Luận văn Các tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Các tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_cac_toi_hiep_dam_theo_quy_dinh_cua_bo_luat_hinh_su.pdf
Nội dung text: Luận văn Các tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT CAO HỮU SÁNG C¸C TéI HIÕP D¢M THEO QUY §ÞNH CñA Bé LUËT H×NH Sù VIÖT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2015
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT CAO HỮU SÁNG C¸C TéI HIÕP D¢M THEO QUY §ÞNH CñA Bé LUËT H×NH Sù VIÖT NAM Chuyên ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự Mã số: 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. CAO THỊ OANH HÀ NỘI - 2015
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. TÁC GIẢ LUẬN VĂN Cao Hữu Sáng
- MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt Danh mục các bảng Danh mục các biểu đồ MỞ ĐẦU 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÁC TỘI HIẾP DÂM 7 1.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc quy định các tội hiếp dâm trong pháp luật hình sự Việt Nam 7 1.1.1. Cơ sở lý luận 7 1.1.2. Cơ sở thực tiễn 11 1.2. Khái quát lịch sử lập pháp Việt Nam về các tội hiếp dâm 12 1.2.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến trước khi Bộ luật hình sự năm 1985 có hiệu lực pháp luật 12 1.2.2. Giai đoạn Bộ luật hình sự năm 1985 có hiệu lực pháp luật 15 1.2.3. Giai đoạn từ khi Bộ luật hình sự năm 1999 có hiệu lực pháp luật đến nay 19 1.3. Quy định của pháp luật hình sự một số nước trên thế giới về các tội hiếp dâm 20 1.3.1. Quy định về các tội hiếp dâm trong pháp luật hình sự Liên bang Nga 20 1.3.2. Quy định về các tội hiếp dâm trong pháp luật hình sự nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa 22 1.3.3. Quy định về các tội hiếp dâm trong pháp luật hình sự Vương quốc Thụy Điển 24
- 1.3.4. Quy định về các tội hiếp dâm trong pháp luật hình sự Nhật Bản 26 1.4. Quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về các tội hiếp dâm 27 1.4.1. Tội hiếp dâm 28 1.4.2. Tội hiếp dâm trẻ em 42 1.4.3. So sánh tội hiếp dâm và tội hiếp dâm trẻ em với một số tội phạm khác 46 Kết luận Chương 1 51 Chương 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ ĐỐI VỚI CÁC TỘI HIẾP DÂM VÀ NHỮNG ĐỀ XUẤT KIẾN NGHỊ 52 2.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự đối với các tội hiếp dâm từ năm 2009 đến hết năm 2014 52 2.1.1. Những kết quả đạt được trong điều tra, truy tố, xét xử về các tội hiếp dâm trên địa bàn cả nước từ năm 2009 đến năm 2014 52 2.1.2. Những tồn tại, thiếu sót trong điều tra, truy tố, xét xử về các tội hiếp dâm 59 2.2. Những nguyên nhân gây nên những tồn tại trong áp dụng pháp luật hình sự về các tội hiếp dâm 71 2.2.1. Nguyên nhân xuất phát từ những hạn chế, vướng mắc do quy định của pháp luật 71 2.2.2. Khó khăn, vướng mắc xuất phát từ tính chất đặc thù của vụ án 77 2.2.3. Nguyên nhân xuất phát từ yếu tố nguồn nhân lực 81 2.3. Các đề xuất, kiến nghị nâng cao hiệu quả giải quyết các vụ án hiếp dâm 82 2.3.1. Hoàn thiện pháp luật hình sự đối với các tội hiếp dâm 82 2.3.2. Các đề xuất, kiến nghị khác nâng cao hiệu quả giải quyết các vụ án phạm các tội hiếp dâm 88 Kết luận Chương 2 93 KẾT LUẬN 95 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 99
- DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLHS: Bộ luật hình sự TAND: Tòa án nhân dân TANDTC: Tòa án nhân dân tối cao
- DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu bảng Tên bảng Trang Bảng 1.1: Số vụ án phạm tội hiếp dâm và tội hiếp dâm trẻ em trên địa bàn cả nước từ năm 2009 đến hết năm 2014 11 Bảng 2.1: Thống kê số liệu vụ án Tòa án thụ lý mới hàng năm về các tội hiếp dâm trên địa bàn cả nước giai đoạn 2009 – 2014 52 Bảng 2.2: Kết quả xét xử sơ thẩm các tội hiếp dâm trên địa bàn cả nước giai đoạn từ năm 2009 đến năm 2014 55 Bảng 2.3: Số vụ án xét xử sơ thẩm bị cấp xét xử phúc thẩm hủy, sửa bản án, quyết định trên địa bàn cả nước giai đoạn từ năm 2009 đến năm 2014 56
- DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ Số hiệu biểu đồ Tên biểu đồ Trang Biểu đồ 1.1: Biểu đồ biến động các vụ án phạm tội hiếp dâm và tội hiếp dâm trẻ em được đưa ra xét xử trên địa bàn toàn quốc từ năm 2009 đến năm 2014 11 Biểu đồ 2.1: Biểu đồ biến động số lượng vụ án bị đình chỉ xét xử hoặc trả hồ sơ để điều tra lại tại giai đoạn xét xử sơ thẩm trên địa bàn cả nước từ năm 2009 đến hết năm 2014 55 Biểu đồ 2.2: Biểu đồ biến động số lượng vụ án Tòa án cấp xét xử phúc thẩm phải sửa án hoặc hủy bản án sơ thẩm 57
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc" [19]. Ngay từ khi khai sinh ra nước Việt Nam, bản tuyên ngôn độc lập đã nhấn mạnh quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Quyền được sống được Hiến pháp 1992 thể hiện: Công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm [24, Điều 71]. Hiến pháp năm 2013 khẳng định: Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khỏe, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ một hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm [28, Điều 20]. Để bảo vệ các quyền ấy, pháp luật Việt Nam đã cụ thể hóa quy định của Hiến pháp tại nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau, trong đó có Bộ luật hình sự. Cùng với tiến trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, mục tiêu quan trọng được nhà nước ta luôn đặt ra đó là bảo đảm quyền con người - quyền mà hầu hết các nước trên thế giới đều thừa nhận và là một trong những thước đo sự phát triển của đất nước đó. Các tội hiếp dâm với khách thể bảo vệ là quyền bất khả xâm phạm về tình dục của trẻ em và phụ nữ; nhân phẩm, danh dự, sức khỏe của trẻ em, phụ nữ và trật tự an toàn xã hội. Do đó, để đất nước phát triển thì nhất thiết phải có những công trình khoa học nghiên cứu, đánh giá và từ đó đưa ra các giải pháp hoàn thiện các quy 1
- định pháp luật hình sự về các tội hiếp dâm sao cho pháp luật phù hợp với tình hình thực tế của đất nước. Cùng với sự phát triển và giao lưu văn hóa, sự phát triển không ngừng về internet và mạng xã hội giúp chất lượng cuộc sống của người dân được nâng cao, dễ dàng hơn trong việc tiếp thu nhiều luồng văn hóa khác nhau trên thế giới. Tuy nhiên, song song với đó là sự xâm thực của những luồng văn hóa độc hại, làm ảnh hưởng và suy đồi văn hóa của một bộ phận giới trẻ hiện nay, dẫn đến việc gia tăng, biến dạng các tội phạm xâm phạm về tình dục hay các tội phạm hiếp dâm được quy định trong Bộ luật hình sự Việt Nam. Vì vậy, cần có cái nhìn tổng quát về loại tội phạm này trong giai đoạn hiện nay để từ đó đưa ra những giải pháp phù hợp với tình hình xã hội hiện nay và góp phần vào việc sửa đổi Bộ luật hình sự trình Quốc hội khóa XIII năm 2015 kịp thời thông qua, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp ở nước ta. Do đó để giải quyết vấn đề này tôi chọn đề tài luận văn: “Các tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam” làm luận văn thạc sĩ luật học. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài Tại Việt Nam hiện nay có một số công trình nghiên cứu khoa học về tội hiếp dâm và tội hiếp dâm trẻ em ở cấp độ bài viết thì có: “Về các tội phạm tình dục trong luật hình sự Việt Nam”, TS. Dương Tuyết Miên, Tạp chí luật học số 06, năm 1998; “Một số ý kiến khi áp dụng tình tiết định khung Nhiều người hiếp một người”, Ths. Nguyễn Thị Tuyết, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 03, năm 1999; “Về tội hiếp dâm quy định tại Điều 111 Bộ luật hình sự”, Nguyễn Hiển Khanh, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 02, năm 2006; “Một vài ý kiến trao đổi về tội hiếp dâm theo quy định tại Điều 111 Bộ luật hình sự”, Ths. Đỗ Việt Cường, Tạp chí Kiểm sát số 23, năm 2008; “Trao đổi về tội hiếp dâm theo Điều 111 Bộ luật hình sự”, Ths.Đặng Xuân Nam, Tạp chí kiểm sát số 07, năm 2009. 2
- Về luận văn có các công trình: “Các tội phạm tình dục và đấu tranh chống các tội này ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”, Trịnh Thị Thu Hương, Luận văn thạc sỹ luật học, Hà Nội, năm 2004; “Đấu tranh phòng, chống tội hiếp dâm trẻ em trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh”, Nguyễn Minh Nhật, Luận văn thạc sỹ luật học, tại Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, năm 2008; “Đấu tranh phòng, chống tội hiếp dâm trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng”, Phan Thị Ngoan, Luận văn thạc sỹ luật học, tại Học viện Khoa học Xã hội, năm 2013. Nhìn chung các bài viết chỉ đánh giá, phân tích ở một khía cạnh nhất định của các quy định của pháp luật hình sự đối với các tội hiếp dâm như: giải quyết thế nào là hành vi giao cấu, có công nhận nữ giới là người thực hành trực tiếp hay không, áp dụng Điều 47 BLHS đối với các tội hiếp dâm đã hợp lý hay chưa, mà chưa có một cái nhìn khái quát, toàn diện và đầy đủ các quy định về loại tội phạm này để từ đó đưa ra những kiến nghị điều chỉnh mang tính đồng bộ, thống nhất. Về luận văn thì chỉ mới nghiên cứu dưới góc độ tội phạm học mà chưa có các công trình nghiên cứu dưới góc độ pháp luật hình sự và tố tụng hình sự. Hơn nữa cùng với sự phát triển của nền y học hiện đại thì thay đổi giới tính là vấn đề mới. Việc thay đổi giới tính ảnh hưởng đến việc xác định giới tính của người bị hại, người thực hành trực tiếp của các tội hiếp dâm ảnh hưởng đến việc định tội danh của tội phạm nhưng chưa có công trình nghiên cứu chuyên sâu nào. Như vậy, với tình hình nghiên cứu trên đây lại một lần nữa cho phép khẳng định việc nghiên cứu đề tài "Các tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam" là đòi hỏi khách quan, cấp thiết, là yêu cầu lý luận và thực tiễn. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn * Mục đích nghiên cứu Qua việc làm rõ những vấn đề lý luận, pháp lý và các quy định của 3
- pháp luật liên quan đến các tội hiếp dâm, trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự xuất phát từ thực tiễn xét xử về tội phạm, nhằm mục đích làm sáng tỏ những vấn đề trong hoạt động định tội danh, quyết định hình phạt khi xét xử các tội hiếp dâm, tìm ra những hạn chế, thiếu sót để đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả, chất lượng giải quyết các vụ án hiếp dâm và hiếp dâm trẻ em, góp phần trong công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm này. * Nhiệm vụ nghiên cứu Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ chủ yếu sau: - Khái quát sự phát triển của các quy định về tội hiếp dâm trong lịch sử pháp luật hình sự của nước ta từ năm 1945 đến nay và kinh nghiệm lập pháp hình sự về các tội này ở một số nước trên thế giới; - Nghiên cứu các quy định cụ thể về các tội hiếp dâm trong Bộ luật hình sự hiện hành của Việt Nam; đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định về các tội hiếp dâm, đồng thời làm rõ những tồn tại, hạn chế xung quanh việc áp dụng pháp luật và những nguyên nhân, hạn chế của nó; - Đề xuất một số giải pháp hoàn thiện các quy định về các tội hiếp dâm trong Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành, cũng như giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật trong thực tiễn. 4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu * Đối tượng nghiên cứu Những vấn đề về lý luận và thực tiễn về các tội hiếp dâm trong luật hình sự Việt Nam, trên cơ sở số liệu thực tiễn xét xử của Tòa án cả nước. * Phạm vi nghiên cứu Các quy định của BLHS năm 1999 được sửa đổi bổ sung năm 2009 và thực tiễn xét xử các tội hiếp dâm trong giai đoạn năm 2009 đến hết năm 2014. 5. Phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật 4
- lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng mác-xít, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền, về chính sách hình sự, về vấn đề cải cách tư pháp được thể hiện trong các Nghị quyết Đại hội Đảng VIII, IX, X và các Nghị quyết số 08- NQ/TW ngày 02/01/2002, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 26/5/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 của Bộ Chính trị. Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả luận văn đã sử dụng các phương pháp cụ thể và đặc thù của khoa học luật hình sự như: phương pháp phân tích và tổng hợp; phương pháp so sánh, đối chiếu; phương pháp diễn dịch; phương pháp quy nạp; phương pháp thống kê, điều tra xã hội học để tổng hợp các tri thức khoa học luật hình sự và luận chứng các vấn đề tương ứng được nghiên cứu trong luận văn. 6. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn Trên cơ sở lý luận gắn với thực tiễn đấu tranh, phòng chống các tội hiếp dâm trong BLHS hiêṇ hành đ ể làm sáng tỏ những kiến thứ c cơ bản nhất cũng như chỉ ra những ưu điểm và hạn chế trong các quy định về loại tội phạm này, cùng quan điểm quốc tế về các tội hiếp dâm cũng như quy định tương tư ̣ trong pháp luâṭ hình sư ̣ của môṭ số nướ c trên thế giớ i sẽ giúp cho các nhà làm luật nước ta có thêm nguồn thông tin phân tích, đánh giá và học hỏi kỹ thuật lập pháp để tiếp tục hoàn thiện quy định về tội phạm này trong quá trình sửa đổi, bổ sung tiếp theo của BLHS. Về măṭ thưc̣ tiêñ , những số liêụ mà luâṇ văn cung cấp se ̃ giúp các nhà nghiên cứ u có sư ̣ đánh giá chính xác hiêụ quả của viêc̣ áp duṇ g pháp luật đối với các tội hiếp dâm trong thời gian qua. Luận văn cũng chỉ ra những bất câp̣ , nguyên nhân ảnh hưở ng tớ i viêc̣ áp duṇ g pháp luật về các tội hiếp dâm. Những giải pháp, kiến nghị mà luận văn đề xuất sẽ góp ph ần nâng cao hiệu quả áp dụng quy định về các tội hiếp dâm của BLHS trên thực tế, phục vụ yêu 5
- cầu đấu tranh phòng chống các loại tội phạm xâm phạm tình dục đối với phụ nữ và trẻ em trong thời gian tới. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 2 chương: Chương 1: Những vấn đề chung về các tội hiếp dâm Chương 2: Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự đối với các tội hiếp dâm và những đề xuất, kiến nghị 6
- Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÁC TỘI HIẾP DÂM 1.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc quy định các tội hiếp dâm trong pháp luật hình sự Việt Nam 1.1.1. Cơ sở lý luận Tội phạm là một hiện tượng xã hội pháp lý gắn liền với sự ra đời của nhà nước và pháp luật, cũng như với sự xuất hiện của sở hữu tư nhân và sự phân chia xã hội thành các giai cấp đối kháng. Nói cách khác, tội phạm là một khái niệm được giai cấp cầm quyền thông qua nhà nước và pháp luật đưa ra để bảo vệ một quan hệ xã hội nhất định, coi hành vi xâm phạm đến các quan hệ xã hội được bảo vệ là các hành vi nguy hiểm cho xã hội. Từ đó là căn cứ để xác định tội phạm. Việc quy định tội hiếp dâm xuất phát từ những nguyên nhân sau: Thứ nhất, xuất phát từ yêu cầu khách quan của việc tội phạm hóa các hành vi nguy hiểm cho xã hội Hành vi hiếp dâm là hành vi xâm phạm đến sức khỏe, tính mạng, danh dự, nhân phẩm của người phụ nữ. Hành vi này ngày càng phức tạp và nguy hiểm. Nhiều vụ án xảy ra có tính chất đặc biệt nghiêm trọng, thể hiện sự suy đồi đạo lý nghiêm trọng, coi thường tính mạng, sức khỏe và nhân phẩm của phụ nữ và trẻ em, gây bức xúc trong dư luận xã hội, như bố đẻ hiếp dâm con gái ruột, anh trai hiếp dâm em gái, chồng hiếp dâm con riêng của vợ, ông ngoại hiếp dâm cháu, nhiều người hiếp dâm một người, người bị hại trong vụ hiếp dâm còn quá nhỏ tuổi, xâm hại tình dục làm người bị xâm hại mang thai và sinh con, hiếp dâm rồi giết người nhằm trốn tránh sự tố giác của người bị hại, trốn tránh sự phát hiện, trừng trị của pháp luật Văn hóa và đạo đức của người Việt Nam rất coi trọng trinh tiết, phẩm giá của người phụ nữ, do đó người bị hại thường rất khó có thể hòa nhập trở 7
- lại với xã hội, thường bị xã hội xem thường, xa lánh. Hậu quả về mặt tinh thần đối với loại tội phạm này rất nặng nề, người bị hại không tự giải tỏa được về mặt tinh thần thì thường tìm đến cái chết để giải thoát. Hành vi hiếp dâm thường bao gồm hành vi sử dụng vũ lực để đạt được mục đích giao cấu trái ý muốn của nạn nhân, che giấu tội phạm, xâm phạm đến sức khỏe, tính mạng của nạn nhân. Mức độ nguy hiểm của hành vi hiếp dâm là đặc biệt nghiêm trọng, do đó việc quy định hành vi hiếp dâm là hành vi phạm tội là khách quan và cấp thiết. Thứ hai, xuất phát từ vai trò vị trí quan trọng của biện pháp xử lý hình sự trong hệ thống các biện pháp của nhà nước để bảo vệ các quan hệ xã hội Khác với các biện pháp xử lý hành chính, cũng như sử dụng các chuẩn mực đạo đức xã hội, phong tục tập quán, biện pháp xử lý hình sự chiếm vị trí quan trọng đặc biệt mà không ai có thể phủ nhận vai trò của nó. Với tư cách là một biện pháp bảo vệ tính ổn định, bền vững của các mối quan hệ xã hội, pháp luật hình sự đóng vai trò phòng ngừa và giáo dục trong công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm. Khi những biện pháp khác không thực sự đủ mạnh, tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi. Bằng những chế tài nghiêm khắc nhất, biện pháp xử lý hình sự sẽ có sức ảnh hưởng lớn đối với những chủ thể có ý định thực hiện các hành vi hiếp dâm. Những chủ thể này sẽ phải hứng chịu những hậu quả bất lợi từ các hình thức xử phạt có thể bị áp dụng nếu thực hiện hành vi đó. Chính vì vậy, quy định các tội hiếp dâm là việc sử dụng biện pháp xử lý hình sự với mục đích làm công cụ chính, hiệu quả để răn đe, ngăn ngừa và trừng trị người thực hiện hành vi hiếp dâm cũng như răn đe người có ý định thực hiện hành vi hiếp dâm. Thứ ba, xuất phát từ tính chất kế thừa các quy định pháp luật cũng như sự phù hợp với chuẩn mực đạo đức và truyền thống tốt đẹp của con người Việt Nam Tại việt nam, từ rất sớm, hành vi hiếp dâm đã bị nhà nước phong kiến xác định là tội phạm. Điều này thể hiện rõ trong các chế định pháp luật hình 8
- sự, điển hình tại hai bộ luật: Bộ luật Hồng Đức và Bộ luật Gia Long. Bộ luật Hồng Đức quy định: Kẻ nào hiếp dâm thì xử lưu hay chết. Phải nộp tiền tạ tội hơn một bậc đối với tiền tạ tội gian dâm thường. Nếu gây thương tích cho người đàn bà thì xử nặng hơn một bậc đánh người bị thương. Nếu làm chết người đàn bà thì điền sản kẻ phạm tội phải giao cho nhà người bị chết [56, Điều 403]; gian dâm với con gái nhỏ 12 tuổi trở xuống, dù nó thuận tình thì vẫn xử như tội hiếp dâm [56, Điều 404]. Bộ luật Gia Long quy định các hành vi hiếp dâm nằm trong tội gian dâm, không tách riêng thành một tội. Tội gian dâm được quy định tại quyển thứ 18 của Bộ luật Gia Long. Hành vi hiếp dâm nằm trong quy định của tội gian dâm, khi người phụ nữ bị cưỡng hiếp, tùy vào thân phận người phụ nữ đã có chồng hay chưa, chồng chết hay còn mà mức hình phạt tăng lên. Đối với tội gian dâm mà “Bị cưỡng hiếp, người phụ nữ không có tội” [57, Quyển 18]; Bộ luật Gia Long cũng quy định hành vi hiếp dâm đối với trẻ em gái dưới 12 tuổi: Gian dâm con gái 12 tuổi trở xuống, dù hòa đồng cũng buộc tội theo chỗ cưỡng [57, Quyển 18]; Phạm Gian Dâm Phạm hòa gian bị 80 trượng, có chồng phạt 90 trượng, điêu gian (có hay không chồng) phạt trăm trượng. Cưỡng gian, treo cổ (giam chờ), chưa thành, phạt trăm trượng, lưu ba ngàn dặm (phàm cưỡng gian phải có trạng thái cường bạo mà người phụ nữ không có khả năng chống trả chạy thoát, cũng phải có người biết, nghe và cơ thể có vết thương, y phục bị xé rách, mới buộc tội treo cổ) [57, Quyển 18]. Từ thời phong kiến, các nhà nước phong kiến đã nhận thức được hành vi hiếp dâm là hành vi đặc biệt nguy hiểm cho xã hội. Do đó các chế định pháp luật hình sự quy định về tội hiếp dâm được xây dựng từ rất sớm và được 9
- kế thừa qua các triều đại, nhà nước phong kiến khác nhau. Từ khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời ngày 02 tháng 9 năm 1945, thì yêu cầu quy định về tội phạm nói chung và tội phạm hiếp dâm nói riêng là hết sức cần thiết để ổn định trật tự xã hội, bảo vệ quyền lợi chính đáng cho nhân dân. Việc quy định hiếp dâm là một loại tội phạm là phù hợp với phong tục, tập quán, thuần phong, mỹ tục, đạo đức và văn hóa của con người Việt Nam. Thứ tư, việc ghi nhận tội hiếp dâm xuất phát từ yêu cầu của chính sách của Đảng và Nhà nước, đồng thời phù hợp với pháp luật quốc tế Ngay khi giành được độc lập, do không thể kịp thời ban hành các văn bản quy phạm pháp luật nên ngày 10/10/1945, Nhà nước ta đã ban hành Sắc lệnh số 47-SL quy định tạm thời giữ các luật lệ cũ, trong đó có Bộ “Luật hình An Nam”, Bộ “Hoàng Việt hình luật” và Bộ “Hình luật pháp tu chính” với điều kiện “ không trái với nguyên tắc độc lập của nước Việt Nam và chính thể dân chủ cộng hòa”. Như vậy Nhà nước ta tiếp tục thừa nhận các quy định về hành vi hiếp dâm là hành vi phạm tội được quy định trong các luật lệ cũ. Đến ngày 01/01/1986, bộ luật hình sự năm 1985 có hiệu lực pháp luật thì các hành vi hiếp dâm đã được ghi nhận cụ thể tại Điều 112. Cho đến nay, trong điều kiện tình hình mới của đất nước, Bộ luật hình sự năm 1999 được sửa đổi bổ sung năm 2009 tiếp tục quy định các tội hiếp dâm tại Điều 111 và Điều 112. Ngoài ra, theo tinh thần cải cách tư pháp đến năm 2020 được quy định tại Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 của Bộ Chính trị thì các tội hiếp dâm vẫn tiếp tục được ghi nhận và hoàn thiện để phù hợp với tình hình phát triển mới của đất nước. Về phương diện pháp luật quốc tế, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều thừa nhận hành vi hiếp dâm là hành vi phạm tội và có hình phạt nghiêm khắc để răn đe và trừng trị như Mỹ, Trung Quốc, Nga, Thụy Điển, Nhật, Canada, Hàn Quốc, Ấn Độ việc Việt Nam thừa nhận hành vi hiếp dâm là hành vi phạm tội là phù hợp với pháp luật của các nước trên thế giới cũng như các điều 10
- ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên như Công ước về quyền trẻ em, Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền, Tuyên ngôn thế giới về quyền trẻ em. 1.1.2. Cơ sở thực tiễn Qua số liệu vụ án phạm tội hiếp dâm và tội hiếp dâm trẻ em được đưa ra xét xử trên địa bàn toàn quốc từ năm 2009 đến năm 2014 ta có thể nhìn nhận một cách rõ ràng nhất về tình hình, diễn biến của loại tội phạm này trên thực tế để từ đó có những đánh giá chính xác sự cấp thiết phải tiếp tục quy định hành vi hiếp dâm là tội phạm trong pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành. Bảng 1.1: Số vụ án phạm tội hiếp dâm và tội hiếp dâm trẻ em trên địa bàn cả nước từ năm 2009 đến hết năm 2014 Năm Tội hiếp dâm Tội hiếp dâm trẻ em 2009 357 541 2010 325 545 2011 326 559 2012 338 603 2013 375 704 2014 366 698 (Nguồn: Tòa án nhân dân tối cao) 800 700 600 500 400 Tội hiếp dâm 300 Tội hiếp dâm trẻ em 200 100 0 2009 2010 2011 2012 2013 2014 Biểu đồ 1.1: Biểu đồ biến động các vụ án phạm tội hiếp dâm và tội hiếp dâm trẻ em được đưa ra xét xử trên địa bàn toàn quốc từ năm 2009 đến năm 2014 (Nguồn: Tòa án nhân dân tối cao) 11
- Qua số liệu vụ án về các tội hiếp dâm được đưa ra xét xử từ năm 2009 đến hết năm 2014 và Biểu đồ biến động các vụ án phạm tội hiếp dâm và hiếp dâm trẻ em ta thấy: số vụ án đưa ra xét xử về tội hiếp dâm năm 2009 là 357 vụ đến năm 2010 giảm xuống 325 vụ sau đó lại tiếp tục tăng dần từ năm 2011 đến năm 2013, năm 2014 có giảm xuống, nhưng giảm không đáng kể, từ năm 2009 đến năm 2014 chỉ tăng 5%, như vậy có thể nói loại tội phạm này có sự ổn định dần theo từng năm. Tội hiếp dâm trẻ em có số lượng vụ án lớn hơn nhiều so với tội hiếp dâm (nhiều hơn khoảng 52% so với tội hiếp dâm cùng năm). Tội hiếp dâm trẻ em liên tục tăng mạnh vào những năm gần đây báo hiệu mức độ cực kỳ nguy hiểm của loại tội phạm này đối với xã hội (năm 2009 có 541 vụ, đến năm 2014 là 698 vụ tăng 30%). Ngoài sự gia tăng về số lượng các vụ án phạm các tội hiếp dâm thì Tính chất, mức độ nghiêm trọng của các vụ án này cũng có xu hướng ngày càng tăng lên, điển hình là các vụ án: Vụ án Đỗ Văn Banh phạm tội giết người và tội hiếp dâm trẻ em xảy ra trên địa bàn tỉnh Bình Dương; Vụ án Nguyễn Thanh Lâm phạm tội hiếp dâm trẻ em và tội giết người trên địa bàn thành phố Cần Thơ; Vụ án Lê Văn Dũng hiếp dâm chính con gái ruột của mình tại tỉnh Thừa Thiên Huế; Vụ án Đặng Trần Hoài phạm tội giết người đối với cháu gái 4 tuổi và phạm tội hiếp dâm đối với cháu gái 8 tuổi trên địa bàn Thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội, gây ra nhiều dư luận xấu trong xã hội. Hành vi hiếp dâm ngày càng phổ biến, phức tạp và nguy hiểm, số lượng vụ án ngày càng tăng lên theo các năm. Do đó việc quy định các tội hiếp dâm trong BLHS là cấp thiết và khách quan, phù hợp với tình hình trật tư, an ninh và xã hội của đất nước. 1.2. Khái quát lịch sử lập pháp Việt Nam về các tội hiếp dâm 1.2.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến trước khi Bộ luật hình sự năm 1985 có hiệu lực pháp luật Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa được khai sinh trong lúc điều kiện 12
- chính trị, kinh tế còn có nhiều khó khăn, tình hình xã hội phức tạp, kinh tế lạc hậu, bị chiến tranh tàn phá, tài chính cạn kiệt, thù trong giặc ngoài, Trong tình hình đó, xã hội cần có pháp luật để điều chỉnh, giữ ổn định trật tự xã hội, bảo vệ Nhà nước còn non trẻ nhưng không thể kịp thời ban hành các văn bản quy phạm pháp luật nói chung, văn bản quy phạm pháp luật hình sự về các tội hiếp dâm nói riêng, nên ngày 10/10/1945, Nhà nước ta đã ban hành Sắc lệnh số 47-SL quy định tạm thời giữ các luật lệ cũ, trong đó có Bộ Luật hình An Nam, Bộ Hoàng Việt hình luật và Bộ Hình luật pháp tu chính với điều kiện không trái với nguyên tắc độc lập của nước Việt Nam và chính thể dân chủ cộng hòa. Tuy Nhà nước ta mới được khai sinh nhưng vẫn tiếp tục cuộc chiến chống thực dân Pháp, do đó Tòa án vẫn xử theo Luật hình sự cũ. Tuy nhiên, sau khi chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954, miền Bắc hoàn toàn giải phóng và đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Nam tiếp tục cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ nên các điều kiện chính trị, xã hội, kinh tế, văn hóa xã hội ở miền Bắc có sự thay đổi mạnh mẽ, các luật lệ của chế độ cũ không còn phù hợp. Để phù hợp với tình hình mới, từ năm 1955 toàn bộ các luật cũ không còn được áp dụng nữa và Tòa án bắt đầu xử theo án lệ, theo đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước. Cho tới thời điểm này Nhà nước ta vẫn chưa ban hành một văn bản pháp luật hình sự mới quy định về các tội hiếp dâm. Trước tình hình thiếu thốn quy định về pháp luật hình sự đối với các tội hiếp dâm và sự gia tăng loại tội phạm này, ngày 15/6/1960 Tòa án nhân dân tối cao ra Chỉ thị số 1024 hướng dẫn đường lối xử lý tội phạm hiếp dâm nhằm khắc phục khuynh hướng coi nhẹ tính chất nghiêm trọng của loại tội phạm này nhất là khuynh hướng coi nhẹ tội hiếp dâm mà nạn nhân là trẻ em nhưng nội dung hướng dẫn chưa thực sự hoàn thiện. Trong báo cáo tổng kết từ năm 1961 đến năm 1966, Tòa án nhân dân 13
- tối cao một mặt rút kinh nghiệm việc xử lý tội hiếp dâm, mặt khác hướng dẫn việc xử lý một số hình thức phạm tội mới mà luật cũ chưa hề quy định. Để các quy định của pháp luật được đầy đủ và toàn diện hơn đồng thời giúp cho việc xét xử trên thực tiễn được dễ dàng và thuận lợi. Năm 1967, trên cơ sở kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn xét xử, Tòa án nhân dân tối cao đã thông qua bản tổng kết số 329/HS2 ngày 11/5/1967 hướng dẫn đường lối xét xử tội hiếp dân trẻ em và các tội phạm khác xâm phạm về mặt tình dục. Bản tổng kết này đề cập một cách toàn diện đến 4 hình thức phạm tội: hiếp dâm (bao gồm cả hiếp dâm trẻ em), cưỡng dâm (trong đó có cưỡng dâm trẻ em), giao cấu với người dưới 16 tuổi và dâm ô (trong đó có dâm ô với trẻ em). Như vậy các tội hiếp dâm đã được ghi nhận dưới hình thức là tội phạm hiếp dâm và chứa đựng tội hiếp dâm trẻ em. Bản tổng kết cũng đưa ra hướng dẫn về cách định tội danh, phân biệt hiếp dâm trẻ em với trường hợp giao cấu với người dưới 16 tuổi. Cụ thể là: Các hành vi giao cấu với trẻ em dưới 13 tuổi tròn nói chung, không kể các em có sự thỏa thuận hay không thỏa thuận đều coi là hiếp dâm vì khả năng nhận thức còn con nớt, kĩ năng phản ứng còn thiếu do đó phải coi các em ở trong tình trạng không thể tự vệ và biểu lộ ý chí đúng đắn. Riêng đối với các em từ 13 đến 14 tuổi tròn, trong một số trường hợp cá biệt, có em đã dậy thì thì có thể thực sự thuận tình giao cấu. Cho nên khi có sự thuận tình giao cấu với các em đó, cần căn cứ vào mọi tình tiết của vụ án (như tình hình, thân hình, thái độ các em) để nhận định xem có tội hiếp dâm trẻ em hay là tội giao cấu với người dưới 16 tuổi [44]. Bản tổng kết số 329/HS2 đã có sự phân hóa, đánh giá mức độ nghiêm trọng của hành vi hiếp dâm nói chung và hiếp dâm trẻ em nói riêng. Chỉ ra đường lối xử lý đối với hành vi xâm phạm tình dục trẻ em theo hướng xử 14
- nặng. Bản tổng kết chỉ rõ những trường hợp bình thường, cụ thể: xử nặng đối với những hành vi hiếp dâm người dưới 18 tuổi, hiếp dâm người thân về trực hệ, hiếp dâm nhiều người, hiếp dâm vì động cơ đê hèn, và xử nhẹ hơn đối với những trường hợp phạm tội chưa đạt, tác hại còn hạn chế, bị cáo còn ít tuổi, có tình tiết về nhân thân bị can như có cống hiến, thái độ hối cải Trong khi chờ pháp luật có quy định đầy đủ và toàn diện hơn thì bản tổng kết này có ý nghĩa rất lớn “ tổng kết kinh nghiệm những năm qua, rút ra và chỉ thêm một số điểm để hướng dẫn công tác xét xử một số loại tội phạm về mặt tình dục được tốt hơn, đồng thời sơ bộ dùng làm cơ sở cho công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật góp phần đấu tranh ngăn ngừa tội phạm” [44]. Nhìn chung, do hoàn cảnh đất nước còn chiến tranh mà giai đoạn từ năm 1945 đến trước khi Bộ luật hình sự năm 1985 có hiệu lực pháp luật, các quy phạm pháp luật hình sự về các tội hiếp dâm còn nhiều hạn chế và thiếu sót, chủ yếu kế thừa các quy phạm pháp luật sẵn có trước đó. Nhà nước ta đã sử dụng Bản tổng kết 329/HS2 ngày 11/5/1967 làm căn cứ pháp lý cao nhất để giải quyết các vụ án phạm tội hiếp dâm cho đến khi bộ luật hình sự năm 1985 ra đời và có hiệu lực. 1.2.2. Giai đoạn Bộ luật hình sự năm 1985 có hiệu lực pháp luật Bộ luật hình sự đầu tiên ra đời và có hiệu lực từ ngày 01/01/1986 đã là một bước tiến quan trọng, thể hiện sự phát triển về chất của công tác lập pháp trong lĩnh vực hình sự. Tội hiếp dâm (bao gồm cả hành vi hiếp dâm trẻ em) đã được quy định một cách tương đối rõ ràng, đầy đủ. Điều 112 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định về tội hiếp dâm bao gồm 4 khoản: 1. Người nào dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác giao cấu với người khác trái ý muốn của họ thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm; 2. Phạm tội hiếp dâm người chưa thành niên từ 13 tuổi trở lên hoặc là người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh thì bị phạt từ hai năm đến bảy năm: 15