Y.Z) khẳng định giữ bí mật là nhiệm vụ thiêng liêng, cao cả, thể hiện trách nhiệm của mỗi người đối với Tổ quốc, Chính phủ và nhân dân. Ngày 10 tháng 01 năm 1952, Bác viết bài “Giữ bí mật”, ký tên C.B đề cập đến việc phải hết sức giữ gìn bí mật trước các hoạt động tình báo, gián điệp của kẻ địch; kêu gọi cán bộ và chiến sĩ phải gương mẫu trong việc giữ gìn bí mật; đồng thời tuyên truyền và giáo dục nhân dân giữ bí mật. Sau Hiệp định Giơ-ne-vơ, trước nguy cơ kẻ địch phá hoại, không thực hiện nghiêm túc Hiệp định, ngày 01 tháng 02 năm 1956, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết bài: “Phải giữ bí mật của Nhà nước” đăng trên báo Nhân Dân. Nội dung bài báo khẳng định trách nhiệm bảo vệ bí mật của Nhà nước là của toàn dân, trước hết là trách nhiệm của cán bộ các cơ quan, các đoàn thể. Người phân tích, chỉ rõ những khuyết điểm, nguyên nhân để xảy ra lộ, lọt bí mật, phê phán sự chủ quan, lơ là, mất cảnh 8
  17. giác của một bộ phận cán bộ, chiến sĩ. Người đặc biệt cảnh báo tình trạng “một số ít người, vì lập trường không vững, chí khí ươn hèn, bị tiền tài, ăn uống, gái đẹp quyến rũ mà sa vào cạm bẫy của địch, tiết lộ bí mật cho địch” và yêu cầu các cơ quan, đoàn thể phải chú trọng công tác giáo dục, kiểm tra, xử lý nghiêm minh các trường hợp vi phạm quy định bảo mật. Nghiên cứu các bài báo, bài viết và hoạt động thực tiễn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, có thể rút ra khái niệm về BMNN của Bác rất ngắn gọn, xúc tích, dễ hiểu, dễ nhớ: "Bí mật là những gì mà để tiết lộ ra thì có hại cho ta, có lợi cho địch" và Bác luôn nhắc nhở cán bộ, chiến sĩ, báo chí và nhân dân phải tuyệt đối giữ bí mật để ngăn ngừa địch và tay sai dò xét, đánh cắp bí mật gây thiệt hại cho cách mạng. Theo Từ điển Tiếng Việt (tr.102): “Bí mật là điều cần giữ kín trong phạm vi một số ít người, không để lộ cho người ngoài biết” [18]. Điều 2 Sắc lệnh số 69/SL ngày 10/12/1951 của Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa quy định: “Bí mật quốc gia là những việc, những tài liệu, những địa điểm và những điều gì mà để tiết lộ ra thì có hại cho ta, có lợi cho địch” [9]. Như vậy, đến năm 1951 khái niệm BMNN chính thức được đưa vào văn bản quy phạm pháp luật và được sử dụng bằng thuật ngữ “bí mật quốc gia”. Kế thừa quy định của Sắc lệnh số 69, Pháp lệnh Bảo vệ BMNN năm 1991 quy định: BMNN là những tin về vụ việc, tài liệu, vật, địa điểm, thời gian, lời nói có nội dung quan trọng thuộc lĩnh vực chính trị, quốc phòng, an ninh, kinh tế, khoa học, công nghệ, các lĩnh vực khác mà Nhà nước không công bố hoặc chưa công bố và nếu bị tiết lộ thì gây nguy hại cho Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam [27]. 9
  18. Pháp lệnh Bảo vệ BMNN năm 1991 đã kế thừa một số thuật ngữ trong khái niệm “bí mật quốc gia” quy định trong Sắc lệnh số 69 để phát triển định nghĩa về BMNN đầy đủ và toàn diện hơn, bao quát nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Đáng chú ý, Pháp lệnh Bảo vệ BMNN năm 1991 đã thay cụm từ “bí mật quốc gia” bằng cụm từ “BMNN” và cụm từ này đã được sử dụng thống nhất trong các văn bản quy phạm pháp luật về bảo vệ BMNN và pháp luật hình sự quy định các tội xâm phạm BMNN. Qua chín năm triển khai thực hiện, một số quy định của Pháp lệnh Bảo vệ BMNN năm 1991 đã bộc lộ những vướng mắc, bất cập; không theo kịp tình hình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Ngày 28 tháng 12 năm 2000, Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa X đã ban hành Pháp lệnh Bảo vệ BMNN thay thế Pháp lệnh Bảo vệ BMNN năm 1991. Tại Điều 1, Pháp lệnh Bảo vệ BMNN năm 2000 quy định: BMNN là những tin về vụ việc, tài liệu, vật, địa điểm, thời gian, lời nói có nội dung quan trọng thuộc lĩnh vực chính trị, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, kinh tế, khoa học, công nghệ, các lĩnh vực khác mà Nhà nước không công bố hoặc chưa công bố và nếu bị tiết lộ thì gây nguy hại cho Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam [28]. Khái niệm về BMNN trong Pháp lệnh năm 2000 cơ bản vẫn kế thừa khái niệm BMNN quy định trong Pháp lệnh năm 1991, chỉ bổ sung cụm từ “đối ngoại” trong khái niệm. Từ năm 2000, khái niệm BMNN quy định trong Pháp lệnh Bảo vệ BMNN được sử dụng thống nhất trong các văn bản quy phạm pháp luật; giáo trình giảng dạy trong các trường Công an nhân dân; bài giảng tập huấn về công tác bảo vệ BMNN của các Bộ, ngành, địa phương trên toàn quốc. Phân tích khái niệm BMNN quy định tại Pháp lệnh Bảo vệ BMNN năm 2000, có thể khẳng định BMNN là tài sản quốc gia có giá trị đặc biệt, quan hệ 10
  19. trực tiếp đến sự tồn tại, phát triển, ổn định, sự vững mạnh của Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta; là những thông tin, tài liệu cần được giữ kín, không công khai, nếu bị tiết lộ sẽ gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, xã hội, gây ra hậu quả rất khó khắc phục; tồn tại phong phú, đa dạng dưới nhiều hình thức, trên nhiều phương tiện khác nhau (lời nói, văn bản, băng, đĩa, ổ cứng, USB, máy tính ); được lưu giữ, chuyển giao, sử dụng trong những phạm vi nhất định, liên quan đến nhiều người; là mục tiêu thu thập của các cơ quan đặc biệt nước ngoài, đối tượng xâm hại của các loại tội phạm; phạm vi BMNN luôn có sự thay đổi theo thời gian và sự phát triển kinh tế -xã hội. Việc xác định những tin, tài liệu, vật, địa điểm, thời gian có phải là BMNN hay không cần căn cứ vào danh mục BMNN được Thủ tướng Chính phủ và Bộ trưởng Bộ Công an quyết định trên cơ sở đề xuất của các Bộ, ngành, địa phương sau khi thống nhất với Bộ Công an. Mỗi Bộ, ban, ngành, địa phương đều có những tin, tài liệu, vật thuộc phạm vi BMNN khác nhau. Tuy nhiên, việc xác định tin, tài liệu, vật nào là Tuyệt mật, Tối mật và Mật phải căn cứ vào Pháp lệnh Bảo vệ BMNN, Quyết định của Thủ tướng Chính phủ và Thông tư (hoặc quyết định) của Bộ trưởng Bộ Công an về độ mật của tin, tài liệu, vật mang BMNN thuộc lĩnh vực công tác của mỗi Bộ, ban, ngành, địa phương. Như vậy, BMNN là những tin, tài liệu, vật được soạn thảo, lưu giữ, bảo quản tại các cơ quan, tổ chức. Những tin, tài liệu, vật này chúng ta có thể tiếp xúc, chuyển giao hàng ngày và được phổ biến bằng nhiều hình thức trong một phạm vi nhất định. Ví dụ: Tài liệu về chủ trương, đối sách của ta trong giải quyết vấn đề Biển Đông; tin, tài liệu về vụ án đang trong giai đoạn điều tra chưa công bố hoặc không công bố; bản dự thảo kết luận thanh tra về vụ, việc cụ thể chưa công bố; Đề thi, đáp án đề thi tốt nghiệp bậc phổ thông trung học 11
  20. chưa công bố (chưa tổ chức thi, chấm thi); Đề thi, đáp án đề thi tuyển sinh các trường cao đẳng, đại học chưa công bố (chưa tổ chức thi, chấm thi) Có thể thấy ở thời kỳ nào thì BMNN vẫn luôn được coi là “tài sản” đặc biệt thuộc sở hữu Nhà nước, do Nhà nước quản lý, nắm giữ, bảo vệ, khai thác hoặc chuyển giao để phục vụ các hoạt động đối nội, đối ngoại của đất nước. BMNN có liên quan trực tiếp đến sự ổn định về chính trị, vững mạnh về quốc phòng - an ninh và phát triển bền vững về kinh tế - xã hội. Do đó, các thế lực thù địch, bọn tội phạm và các đối tượng xấu luôn tìm cách thu thập, khai thác BMNN nhằm gây nguy hại cho Nhà nước. Ngày 24/9/2013, Ths Mai Tùng Lâm, Phó Trưởng phòng Bảo vệ BMNN và Pháp chế, Cục A82, Tổng cục An ninh II (Bộ Công an) có bài viết bàn về khái niệm BMNN, bí mật quốc gia đăng trên Tạp chí Cộng sản đưa ra quan niệm: BMNN là tin về vụ việc, tài liệu, vật, địa điểm, thời gian, lời nói hoặc thể hiện dưới dạng khác có nội dung quan trọng cần được giữ kín theo quy định của pháp luật, nếu bị tiết lộ sẽ gây thiệt hại nghiêm trọng cho lợi ích của tổ chức chính trị, chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế, tổ chức khác [19]. Theo quan niệm này, khái niệm BMNN ngắn gọn hơn so với khái niệm tại Điều 1 Pháp lệnh Bảo vệ BMNN năm 2000. Tuy nhiên, nội hàm của khái niệm vẫn còn một số thuật ngữ chưa rõ, cần phải giải thích thêm hoặc dẫn chiếu đến văn bản pháp luật khác, như “được giữ kín theo quy định của pháp luật”, “thiệt hại nghiêm trọng”; thiếu chủ thể là Nhà nước bị thiệt hại khi BMNN bị tiết lộ. Nghiên cứu các công trình khoa học và bài viết liên quan đến bảo vệ BMNN, các tác giả sử dụng chưa thống nhất thuật ngữ “BMNN”, “bí mật quốc gia”, kể cả trong các văn bản quy phạm pháp luật. Tuy nhiên, chưa có tác giả 12
  21. nào đưa ra khái niệm về BMNN đầy đủ và toàn diện hơn khái niệm BMNN được quy định tại Điều 1 Pháp lệnh Bảo vệ BMNN năm 2000 đã nêu ở trên. 1.1.2. Phân biệt bí mật nhà nước với bí mật công tác, bí mật công tác quân sự - Căn cứ pháp lý xác định BMNN, bí mật công tác, bí mật công tác quân sự: BMNN được xác định trên cơ sở danh mục BMNN được Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Công an và Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ban hành. Bí mật công tác được xác định trên cơ sở quy định của Thủ trưởng một cơ quan hành chính nhà nước nhất định. Bí mật công tác quân sự do Thủ trưởng cơ quan trong nội bộ Bộ Quốc phòng xác định. Văn bản xác định bí mật công tác, bí mật công tác quân sự không phải là văn bản quy phạm pháp luật mà là văn bản hành chính. - Phạm vi: BMNN có phạm vi rộng hơn bí mật công tác, bí mật công tác quân sự. BMNN bao gồm các lĩnh vực của đời sống xã hội, như lĩnh vực chính trị, an ninh, quốc phòng, ngoại giao, khoa học công nghệ, giáo dục, y tế ; bí mật công tác là những thông tin, tài liệu thuộc 01 lĩnh vực nhất định của cơ quan cụ thể; bí mật công tác quân sự là những thông tin, tài liệu thuộc lĩnh vực quốc phòng, do Bộ Quốc phòng quản lý. - Trách nhiệm bảo vệ: Bảo vệ BMNN là trách nhiệm của các tổ chức chính trị, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang và mọi công dân; bảo vệ bí mật công tác là trách nhiệm của cán bộ, công chức, viên chức thuộc cơ quan hành chính nhất định; bảo vệ bí mật công tác quân sự là trách nhiệm của quân nhân viên lực lượng Quân đội. - Hậu quả khi bị tiết lộ: BMNN bị tiết lộ sẽ gây hậu quả nghiêm trọng hơn bí mật công tác, bí mật công tác quân sự. Việc lộ BMNN gây nguy hại cho nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; lộ bí mật công tác ảnh hưởng xấu đến 01 cơ quan nhất định; lộ bí mật công tác quân sự gây nguy hại 13
  22. đến an ninh, quốc phòng, nếu nghiêm trọng hơn có thể gây ngụy hại đến an ninh quốc gia. Như vậy, BMNN, bí mật công tác, bí mật công tác quân sự đều là những thông tin, tài liệu bí mật, cần được giữ kín. Tuy nhiên do vị trí, tầm quan trọng khác nhau nên được bảo vệ bằng các biện pháp khác nhau và khi bị tiết lộ thì hành vi làm lộ BMNN sẽ bị xử lý nghiêm khắc hơn hành vi làm lộ bí mật công tác, bí mật công tác quân sự. 1.1.3. Phân loại bí mật nhà nước - Căn cứ vào tính chất quan trọng của nội dung tin, tài liệu, vật, BMNN được chia làm ba mức độ Tuyệt mật, Tối mật và Mật. Cụ thể: (1) Tuyệt mật là mức độ mật cao nhất trong phân loại độ mật của BMNN, bao gồm những tin, tài liệu, vật đặc biệt quan trọng, chỉ được phổ biến đến một số đối tượng nhất định (mật mã quốc gia, chiến lược bảo Tổ quốc ); (2) Tối mật là mức độ mật thứ hai sau độ Tuyệt mật trong phân loại độ mật của BMNN, bao gồm những tin, tài liệu, vật rất quan trọng, được phổ biến ở phạm vi rộng hơn tin, tài liệu, vật thuộc mức độ Tuyệt mật; (3) Mật là mức độ mật thứ ba sau độ Tuyệt mật và Tối mật trong phân loại độ mật của BMNN, bao gồm những tin, tài liệu, vật quan trọng được phổ biến ở phạm vi rộng, đến nhiều đối tượng. Những tin, tài liệu, vật thuộc 03 mức độ mật nêu trên được lưu giữ, bảo quản, bảo vệ chặt chẽ theo quy định của pháp luật về bảo vệ BMNN. Nghiên cứu Luật Bảo vệ BMNN của Trung Quốc thì BMNN cũng được chia làm mức độ mật và nội hàm của các mức độ mật cũng tương tự như quan điểm của các nhà làm luật Việt Nam. - Căn cứ vào lĩnh vực công tác, BMNN được phân loại thành nhiều lĩnh vực khác nhau, như: Lĩnh vực nhà nước trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh, ngoại giao, giáo dục, khoa học, y tế, tài chính, ngân hàng Hiện nay Thủ tướng Chính phủ và Bộ trưởng Bộ Công an, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đã ký, 14
  23. ban hành 52 danh mục BMNN của các bộ, ngành Trung ương và 01 danh mục BMNN chung cho các UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Những văn bản này là cơ sở pháp lý để các bộ, ngành, địa phương xác định BMNN thuộc cơ quan mình, quản lý, sử dụng để bảo vệ, phòng ngừa lộ, mất BMNN. 1.1.4. Hậu quả khi bí mật nhà nước bị tiết lộ BMNN khi bị tiết lộ sẽ gây ra những hậu quả rất nghiêm trọng, tùy theo mức độ mật của từng BMNN hoặc điều kiện, hoàn cảnh cụ thể mà hậu quả thiệt hại sẽ khác nhau. Theo quy định tại Điều 1 Pháp lệnh Bảo vệ BMNN năm 2000, BMNN bị tiết lộ sẽ gây nguy hại cho Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam. Sự nguy hại ở đây có thể độc lập, chủ quyền quốc gia; sự tồn vong của chế độ XHCN; sự an nguy của lãnh đạo Đảng, Nhà nước; tính mạng của quần chúng nhân dân; lợi ích kinh tế của đất nước Ví dụ: Đối tượng nguyên là cán bộ Công an của Huyện Đ, tỉnh L, từng làm công tác cơ yếu tại Công an huyện Đ. Khi nghỉ hưu, đối tượng này đã cộng tác với cơ quan đặc biệt nước ngoài, trong đó có cung cấp cho cơ quan này mật mã được sử dụng để mã hóa, truyền nhận thông tin trong lực lượng cơ yếu Công an nhân dân. Theo quy định của pháp luật về bảo vệ BMNN thì đây là mật mã quốc gia thuộc độ Tuyệt mật, nếu nắm được những mật mã người sử dụng có thể mã hóa, giải mã toàn bộ thông tin khi truyền nhận. Do đó, các nội dung tài liệu chuyển nhận trong lực lượng Công an đã được cơ quan đặc biệt nước khai thác, sử dụng gây bất lợi cho ta trên phương diện ngoại giao, đảm bảo an ninh, trật tự hậu quả là toàn bộ thông tin chuyển bằng con đường này đều bị lộ và Chính phủ đã phải thay tất cả bộ mã mới để đảm bảo an ninh, an toàn thông tin (gây thiệt hại về kinh tế nhiều tỷ đồng). 1.1.5. Khái niệm tội cố ý làm lộ bí mật nhà nước; tội chiếm đoạt, mua bán, tiêu hủy tài liệu bí mật nhà nước Khoa học pháp lý hình sự Việt Nam chưa đưa ra khái niệm về tội cố ý 15