Luận văn Các tội mại dâm trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh: Tình hình, nguyên nhân và phòng ngừa
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Các tội mại dâm trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh: Tình hình, nguyên nhân và phòng ngừa", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_cac_toi_mai_dam_tren_dia_ban_thanh_pho_ho_chi_minh.pdf
Nội dung text: Luận văn Các tội mại dâm trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh: Tình hình, nguyên nhân và phòng ngừa
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN QUỐC TUÂN CÁC TỘI MẠI DÂM TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH: TÌNH HÌNH, NGUYÊN NHÂN VÀ PHÒNG NGỪA LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2017
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN QUỐC TUÂN CÁC TỘI MẠI DÂM TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH: TÌNH HÌNH, NGUYÊN NHÂN VÀ PHÒNG NGỪA Chuyên ngành: Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm Mã số: 60.38.01.05 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. NGUYỄN THỊ PHƢƠNG HOA HÀ NỘI - 2017
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 Chƣơng 1: TÌNH HÌNH CÁC TỘI PHẠM MẠI DÂM TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TỪ NĂM 2011 ĐẾN NĂM 2015 7 1.1. Khái niệm về các tội mại dâm và các đặc điểm của các tội mại dâm 7 1.2. Phần rõ của tình hình các tội về mại dâm 13 Chƣơng 2: NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU KIỆN CỦA TÌNH HÌNH CÁC TỘI PHẠM VỀ MẠI DÂM VÀ THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG PHÒNG NGỪA TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TỪ NĂM 2011 ĐẾN NĂM 2015 37 2.1. Nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội mại dâm trên địa bàn Thành Phố Hồ Chí Minh 37 2.2. Các nguyên nhân và điều kiện của các tội phạm cụ thể 45 Chƣơng 3: DỰ BÁO VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƢỜNG PHÒNG NGỪA CÁC TỘI PHẠM VỀ MẠI DÂM TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 54 3.1. Dự báo tình hình các tội phạm về mại dâm trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian tới 54 3.2 Các giải pháp tăng cường phòng ngừa tội phạm về mại dâm trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh 59 KẾT LUẬN 70 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 72
- DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT ANTQ : An ninh tổ quốc BLHS : Bộ luật hình sự CSĐTTP : Cảnh sát điều tra tội phạm PCMD : Phòng chống mại dâm TNHS : Trách nhiệm hình sự UBND : Ủy ban nhân dân
- DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 1.1. Số vụ các tội về mại dâm cụ thể qua từng năm tại địa bàn thành phố Hồ Chí Minh 14 Bảng 1.2. Chỉ số tội phạm (cơ số tội phạm) của các tội về mại dâm trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2011 đến năm 2015 16 Bảng 1.3. Cơ số các tội về mại dâm trên địa bàn tỉnh Bình Phước. 17 Bảng 1.4. Cơ số các tội về mại dâm trên địa bàn tỉnh Đồng Nai. 17 Bảng 1.5. Cơ số các tội về mại dâm trên địa bàn tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu 18 Bảng 1.6. Cơ số các tội về mại dâm trên địa bàn tỉnh Bình Dương 18 Bảng 1.7. Cơ số các tội về mại dâm khu vực các tỉnh miền Đông Nam Bộ 19 Bảng 1.8. Cơ cấu của tình hình các tội về mại dâm trong mối quan hệ với các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh 20 Bảng 1.9. Cơ cấu tình hình các tội về mại dâm trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh năm 2011 đến năm 2015 xét theo hình phạt đã áp dụng 22 Bảng 1.10. Cơ cấu của tình hình các tội về mại dâm trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh năm 2011 đến năm 2015 xét theo loại tội đã phạm 23 Bảng 1.11. Cơ cấu của tình hình các tội về mại dâm xét theo độ tuổi của người phạm tội trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh 24 Bảng 1.12. Cơ cấu của tình hình các tội về mại dâm xét theo giới tính của người phạm tội trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh 24 Bảng 1.13. Cơ cấu của tình hình các tội về mại dâm xét về quốc tịch và dân tộc của người phạm tội trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh 25 Bảng 1.14. Cơ cấu của tình hình các tội về mại dâm trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh xét theo trình độ học vấn 25 Bảng 1.15. Cơ cấu của tình hình các tội về mại dâm trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh xét theo nghề nghiệp của người phạm tội 26
- Bảng 1.16. Tỷ lệ bị cáo so với vụ án phạm các tội về mại dâm trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh 29
- DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ Biểu đồ 1.1. Mức độ tình hình các tội về mại dâm trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh năm 2011 đến năm 2015 15 Biểu đồ 1.2. Tỷ trọng các tội về mại dâm so với các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng cộng trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh 21 Biểu đồ 1.3. Diễn biến của tình hình các tội về mại dâm trên địa thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2011 đến năm 2015 27 Biểu đồ 1.4. Diễn biến của tình hình các tội về mại dâm theo số người phạm tội trên địa thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2011 đến năm 2015 28
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong thời gian qua, tình hình tội phạm ở nước ta diễn biến vô cùng phức tạp trong đó tội phạm về mại dâm có chiều hướng gia tăng, hoạt động mại dâm biểu hiện dưới nhiều hình thức kinh doanh trá hình, thủ đoạn phạm tội ngày càng tinh vi, ảnh hưởng xấu đến đời sống và an toàn xã hội, ảnh hưởng đến phong tục tập quán của dân tộc, phá vỡ hạnh phúc gia đình, đe dọa đến tương lai giống nòi của dân tộc, là một nguyên nhân làm lây lan hiểm họa HIV/AIDS. Các loại tội phạm về mại dâm phát sinh không chỉ ở thành thị mà cả ở nông thôn, không chỉ dừng lại ở trong nước mà còn tổ chức buôn bán phụ nữ ra nước ngoài. Trong những năm qua, các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về các tội mại dâm đã góp phần quan trọng vào công tác đấu tranh, phòng ngừa loại tội phạm này. Tuy nhiên, các quy định đó còn chưa thật cụ thể và đầy đủ. Mặt khác, do tình hình thay đổi nên một số văn bản pháp luật về phòng chống tội phạm về mại dâm cần phải được bổ sung để đáp ứng nhu cầu thực tiễn. Các cơ quan pháp luật vẫn còn lúng túng, chưa có quan điểm thống nhất trong việc giải quyết các vụ án về tội chứa mại dâm, môi giới mại dâm hay mua dâm đối với người chưa thành niên. Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay có rất nhiều cơ sở phát sinh tội phạm về mại dâm như: vũ trường, Bar, karaoke, nhà hàng, quán ăn, cơ sở massage, tẩm quất, spa, xông hơi xoa bóp có tiếp viên nữ Theo nhận định của các lực lượng chức năng thành phố Hồ Chí Minh hiện nay nhiều người hoạt động mại dâm với tính chất, quy mô ngày càng lớn, diễn biến vô cùng phức tạp, thủ đoạn ngày càng tinh vi. Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn cấp bách, cần thiết phải đi sâu nghiên cứu, khảo sát, đánh giá tình hình các tội về mại dâm, từ đó đề ra các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động phòng ngừa và nguyên nhân 1
- dẫn đến tình hình tội phạm, đưa ra các giải pháp phòng, ngừa loại tội phạm này một cách có hiệu quả hơn trong thời gian tới. Vì vậy, tôi chọn đề tài: “ Các tội về mại dâm trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh: tình hình, nguyên nhân và phòng ngừa” làm luận văn Thạc sỹ luật học, chuyên ngành Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm, mong muốn đóng góp các đề xuất thiết thực cho việc thực hiện tốt mục tiêu, nhiệm vụ làm giảm đến mức thấp nhất tội phạm, góp phần giữ vững an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, tạo môi trường thuận lợi cho việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của thành phố trong những năm tới. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Để có cơ sở cho việc nghiên cứu luận văn này các công trình khoa học sau đây đã nghiên cứu: - "Tội phạm học, Luật hình sự, Luật tố tụng Hình sự Việt Nam" NXB Chính trị quốc gia, 1994. - Giáo trình "Tội phạm học" của GS.TS. Võ Khánh Vinh, Nxb Công An Nhân Dân, tái bản năm 2011, 2013. - "Một số vấn đề lý luận về tình hình tội phạm ở Việt Nam" của PGS.TS Phạm Văn Tỉnh, Nxb Tư pháp, năm 2007. - "Mại dâm, ma túy, cờ bạc, tội phạm thời hiện đại" GS.TS Nguyễn Xuân Yêm: Học viện CSND, Hà Nội năm 2003. - Luận án tiến sĩ "Điều tra tội phạm về mại dâm có tổ chức" của tác giả Nguyễn Hồng Minh, Học viện CSND, Hà Nội năm 2009. - Luận văn cao học "Tội mua dâm người chưa thành niên theo Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 - Lý luận và thực tiễn" của tác giả Nguyễn Việt Khánh Hòa, Khoa Luật- Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2010. - Luận văn cao học "Đấu tranh phòng chống tội phạm mại dâm trên địa bàn thành phố Hà Nội"của tác giả Nguyễn Quang Lộc, LAHS.47 năm 1997. 2
- - Bài viết "Pháp luật một số quốc gia về chống mại dâm và mua bán phụ nữ"của tác giả Nguyễn Trung Tín, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 7/1998. - Bài viết "Tội chứa mại dâm, môi giới mại dâm: Lý luận và thực tiễn" của tác giả Đỗ Đức Hồng Hà,Tạp chí nghiên cứu lập pháp, số 22/2010. - Bài viết "Về những vướng mắc và hướng hoàn thiện quy định của pháp luật về tội chứa mại dâm, tội môi giới mại dâm" của tác giả Nguyễn Thị Ngọc Hoa, Tạp chí tòa án nhân dân, số 20/2011. Song, các công trình nghiên cứu trên hoặc là về các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng nói chung hoặc là nghiêng về mặt đấu tranh phòng ngừa tội phạm, có rất ít các công trình nghiên cứu chuyên sâu về góc độ tội phạm nói chung và các tội về mại dâm nói riêng. Với luận văn này tác giả đã đi sâu tìm hiểu phân tích khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của các tội về mại dâm, những vấn đề TNHS đối với tội này, tình hình các tội về mại dâm trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2011 đến năm 2015; nguyên nhân và giải pháp của tình hình các tội này; dự báo tình hình tội này trong tương lai, từ đó đề xuất các giải pháp phòng ngừa có hiệu quả trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. Vấn đề nằm ở chỗ, thành phố Hồ Chí Minh, ngoài các báo cáo tổng kết, báo cáo chuyên đề và nhiều báo cáo của các Sở, Ban, Ngành về những vấn đề liên quan đến phòng ngừa tình hình các tội về mại dâm thì chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu một cách toàn diện về thực trạng, nguyên nhân của các tội về mại dâm một cách toàn diện và có hệ thống làm cơ sở đề xuất các giải pháp phòng ngừa một cách hiệu quả trong giai đoạn hiện nay và thời gian tới. 3
- 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu - Mục đích của đề tài là thông qua việc làm rõ tình hình các tội về mại dâm trên địa bàn TP.HCM từ năm 2011 đến năm 2015, nguyên nhân điều kiện của tình hình các phạm tội về mại dâm trên địa bàn nói trên; trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh, phòng ngừa loại tệ nạn này ở thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian tới. - Để thực hiện mục đích trên, luận văn cần giải quyết các nhiệm vụ sau: Một là, nghiên cứu lý luận và pháp luật. Nhiệm vụ này bao gồm những hoạt động cụ thể như: Tìm, thu thập và nghiên cứu những tài liệu về tội phạm học, về pháp luật hình sự và những tài liệu khác liên quan đến đề tài luận văn làm cơ sở cho việc nhận thức thống nhất, rõ ràng phương pháp luận nghiên cứu và sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể cho phù hợp; Hai là, nghiên cứu thực tế, bao gồm các hoạt động sau: + Nghiên cứu tình hình các tội về mại dâm trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2011 đến năm 2015; + Phân tích nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội về mại dâm trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2011 đến năm 2015; + Đánh giá thực trạng phòng ngừa để thấy những hạn chế và khắc phục; + Dự báo xu hướng, tình hình diễn biến của tệ nạn mại dâm và đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả biện pháp phòng ngừa các tội về mại dâm trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian tới. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Những vấn đề lý luận về hoạt động phòng ngừa các tội về mại dâm, tình hình, đặc điểm, thực trạng, giải pháp nâng cao hiệu quả phòng ngừa mại dâm ở thành phố Hồ Chí Minh. 4
- - Phạm vi nghiên cứu: Xét về mặt nội dung: đề tài của tác giả nghiên cứu trong phạm vi tội phạm học, thuộc chuyên ngành tội phạm học và phòng ngừa tội phạm. Về thời gian: đề tài sử dụng chất liệu nghiên cứu trong vòng 5 năm từ năm 2011 đến năm 2015, bao gồm số liệu thống kê xét xử sơ thẩm hình sự của Tòa án các tội về mại dâm và 322 bản án hình sự sơ thẩm về các tội mại dâm trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. Về không gian: đề tài được thực hiện trên phạm vi thành phố Hồ Chí Minh. Về tội danh: đề tài nghiên cứu các tội về mại dâm theo quy định từ Điều 254 – 257 chương XIX Các tội xâm phạm về an toàn công cộng, trật tự công cộng trong Bộ luật hình sự 1999. 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu - Luận văn nghiên cứu dựa trên cơ sở pháp luận là phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác – Lênin; dựa trên tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Ngoài ra, tác giả còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như phương pháp phân tích, phương pháp so sánh, phương pháp tổng hợp, phương pháp nghiên cứu vụ án điển hình, phương pháp tham khảo các tư liệu trong các công trình đã công bố. - Cụ thể hóa về phương pháp: Phương pháp phân tích tổng hợp được sử dụng xuyên suốt luận văn và để thực hiện tất cả các nhiệm vụ nghiên cứu. Phương pháp thống kê so sánh được sử dụng để phân tích tình hình tội phạm. Phương pháp nghiên cứu vụ án điển hình được sử dụng để cùng với các phương pháp khác để phân tích nguyên nhân, điều kiện phạm tội. 5
- 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Về lý luận: trên cơ sở nghiên cứu lý luận chung về hoạt động phòng ngừa các tội về mại dâm, nghiên cứu của đề tài góp phần bổ sung lý luận về hoạt động phòng ngừa nhóm tội phạm đặc thù trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, điển hình về mại dâm cũng như lý luận tội phạm học. Về thực tiễn: kết quả nghiên cứu của đề tài là những tài liệu tham khảo giúp các cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh đề ra các giải pháp nâng cao hiệu quả phòng ngừa các tội về mại dâm, góp phần tăng cường hiệu quả hoạt động phòng, chống tội phạm trong phạm vi thành phố Hồ Chí Minh nói riêng và Việt Nam nói chung. Kết quả nghiên cứu của đề tài cũng là những tài liệu tham khảo hữu ích cho các cán bộ, giảng viên, sinh viên trong các cơ sở đào tạo. 7. Cơ cấu của luận văn Luận văn được thiết kế gồm ba phần: Phần mở đầu, phần nội dung và phần kết luận. Trong đó, phần nội dung được chia làm ba chương: Chương 1: Tình hình các tội phạm mại dâm trên địa bàn thành phố Hồ Chính Minh từ năm 2011 đến năm 2015. Chương 2: Nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội phạm về mại dâm và thực trạng hoạt động phòng ngừa trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2011 đến năm 2015. Chương 3: Dự báo và một số giải pháp tăng cường phòng ngừa các tội phạm về mại dâm trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. 6
- Chƣơng 1 TÌNH HÌNH CÁC TỘI PHẠM MẠI DÂM TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TỪ NĂM 2011 ĐẾN NĂM 2015 1.1. Khái niệm về các tội mại dâm và các đặc điểm của các tội mại dâm 1.1.1. Khái niệm các tội về mại dâm Mại dâm là thuật ngữ phổ biến, thuật ngữ mại dâm có nguồn gốc là Prostituere, có nghĩa là "bày ra để bán" chỉ việc bán thân một cách tùy tiện, không thích thú, đây là hiện tượng xã hội, là biểu hiện của sự sai lệch về chuẩn mực đạo đức trong xã hội. Có nhiều quan điểm xem xét mại dâm ở các bình diện khác nhau, nhưng đều xác định mại dâm là hoạt động mua bán tình dục. Như vậy: mại dâm là hành vi nhằm thỏa mãn các dịch vụ về tình dục ở các mức độ, hình thức khác nhau như: giao hợp hoặc khiêu dâm, dâm ô, làm tình kể cả cùng giới hay khác giới. Hành vi mua bán, thỏa mãn nhu cầu tình dục ngoài phạm vi hôn nhân và trái với các quy định pháp luật của nhà nước. Việc quan hệ tình dục được thực hiện trên cơ sở mua bán, có sự thỏa thuận trước. Người bán dâm thu lợi thông qua hành vi làm thỏa mãn nhu cầu tình dục của người khác và được người mua dâm, người tổ chức mại dâm trả hoặc hứa trả một giá trị vật chất nhất định (tiền hoặc vật có giá trị). Tóm lại, mại dâm thực chất là hoạt động mua bán tình dục ngoài phạm vi quan hệ hôn nhân. Với đặc trưng trên, mại dâm là hành vi chứ không phải con người, nó là hoạt động mua bán tình dục. Các tội phạm về mại dâm đã xuất hiện từ rất lâu và hiện nay vẫn đang tồn tại, gây bức xúc cho xã hội. Tội phạm về mại dâm có rất nhiều khái niệm nhưng không thống nhất. Để phòng, ngừa tội phạm về mại dâm có hiệu quả, trước hết cần có quan điểm rõ ràng phân biệt sự khác nhau giữa tệ nạn mại 7
- dâm và tội phạm về mại dâm. Tệ nạn mại dâm là hiện tượng xã hội tiêu cực có tính phổ biến, gồm những hành vi về hoạt động mua bán tình dục trên cơ sở một giá trị vật chất nhất định ngoài phạm vi hôn nhân, gây hậu quả nghiêm trọng trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội và ảnh hưởng đến an ninh trận tự, còn tội phạm về mại dâm bao gồm các hành vi về hoạt động mua bán tình dục được quy định và điều chỉnh bằng pháp luật hình sự. Tội phạm về mại dâm là một nhóm tội cụ thể, được quy định trong BLHS, thỏa mãn các điều kiện của tội phạm nói chung được quy định tại khoản 1 Điều 8 " là hành vi nguy hiểm cho xã hội được định trong BLHS, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa". Tội phạm với các dấu hiệu đặc trưng cơ bản: một là hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến các quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ; hai là hành vi được quy định trong BLHS; ba là hành vi có lỗi do người có năng lực và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý. Như vậy, Bộ luật hình sự hiện hành có 3 tội về mại dâm quy định bao gồm: Tội chứa mại dâm - Điều 254; Tội môi giới mại dâm - Điều 255. Tội mua dâm người chưa thành niên - Điều 256. Ba tội về mại dâm nằm trong chương XVIII: "Các tội phạm về ma túy" của BLHS năm 1999, điều chỉnh các hành vi xâm phạm đến an toàn công cộng, trật tự công cộng. Theo quy định tại khoản 1 Điều 254 và khoản 1 Điều 255 BLHS thì: 1) Tội chứa mại dâm là hành vi chứa mại dâm; 2) Tội môi giới mại dâm là hành 8
- vi dụ dỗ hoặc dẫn dắt người mại dâm. Theo quy định tại Điều 3 Pháp lệnh Phòng, chống mại dâm ngày 14/3/2003 (Pháp lệnh PCMD) thì: “1) Tội chứa mại dâm là hành vi sử dụng, thuê, cho thuê hoặc mượn, cho mượn địa điểm, phương tiện để thực hiện việc mua dâm, bán dâm. 2) Tội môi giới mại dâm là hành vi dụ dỗ hoặc dẫn dắt của người làm trung gian để các bên thực hiện việc mua dâm, bán dâm”. Hiện nay ở Việt Nam còn có nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm tội chứa mại dâm, tội môi giới mại dâm. Quan điểm thứ nhất cho rằng, “1) Tội chứa mại dâm là hành vi hành vi tạo điều kiện vật chất hoặc tinh thần cho hoạt động mại dâm được thực hiện; 2) Tội môi giới mại dâm là hành vi làm trung gian bằng cách dụ dỗ hoặc dẫn dắt cho hoạt động mại dâm giữa người mua dâm và người bán dâm”. Quan điểm thứ hai cho rằng, “1) Tội chứa mại dâm là hành vi cho thuê chỗ, cho mượn chỗ, bố trí chỗ, bố trí gái mại dâm, tạo điều kiện cho người mua, bán dâm hoạt động; 2) Tội môi giới mại dâm là hành vi dụ dỗ, dẫn dắt, làm trung gian cho người mua dâm và người bán dâm gặp nhau để mại dâm”. Quan điểm thứ ba cho rằng, “1) Tội chứa mại dâm là hành vi cho thuê, cho mướn địa điểm hoặc tạo các điều kiện vật chất khác cho hoạt động mại dâm; bố trí người canh gác bảo vệ cho hoạt động mại dâm; nhận gái mại dâm là người làm thuê, là nhân viên để che mắt nhà chức trách và cho hoạt động bán dâm; cho gái bán dâm hoạt động ở nơi kinh doanh của mình để trục lợi; 2) Tội môi giới mại dâm là hành vi dụ dỗ hoặc dẫn dắt mại dâm”. Tuy còn có nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm tội chứa mại dâm, môi giới mại dâm, nhưng qua phân tích, chúng tôi thấy các quan điểm trên có những điểm chung đó là: 1) Về tội chứa mại dâm, đều là hành vi tạo điều kiện vật chất hoặc tinh thần cho hoạt động mại dâm; 2) Về tội môi giới mại dâm, đều là hành vi dụ dỗ hoặc dẫn dắt mại dâm; 3) Đối với tội mua dâm người chưa thành niên, lỗi của người phạm tội bắt buộc phải là lỗi cố ý. Tức là biết 9
- hoặc có thể biết nhưng để mặc (người phạm tội có thể nghi ngờ, nhưng vẫn tiến hành thực hiện hành vi giao cấu, dù biết rằng có thể giao cấu với mình là người chưa thành niên). Lỗi cố ý là người phạm tội biết và nhận thức được hành vi của mình và đã lựa chọn hành vi phạm tội. Như vậy, lỗi của người phạm tội không thuộc một trong hai trường hợp trên, bởi người phạm tội không biết, không nghi ngờ và do bên bán có hành vi lừa dối, để người phạm tội hoàn toàn tin tưởng rằng gái mại dâm đã thành niên. Vậy, xét về mặt hình thức người phạm tội đã có hành vi mua dâm người chưa thành niên, nhưng xét về mặt lỗi thì lỗi lại là vô ý. Đối với tội "mua dâm người chưa thành niên", không truy tố về hành vi đối với lỗi vô ý. Trên cơ sở khái niệm tội phạm nói chung, các quy định của BLHS, Pháp lệnh PCMD, các quan điểm về khái niệm tội chứa mại dâm, môi giới mại dâm, chúng tôi đưa ra khái niệm tội chứa mại dâm, môi giới mại dâm như sau: 1) Tội chứa mại dâm là hành vi tạo điều kiện vật chất hoặc tinh thần cho hoạt động mại dâm; do người có năng lực trách nhiệm hình sự và từ đủ 14 hoặc 16 tuổi trở lên cố ý thực hiện; xâm phạm đến trật tự nơi công cộng. 2) Tội môi giới mại dâm là hành vi dụ dỗ hoặc dẫn dắt của người làm trung gian để các bên thực hiện việc mua dâm, bán dâm; do người có năng lực trách nhiệm hình sự và từ đủ 14 hoặc 16 tuổi trở lên cố ý thực hiện; xâm phạm đến trật tự nơi công cộng. 3) Tội mua dâm người chưa thành niên: là sự thỏa thuận trả tiền hoặc vật chất khác cho người chưa đủ 13 tuổi đến dưới 18 tuổi để thực hiện hành vi giao cấu với người đó. Tội phạm được coi là hoàn thành từ thời điểm người phạm tội đã thỏa thuận với người chưa thành niên và người chưa thành niên đã nhận lời. 10
- 1.1.2. Các dấu hiệu pháp lý của các tội mại dâm theo pháp luật hình sự Việt Nam Bất kỳ tội phạm nào cũng đều xâm hại đến một hoặc một số quan hệ xã hội nhất định được Luật Hình sự bảo vệ bằng cách gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho những quan hệ xã hội đó. Những quan hệ xã hội được xác định cần bảo vệ bởi các quy phạm pháp luật hình sự bao gồm: “Độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội, quyền lợi ích hợp pháp của tổ chức, tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền lợi ích hợp pháp khác của công dân, những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa” (Điều 8, BLHS). Các tội phạm về mại dâm xâm phạm vào những qui định của Nhà nước về an toàn công cộng, trật tự công cộng. Như vậy khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại, có thể xác định khách thể của tội chứa mại dâm, môi giới mại dâm là trật tự công cộng. Hành vi mại dâm tác động tiêu cực đến đời sống văn minh, hủy hoại nhân cách con người, gây thiệt hại về vật chất, tinh thần cho cá nhân, gia đình, xã hội là nguyên nhân làm phát sinh nhiều loại tội phạm, tệ nạn xã hội, lây truyền bệnh xã hội. Những quy định về an toàn công cộng, trật tự công cộng là những quy định ở những nơi công cộng, những nơi tập trung đông người. Những nơi tập trung đông người liên quan đến lối sống văn minh được mọi người biết, thừa nhận, chấp hành. Những hành vi vi phạm đã gây ảnh hưởng đến việc duy trì đảm bảo hoạt động bình thường ở những nơi công cộng. Hành vi khách quan của các tội về mại dâm xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng là những hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện bằng hành động hoặc không hành động. Các tội phạm được thực hiện bằng các hành động cụ thể như hành vi cho thuê, cho mượn địa điểm để làm nơi tụ 11
- tập những người mua, bán dâm; làm trung gian, tổ chức móc nối, dụ dỗ, dẫn dắt để cho người mại dâm và người khác quan hệ tình dục với nhau; hành vi thỏa thuận trả tiền hoặc vật chất người từ đủ 13 tuổi đến dưới 18 tuổi để thực hiện hành vi giao cấu với người đó Tội phạm được coi là hoàn thành từ thời điểm người phạm tội đã thực hiện hành vi cho thuê, mượn địa điểm để làm nơi tụ tập những người mua, bán dâm; người phạm tội đã thực hiện các hành vi dụ dỗ, mốc nối, dẫn dắt người mại dâm; người phạm tội đã thực hiện các hành vi dụ dỗ, mốc nối, dẫn dắt người mại dâm và người mại dâm đã có sự nhận lời, thỏa thuận; người phạm tội đã thỏa thuận với người chưa thành niên và người chưa thành niên đã nhận lời. Chủ thể của tội phạm về mại dâm: chủ thể của tội phạm là người đã có lỗi trong việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị pháp luật hình sự cấm, có năng lực trách nhiệm hình sự TNHS và đủ tuổi chịu TNHS theo luật định. Như vậy, chủ thể của tội phạm là người đạt độ tuổi chịu TNHS, có năng lực TNHS và đã thực hiện một tội phạm cụ thể. Cơ sở pháp lý để xác định chủ thể của tội phạm về mại dâm là Điều 12, 13, 254, 255, 256 BLHS năm 1999. Chủ thể của tội phạm về mại dâm không phải là chủ thể đặc biệt, tức là bất cứ người nào có năng lực TNHS và đạt độ tuổi luật định khi thực hiện tội phạm chứa mại dâm, môi giới mại dâm, mua dâm người chưa thành niên. Mặt chủ quan của tội phạm về mại dâm: mặt chủ quan của tội phạm là hoạt động tâm lý bên trong của người phạm tội. Đó là những biểu hiện về mặt tâm lý của người phạm tội khi thực hiện hành vi phạm tội bao gồm lỗi, động cơ và mục đích phạm tội. Theo quy định tại Điều 254, 255, 256 BLHS năm 1999 thì tội chứa mại dâm, môi giới mại dâm, mua dâm người chưa thành niên được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Trong tội chứa mại dâm, môi giới mại dâm, mua dâm người chưa thành niên chủ thể có ý thức lựa chọn xử sự gây thiệt hại cho xã hội trong khi có đủ điều kiện không thực hiện hành vi đó. Người chứa mại 12
- dâm, môi giới mại dâm, mua dâm người chưa thành niên nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, bị luật hình sự cấm, nhận thức rõ tính chất xâm phạm đến trật tự công cộng nhưng vẫn tìm mọi cách thực hiện. Mặt khác, tội chứa mại dâm, môi giới mại dâm, mua dâm người chưa thành niên được xây dựng dưới dạng cấu thành tội phạm hình thức – dấu hiệu hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm cơ bản của tội phạm này. Vì vậy, việc các chủ thể thực hiện hành vi chứa mại dâm, môi giới mại dâm, mua dâm người chưa thành niên nhận thức rõ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà vẫn quyết định thực hiện hành vi đó đã có thể khẳng định thái độ mong muốn hậu quả của chủ thể. Cả ba tội xâm phạm về mại dâm có hình thức lỗi cố ý, người phạm tội nhận thức được tính chất nguy hiểm của hành vi những mong muốn hoặc cố ý thức bỏ mặc cho hậu quả xảy ra. Động cơ mục đích phạm tội của các tội phạm về mại dâm là vụ lợi và thỏa mãn nhu cầu dục vọng cá nhân. 1.2. Phần rõ của tình hình các tội về mại dâm Từ quan niệm cho rằng: “Tình hình tội phạm là một khách thể nghiên cứu cơ bản của tội phạm học và là khái niệm để chỉ hiện tượng tâm-sinh lý-xã hội tiêu cực, có tính lịch sử và lịch sử cụ thể, pháp lý hình sự và giai cấp, được biểu hiện tổng thể bằng các hành vi phạm tội đã xảy ra và các chủ thể thực hiện các hành vi đó trong một đơn vị hành chính – lãnh thổ nhất định và trong một đơn vị thời gian nhất định.” [21;tr.63]. Chúng ta phải thừa nhận tình hình tội phạm với tư cách là một hiện tượng xã hội được biểu hiện thông qua các thông số (đặc điểm) về lượng bao gồm mức độ và diễn biến của tình hình tội phạm. Còn thông số về chất là cơ cấu và tính chất của tình hình tội phạm. Thông số về lượng và chất có mối liên hệ, tác động qua lại. Sự thay đổi của mỗi thông số đều dẫn đến tình hình thay đổi của tội phạm. 13
- 1.2.1 Mức độ của tình hình các tội về mại dâm Mức độ của tình hình các tội về mại dâm là một trong hai thông số về lượng của tình hình các tội này bao gồm tổng số các tội về mại dâm xảy ra và số lượng người thực hiện các tội phạm đó trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh và trong thời gian từ năm 2011 đến năm 2015. Mức độ của tình hình các tội về mại dâm như đã nhấn mạnh là tổng số các tội về mại dâm và số bị cáo đã bị các tòa án trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh xét xử, tuyên án bằng bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật. Trên cơ sở số liệu thống kê số vụ án và số bị cáo bị xét xử về các loại tội phạm nói chung và các tội về mại dâm nói riêng trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh là cơ sở để mô tả mức độ tình hình các tội về mại dâm trên địa bàn từ năm 2011 đến năm 2015. Bảng 1.1. Số vụ các tội về mại dâm cụ thể qua từng năm tại địa bàn thành phố Hồ Chí Minh Các tội về mại Tình hình tội phạm Tỷ lệ % dâm Năm Số ngƣời Số vụ Số ngƣời Số ngƣời Số vụ án Số vụ án phạm tội án phạm tội phạm tội (1) (3/1) (2) (3) (4) (4/2) 2011 7380 12120 61 109 0.83 0.90 2012 7731 12585 61 97 0.79 0.77 2013 7823 13234 50 94 0.64 0.71 2014 8161 13930 96 161 1.18 1.16 2015 8671 14424 54 91 0.62 0.63 Tổng 39766 66293 322 552 0.80 0.83 cộng (Nguồn: Số liệu từ Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh)[17] 14
- Theo số liệu thống kê, từ năm 2011 đến năm 2015 ở thành phố Hồ Chí Minh đã xảy ra 322 vụ các tội về mại dâm với số người phạm tội 552 người. Trong đó năm 2014 xảy ra nhiều vụ các tội về mại dâm nhất với 96 vụ và năm mà tình hình các tội về mại dâm xảy ra ít nhất là năm 2013 chỉ với 50 vụ. Biểu đồ 1.1. Mức độ tình hình các tội về mại dâm trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh năm 2011 đến năm 2015 (Nguồn: Số liệu từ Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh)[17] Qua biểu đồ trên cho ta thấy từ năm 2011 đến năm 2015 trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh đã xảy ra 322 vụ các tội về mại dâm với 552 bị cáo, theo đó số vụ phạm tội có năm tăng, năm giảm. Đỉnh điểm là năm 2014 với số lượng vụ án và bị cáo cao nhất 96 vụ với 161 bị cáo chiếm 1,18 % số vụ án và 1,16 % số bị cáo phạm tội các tội về mại dâm. * Chỉ số tội phạm (cơ số tội phạm) Tình hình các tội về mại dâm trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2011 đến năm 2015 còn được thể hiện qua chỉ số tội phạm, đó là chỉ số 15
- cơ khai quát nhất mức độ tình hình tội phạm đối với một đơn vị hành chính - lãnh thổ trong đơn vị thời gian là 1 năm và được tính bằng số hành vi phạm tội trên 100.000 dân. Bảng 1.2. Chỉ số tội phạm (cơ số tội phạm) của các tội về mại dâm trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2011 đến năm 2015 Dân số Cơ số tội Tỉ lệ vụ Số vụ Số bị cáo trung bình Năm phạm (1/2) (1) (2) (ngƣời) (2/3) (3) 2011 61 109 7498400 1.45 55.96 2012 61 97 7660300 1.26 62.88 2013 50 94 7820000 1.20 53.19 2014 96 161 7981900 2.02 59.62 2015 54 91 8146300 1.12 59.34 Tổng số 322 552 39106900 1.41 58.33 (Nguồn: Số liệu từ Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh)[17] Qua các biểu đồ trên cho chúng ta thấy chỉ số tội phạm ở thành phố Hồ Chí Minh tương đối cao, trung bình cứ 100.000 dân thì xảy ra 101.68 vụ án các loại. Còn chỉ số các tội phạm về mại dâm tương đối thấp, bình quân là 0.82 vụ trên 100.000 dân. Chúng ta cũng thấy chỉ số các tội phạm về mại dâm không ổn định, cao nhất ở năm 2014 là 2.02 và thấp nhất ở năm 2015 là 1.12. Như vậy chúng ta thấy chỉ số tội phạm thực tế có lúc tăng có lúc giảm theo mỗi năm. Để thấy rõ hơn mức độ của tình hình các tội về mại dâm trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, cần so sánh cơ số tình hình tội này trên địa bàn thành 16