Luận văn Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn quận Cẩm Lệ, Thành phố Đà Nẵng
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn quận Cẩm Lệ, Thành phố Đà Nẵng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_cac_tinh_tiet_tang_nang_trach_nhiem_hinh_su_theo_ph.pdf
Nội dung text: Luận văn Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn quận Cẩm Lệ, Thành phố Đà Nẵng
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ LỆ HẰNG CÁC TÌNH TIẾT TĂNG NẶNG TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN QUẬN CẨM LỆ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI, năm 2017
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ LỆ HẰNG CÁC TÌNH TIẾT TĂNG NẶNG TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN QUẬN CẨM LỆ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG Chuyên ngành : Luật Hình sự và Tố tụng hình sự Mã số : 60.38.01.04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. HỒ SỸ SƠN HÀ NỘI, năm 2017
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan, Luận văn “Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng” là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi, hoàn toàn do tôi thực hiện. Các đoạn trích dẫn và số liệu được sử dụng trong luận văn đều được dẫn từ nguồn có độ chính xác cao nhất trong phạm vi hiểu biết của riêng tôi. Học viên Nguyễn Thị Lệ Hằng
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ CÁC TÌNH TIẾT TĂNG NẶNG TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ 8 1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự 8 1.2. Khái quát lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự hiện hành 15 CHƯƠNG 2. QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM NĂM 1999 VỀ CÁC TÌNH TIẾT TĂNG NẶNG TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN CẨM LỆ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG 23 2.1. Quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự 23 2.2. Thực tiễn áp dụng quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự trên địa bàn quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng 36 CHƯƠNG 3. HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VÀ CÁC GIẢI PHÁP KHÁC NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA CÁC QUY ĐỊNH VỀ CÁC TÌNH TIẾT TĂNG NẶNG TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ 61 3.1. Hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự 61 3.2. Các giải pháp khác nâng cao hiệu quả của các quy định của pháp luật hình sự về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự 70 KẾT LUẬN 77 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 79
- DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLHS : Bộ luật hình sự HĐXX : Hội đồng xét xử TAND : Tòa án nhân dân TNHS : Trách nhiệm hình sự VKS : Viện kiểm sát XHCN : Xã hội chủ nghĩa
- DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu Tên bảng Trang bảng Tình hình xét xử án hình sự của Tòa án nhân dân quận Bảng 2.1. Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng từ năm 2012 đến năm 39 2016 Số lượng và tỷ lệ % bị cáo bị áp dụng một số tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự trong xét xử tại tòa án Bảng 2.2. 46 nhân dân quận Cẩm Lệ thành phố Đà Nẵng từ năm 2012 đến năm 2016.
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, đất nước ta chuyển sang phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, mở rộng quan hệ kinh tế, đối ngoại với nhiều nước trên thế giới. Sự vận hành của nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN đã và đang đem lại các kết quả tích cực trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, được bạn bè quốc tế đánh giá cao. Bên cạnh những mặt tích cực đã nêu ở trên, nền kinh tế thị trường cũng đã làm nảy sinh nhiều vấn đề tiêu cực, trong đó tình hình tội phạm diễn biến phức tạp. Các vụ án giết người, cướp tài sản, hiếp dâm, lừa đảo chiếm đoạt tài sản, tham nhũng, buôn lậu, các tội phạm về ma túy xảy ra nhiều, với mức độ ngày càng nghiêm trọng cả về tính chất và quy mô của tội phạm. Tình hình trên không những xâm hại đến tính mạng, sức khỏe của người dân, lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức, làm thiệt hại đến nền kinh tế đất nước, mà còn thực sự đe dọa phá vỡ chính sách kinh tế - xã hội, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước, gây ra những hậu quả nặng nề về mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Thậm chí tình hình tội phạm còn tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan tình báo nước ngoài lợi dụng tiến hành các hoạt động mua chuộc, thu thập tình báo, phá hoại sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Việc xét xử và quyết định hình phạt để buộc một người có hành vi trái pháp luật được quy định trong Bộ luật hình sự phải gánh chịu một hậu quả nào đó tương xứng với hành vi của mình là cần thiết để ổn định xã hội. Theo quy định tại Điều 45 BLHS thì, “Khi quyết định hình phạt, Tòa án căn cứ vào quy định của Bộ luật hình sự, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã 1
- hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự” [20, tr36]. Như vậy việc xem xét, đánh giá một cách chính xác, toàn diện và đầy đủ các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự có ý nghĩa quan trọng khi quyết định hình phạt. Trong những năm qua, Tòa án nhân dân quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng đã xét xử nhiều hành vi phạm tội đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, có tác dụng cải tạo, giáo dục người phạm tội, đảm bảo mục đích đấu tranh phòng ngừa chung, phục vụ nhiệm vụ chính trị của quận Cẩm Lệ nói riêng và thành phố Đà Nẵng nói chung. Việc xét xử các hành vi phạm tội đã được TAND quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng tiến hành đa số đã theo đúng quy định của pháp luật, được dư luận xã hội và nhân dân đồng tình. Trong đó có nguyên nhân chính là do việc áp dụng các tình tiết tăng nặng TNHS nói chung bảo đảm đúng quy định tại Điều 48 BLHS. Tuy nhiên, thực tiễn xét xử vẫn còn một số trường hợp chưa áp dụng chính xác các tình tiết tăng nặng TNHS. Do việc áp dụng các tình tiết tăng nặng TNHS chưa chính xác nên dẫn đến việc quyết định hình phạt quá nặng, quá nhẹ hoặc cho người phạm tội hưởng án treo không đúng theo quy định của BLHS, chưa đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp ở nước ta giai đoạn hiện nay. Tình trạng này do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau như: Việc nhận thức đúng bản chất của từng tình tiết tăng nặng TNHS của mỗi HĐXX còn nhiều vấn đề vướng mắc về lý luận. Mặt khác, do chưa được hướng dẫn đầy đủ nên việc xác định cũng như việc áp dụng các tình tiết tặng nặng TNHS quy định tại Điều 48 BLHS trong nhiều trường hợp còn có nhiều vướng mắc, cần có sự nghiên cứu hướng dẫn thì mới có thể áp dụng chính xác. Trong khi đó, xét về mặt lý luận các tình tiết tăng nặng chưa được các chuyên gia pháp lý quan tâm nghiên cứu một cách thỏa đáng. Nhằm thực hiện mục tiêu chiến lược về cải cách tư pháp theo tinh thần 2
- Nghị quyết số 49 NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị, trong đó xác định công tác xét xử là trọng tâm; bản án hình sự của Tòa án phải bảo đảm đúng pháp luật. Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu sâu sắc hơn nữa để làm sáng tỏ về mặt khoa học các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành về các tình tiết tăng nặng TNHS và thực tiễn áp dụng, đồng thời đưa ra những giải pháp hoàn thiện các quy định của chế định này, cũng như nâng cao hiệu quả của việc áp dụng những quy định về tăng nặng TNHS không những có ý nghĩa về lý luận, thực tiễn và pháp lý quan trọng, mà còn là vấn đề mang tính cấp thiết. Từ những lý do trên, học viên chọn đề tài: "Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng" làm luận văn thạc sỹ luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Từ khi BLHS năm 1999 có hiệu lực thi hành đến nay, việc áp dụng các tình tiết tăng nặng TNHS là vấn đề quan trọng trong quyết định hình phạt và luôn là vấn đề không chỉ các cơ quan điều tra, truy tố, xét xử quan tâm mà còn được nhiều chuyên gia, nhà nghiên cứu trong lĩnh vực pháp luật hình sự tại Việt Nam đề cập đến trong các công trình nghiên cứu, tài liệu như : Tác giả Đinh Văn Quế - Nguyên Chánh Tòa hình sự TAND Tối cao với cuốn Bình luận khoa học Bộ luật hình sự và là chủ nhiệm đề tài cấp bộ “ Thực tiễn áp dụng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong công tác xét xử của Tòa án và một số kiến nghị”; tác giả Lê Văn Sua - Tòa án khu vực 1 Quân khu 9 với bài viết “ Áp dụng tình tiết tăng nặng phạm tội nhiều lần quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Nguyễn Đức Việt là hoàn toàn có căn cứ pháp luật”; tác giả Nguyễn Minh Đức với bài viết “ Phải áp dụng tình tiết tăng nặng phạm tội đối với phụ nữ có thai để xét xử các bị cáo” . Cả hai bài đăng trên Tạp chí Toà án nhân dân số 22 tháng 11 3
- năm 2005; tác giả Nguyễn Văn Trượng -Tòa án quân sự Trung ương với bài “Về việc áp dụng một số tình tiết định khung tăng nặng quy định tại khoản 1 Điều 93 Bộ luật hình sự”, được đăng trên tạp chí Tòa án nhân dân số 3 tháng 02 năm 2005. Các bài viết, công trình nghiên cứu trên đây là những tài liệu quý giá, giúp cho tác giả luận văn xây dựng và hoàn thiện các ý tưởng khoa học trong quá trình nghiên cứu đề tài này. Tuy nhiên, vẫn chưa có tài liệu, công trình nghiên cứu nào đi sâu nghiên cứu, đánh giá về mặt thực tiễn tại quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng để chỉ ra các nguyên nhân, những tồn tại, vướng mắc và qua đó đề xuất các giải pháp hoàn thiện các tình tiết tăng nặng TNHS theo pháp luật hình sự Việt Nam. Vì vậy, việc đi sâu nghiên cứu về các tình tiết tăng nặng TNHS theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng về mặt lý luận cũng như thực tiễn. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích của luận văn là làm sáng tỏ một cách toàn diện, có hệ thống những vấn đề lý luận và áp dụng pháp luật về các tình tiết tăng nặng TNHS, phân tích, đánh giá đúng thực trạng những quy định về các tình tiết tăng nặng TNHS trong BLHS hiện hành, thực tiễn áp dụng, xác định những vướng mắc trong thực tiễn, để trên cơ sở đó, đề xuất hệ thống các giải pháp nâng cao hiệu qủa việc áp dụng pháp luật về các tình tiết tăng nặng TNHS. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn thực hiện các nhiệm vụ: + Phân tích những vấn đề lý luận về các tình tiết tăng nặng TNHS, theo pháp luật hình sự Việt Nam như khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của các tình tiết tăng nặng TNHS. + Phân tích các quy định của BLHS sự về các tình tiết tăng nặng TNHS. 4
- + Phân tích thực trạng áp dụng các tình tiết tăng nặng TNHS trên địa bàn quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng. + Trên cơ sở phân tích những thiếu sót, bất cập và vướng mắc trong thực tiễn xét xử, đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện quy định của BLHS cũng như hướng dẫn áp dụng và các giải pháp khác nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng các tình tiết tăng nặng TNHS. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Thực tiễn cho thấy, khi áp dụng các tình tiết tăng nặng TNHS liên quan rất nhiều đến các chế định khác của luật hình sự: Hình phạt, quyết định hình phạt, căn cứ quyết định hình phạt, các tình tiết giảm nhẹ TNHS việc đề cập đến các vấn đề trên cũng chỉ nhằm mục đích giải quyết một cách có hệ thống và làm rõ hơn vấn đề của quy định về việc áp dụng các tình tiết tăng nặng TNHS. Do vậy, luận văn lấy các quan điểm khoa học, các quy định của pháp luật hình sự về các tình tiết tăng nặng TNHS, thực tiễn áp dụng quy định về các tình tiết tăng nặng TNHS trên địa bàn quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng để nghiên cứu các vấn đề thuộc nội dung nghiên cứu của đề tài. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Đề tài được nghiên cứu dưới góc độ luật hình sự và tố tụng hình sự. Trong quá trình nghiên cứu tác giả có đề cập đến sự hình thành và phát triển của quy định về các tình tiết tăng nặng TNHS nhưng chỉ để làm sáng tỏ vấn đề chứ không đi sâu các quy định đó, luận văn chỉ tập trung nghiên cứu quy định này từ khi có BLHS năm 1985 và đặc biệt là BLHS năm 1999. Bên cạnh đó, luận văn cũng tập trung nghiên cứu thực tiễn áp dụng quy định về các tình tiết tăng nặng TNHS dưới góc độ luật hình sự của TAND quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng trong thời gian từ năm 2012 đến năm 2016. 5
- 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Trong quá trình thực hiện luận văn tác giả đã bám sát lý luận của Chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về chính sách hình sự, cải cách tư pháp, về chính sách đấu tranh phòng, chống tội phạm. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng các phương pháp cụ thể để làm rõ những nội dung cần nghiên cứu như: phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, phương pháp thống kê. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận Việc nghiên cứu thành công luận văn có ý nghĩa quan trọng đối với cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm, đảm bảo pháp chế XHCN. Kết quả nghiên cứu có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và học tập trong các trường đại học, các khóa đào tạo pháp luật. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Với việc đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả việc áp dụng những tình tiết tăng nặng TNHS tác giả hy vọng sẽ góp phần nâng cao hơn nữa chất lượng xét xử các vụ án hình sự ở TAND quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng và góp phần vào công cuộc cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay. Đồng thời, luận văn cũng có thể là tài liệu tham khảo của những người làm công tác thực tiễn nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động quyết định hình phạt nói chung và quyết định các tình tiết tăng nặng TNHS của BLHS nói riêng. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được cơ cấu thành ba chương. 6
- Chương 1: Những vấn đề lý luận và lịch sử pháp luật hình sự về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Chương 2: Quy định của Bộ luật hình sự hiện hành về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và thực tiễn áp dụng trên địa bàn quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng. Chương 3: Hoàn thiện pháp luật hình sự và các giải pháp khác nâng cao hiệu quả của các quy định về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. 7
- CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ CÁC TÌNH TIẾT TĂNG NẶNG TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ 1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự 1.1.1. Khái niệm các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự Để làm rõ khái niệm các tình tiết tăng nặng TNHS thì phải nói đến chính sách hình sự. Chính sách hình sự bao hàm nhiều nội dung, một trong các nội dung đó là chính sách về tội phạm, với tính cách là một hiện tượng xã hội. Tội phạm xảy ra xâm phạm đến các quan hệ xã hội khác nhau có tính chất và mức độ nguy hiểm khác nhau, nhưng nếu cùng xâm phạm đến một quan hệ xã hội thì mỗi hành vi phạm tội cũng có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội khác nhau. Nếu tính chất và mức độ xâm phạm như nhau thì vẫn có yếu tố khác nhau như: nhân thân người thực hiện hành vi phạm tội, không gian, thời gian, địa điểm, hoàn cảnh lúc phạm tội Chính do sự khác nhau này mà nhà làm luật không thể quy định mức hình phạt cụ thể cho từng hành vi phạm tội mà chỉ quy định khung hình phạt cho một nhóm hành vi giống nhau cơ bản về chất nhưng khác nhau về lượng. Sự khác nhau về lượng phụ thuộc vào nhiều yếu tố và được nhà làm luật quy định trong BLHS thành hai nhóm tình tiết có nội dung, ý nghĩa trái ngược nhau. Nếu các yếu tố nào làm thay đổi mức độ của hành vi phạm tội theo hướng ít nghiêm trọng hơn, thì gọi là “tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự”, còn những yếu tố nào làm thay đổi mức độ của hành vi phạm tội theo hướng nghiêm trọng hơn, thì gọi là “ tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự”. Hiện nay, trong pháp luật hình sự thực định (BLHS năm 1999) nhà làm luật 8
- nước ta không ghi nhận định nghĩa pháp lý của khái niệm này, đồng thời trong khoa học luật hình sự Việt Nam cũng còn nhiều quan điểm khác nhau. Tuy nhiên, dưới góc độ khái quát nhất, chúng tôi đồng ý với quan điểm cho rằng: Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là tình tiết trong một vụ án cụ thể làm tăng mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội và người phạm tội phải chịu một hình phạt nghiêm khắc hơn trong một khung hình phạt, phản ánh nhu cầu cải tạo, giáo dục người phạm tội và nhân thân người phạm tội, thể hiện khả năng giáo dục cải tạo người phạm tội. 1.1.2. Đặc điểm của các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo pháp luật hình sự Việt Nam Mặc dù, có ba loại tình tiết tăng nặng là tình tiết tăng nặng định tội, tình tiết tăng nặng định khung và tình tiết tăng nặng chung nhưng chúng đều có những đặc điểm chung thể hiện bản chất, ý nghĩa pháp lý của tình tiết tăng nặng TNHS. Với tính cách là tình tiết tăng nặng chung các tình tiết tăng nặng TNHS có đặc điểm sau đây: Thứ nhất, làm tăng tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm, các tình tiết này làm thay đổi mức độ nguy hiểm của tội phạm theo hướng nghiêm trọng hơn tùy theo từng trường hợp cụ thể hoặc người phạm tội. Đây là những tình tiết tăng nặng chung, được áp dụng cho nhiều loại tội phạm. Thứ hai, các tình tiết tăng nặng TNHS có sự ổn định về số lượng và nội dung. Tuy nhiên, sự ổn định này chỉ mang tính tương đối. Trong quá trình phát triển của xã hội có những tội phạm mới phát sinh, tính chất, đặc điểm của tội phạm cũng thay đổi. Có những tội thì nguy hiểm hơn, có những tội thì ít nguy hiểm đi, có những loại tội phạm lại tăng lên, xảy ra phổ biến hơn và xảo quyệt hơn. Do vậy, từ góc độ lập pháp, tình tiết tăng nặng TNHS với vai trò bảo đảm xử lý nghiêm minh tội phạm cũng phải được điều chỉnh phù hợp. Có những tình tiết mới được đưa vào, có những tình tiết phải bỏ đi, có những 9
- tình tiết đưa từ tình tiết tăng nặng chung lên thành tình tiết tăng nặng định khung, có nhưng tình tiết tăng nặng định khung được chuyển thành tình tiết tăng nặng định tội Ví dụ: BLHS năm 1985 chưa quy định tình tiết “Lợi dụng chức vụ cao để phạm tội”, đến kỳ họp thứ 11, Quốc hội khóa IX, ngày 10/5/1997, tình tiết này mới được quy định là tình tiết tăng nặng TNHS (điểm c khoản 1 Điều 39), nhưng khi ban hành BLHS năm 1999 thì tình tiết này được thay thế bằng tình tiết “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội” (điểm c khoản 1 Điều 48), hoặc trước đây hành vi gây thương tích cho trẻ em chỉ được quy định là tình tiết tăng nặng chung, nay trong BLHS năm 1999, gây thương tích cho trẻ em được quy định là tình tiết tăng nặng định khung của tội “ Cố ý gây thương tích”. Hoặc do yêu cầu đấu tranh phòng, chống HIV/AIDS nên tình tiết tăng nặng “Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội” lần đầu tiên được đưa vào BLHS và được quy định là tình tiết tăng nặng định khung ở một số tội xâm phạm tình dục như: Hiếp dâm, cưỡng dâm Do đó, nếu chưa được bổ sung vào BLHS, thì các Tòa án nhất thiết không được tùy tiện bổ sung vào những tình tiết mà BLHS không quy định để tăng nặng TNHS đối với người phạm tội. Thứ ba, về nguyên tắc, chỉ những tình tiết tăng nặng nào đã được quy định trong BLHS thì Tòa án mới được áp dụng là tình tiết tăng nặng TNHS để tăng hình phạt đối với người phạm tội. Xác định đúng các tình tiết tăng nặng TNHS không chỉ “là tiền đề cho việc phân hóa trách nhiệm hình sự và cá thể hóa hình phạt một cách công minh, có căn cứ và đúng pháp luật ” mà còn là “một trong những cơ sở áp dụng chính xác các quy phạm pháp luật hình sự” [4,tr 7-8]. Khi truy tố, xét xử, chỉ những tình tiết nào được quy định trong BLHS mới được áp dụng là tình tiết tăng nặng TNHS để tăng hình phạt đối với bị cáo, không được suy diễn, coi những tình tiết ngoài BLHS là tình tiết tăng nặng TNHS. Đây cũng là đặc điểm khác biệt cơ bản của tình tiết tăng nặng 10
- TNHS so với tình tiết giảm nhẹ TNHS bởi khoản 2 Điều 46 BLHS quy định: “Khi quyết định hình phạt, Tòa án còn có thể coi những tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ nhưng phải ghi rõ trong bản án”. Đặc điểm này thể hiện các nguyên tắc pháp chế, bình đẳng, nhân đạo, bảo vệ quyền con người “cân nhắc các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự là một trong những căn cứ của việc quyết định hình phạt công bằng” [44,tr184]. Nhiều Tòa án khi xét xử, coi những hành vi vi phạm pháp luật khác chưa cấu thành tội phạm, hoặc những trường hợp chưa đủ chứng cứ để chứng minh bị cáo phạm thêm một tội khác là tình tiết tăng nặng hình phạt khi lượng hình là không đúng, trái với nguyên tắc của Luật hình sự Việt Nam. Ví dụ: bị cáo Nguyễn Văn H bị truy tố, xét xử về tội hủy hoại rừng, có người khai H còn có hành vi cưỡng đoạt tài sản nhưng chưa đủ căn cứ để kết tội, nên HĐXX đã coi đó là yếu tố để xem xét khi lượng hình. Đây là quan điểm trái ngược hoàn toàn với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật hình sự. Thứ tư, các tình tiết tăng nặng TNHS có nội dung khác nhau. Do đó, mức độ ý nghĩa tăng TNHS đối với người phạm tội cũng khác nhau, ví dụ: tình tiết tái phạm nguy hiểm khác tình tiết tái phạm về mức độ tăng nặng. Trong một tình tiết, mức độ tăng TNHS cũng khác nhau nếu như nó được xem xét với hành vi phạm tội khác nhau hoặc với người phạm tội khác nhau, ví dụ: đều là phạm tội trong thời gian đang chấp hành hình phạt nhưng phạm tội do cố ý mức độ tăng nặng hơn phạm tội do vô ý. Mỗi tình tiết tăng nặng TNHS chỉ có ý nghĩa áp dụng đối với một hoặc một số hành vi phạm tội hoặc đối với một số người phạm tội chứ không thể áp dụng đối với tất cả các tội phạm hoặc đối với tất cả người phạm tội, ví dụ: tình tiết “Xâm phạm tài sản của nhà nước” chỉ áp dụng đối với những tội xâm phạm sở hữu và đó phải là tài sản của nhà nước. Khi áp dụng các tình tiết tăng nặng đối với người phạm tội. Tòa án “phải 11
- làm sáng tỏ ý thức chủ quan của người phạm tội để xét trường hợp này họ có phải thấy trước được tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự hay không, thì mới được áp dụng tình tiết tăng nặng đó đối với họ”. Trường hợp có căn cứ chứng minh rằng họ không thể thấy trước được hoặc không thấy được thì dù tình tiết đó có xảy ra người phạm tội cũng không phải chịu trách nhiệm đối với tình tiết tăng nặng TNHS, ví dụ: một người gây thương tích cho một phụ nữ có thai, nhưng hoàn toàn không biết nạn nhân có thai, thì họ không bị coi là phạm tội đối với phụ nữ có thai. Chỉ những tình tiết tăng nặng TNHS có liên quan đến hành vi phạm tội đang được xét xử, ảnh hưởng đến mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội mới được xem là tình tiết tăng nặng TNHS, ví dụ: một người đang bị truy tố về hành vi cố ý gây thương tích thì bị một số người viết đơn tố cáo về việc người này nợ tiền họ chưa trả. Tình tiết này không phải là tình tiết tăng nặng TNHS. Thứ năm, tình tiết tăng nặng TNHS trong một vụ án cụ thể và đối với người phạm tội cụ thể chỉ làm thay đổi mức độ TNHS đối với người phạm tội trong vụ án đó và cũng chỉ làm thay đổi mức độ TNHS trong phạm vi một cấu thành chứ không làm thay đổi tính chất của tội phạm ấy. Các tình tiết tăng nặng TNHS chỉ làm thay đổi mức độ nguy hiểm chứ không làm thay đổi tính chất nguy hiểm. Điều đó không có nghĩa là tất cả các tình tiết quy định ở Điều 48 BLHS không có tình tiết nào làm thay đổi tính chất của tội phạm. Nhưng khi đã coi là tình tiết tăng nặng thì nó không làm thay đổi tính chất nguy hiểm, còn nếu tình tiết nào đó mà nhà làm luật quy định là yếu tố định tội hoặc định khung hình phạt, tức là các tình tiết đó đã làm thay đổi tính chất nguy hiểm của tội phạm thì không còn là tình tiết tăng nặng TNHS nữa. Khẳng định này đã được quy định trong khoản 2 Điều 48 BLHS. Các tình tiết tăng nặng theo khoản 1 Điều 48 BLHS chỉ áp dụng khi 12
- người bị truy tố không bị áp dụng là tình tiết định khung hình phạt hoặc tình tiết định khung tăng nặng trong các tội phạm cụ thể, ví dụ 1: tội xâm phạm chỗ ở của công dân, người phạm tội bị truy tố các tình tiết định khung là phạm tội có tổ chức, lợi dụng chức vụ, quyền hạn theo các điểm a, b khoản 2 Điều 124 BLHS, thì khi xét xử, Tòa án không áp dụng thêm các tình tiết tăng nặng theo điểm a, c khoản 1 Điều 48 BLHS là tinh tiết tăng nặng; ví dụ 2: Người phạm tội bị truy tố về tội giết người với các tình tiết định khung là giết nhiều người, tái phạm nguy hiểm theo các điểm a, p khoản 1 Điều 93 BLHS, thì khi xét xử, Tòa án không áp dụng thêm điểm g, k khoản 1 Điều 48 BLHS là tình tiết tăng nặng. Thứ sáu, khác với tình tiết giảm nhẹ TNHS, tình tiết tăng nặng TNHS có tác động giới hạn. Đối với trường hợp có nhiều tình tiết giảm nhẹ, Tòa án có thể xử phạt bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hình phạt hoặc miễn TNHS, miễn hình phạt. Còn trường hợp người phạm tội dù có nhiều tình tiết tăng nặng chung, nhiều tình tiết tăng nặng định khung thì cũng bị xử phạt trong phạm vi một khung hình phạt nào đó. Tóm lại, các tình tiết tăng nặng TNHS phản ánh mức độ nguy hiểm cho xã hội cao hơn của tội phạm và nhân thân người phạm tội, phản ánh nhu cầu cải tạo giáo dục người phạm tội và nhân thân người phạm tội, phản ánh nhu cầu cải tạo giáo dục người phạm tội bằng biện pháp nghiêm khắc hơn. Những tình tiết đó không phải do các nhà làm luật tự nghĩ ra mà do quá trình nhận thức thực tiễn, đánh giá bản chất tội phạm, qua thực tiễn áp dụng pháp luật để đúc kết, hình thành nên. Do đó, cũng như các tình tiết giảm nhẹ, các tình tiết tăng nặng TNHS mang tính khách quan. Một tội phạm có thêm những tình tiết làm tăng mức độ nguy hiểm cho xã hội thì sẽ phải chịu TNHS cao hơn là điều cần thiết để bảo đảm tính công bằng, nghiêm minh của pháp luật và cần phải xác định mức hình phạt tương xứng với tính chất và mức độ nghiêm 13
- trọng của hành vi phạm tội. 1.1.3. Ý nghĩa của các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo pháp luật hình sự Việt Nam * Ý nghĩa về mặt chính trị: Các tình tiết tăng nặng TNHS thể hiện cụ thể đường lối, chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta. Khoản 2 Điều 3 của BLHS năm 1999 quy định: "Mọi người phạm tội đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt nam, nữ, dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội. Nghiêm trị người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, ngoan cố chống đối, lưu manh, côn đồ, tái phạm nguy hiểm, lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội, người phạm tội dùng thủ đoạn xảo quyệt, có tổ chức, có tính chất chuyên nghiệp, cố ý gây hậu quả nghiêm trọng. Khoan hồng đối với người tự thú thành khẩn khai báo, tố giác người đồng phạm, lập công chuộc tội, ăn năn hối cải, tự nguyện sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại đã gây ra” [19,tr15]. Quy định này thể hiện rõ đường lối xử lý nghiêm trị kết hợp với khoan hồng, trừng trị kết hợp với giáo dục cải tạo đối với người phạm tội. * Ý nghĩa về mặt xã hội: Việc quy định các tình tiết tăng nặng TNHS thể hiện chính sách nghiêm trị của Nhà nước ta đối với tội phạm, nhưng xét đến cùng là nhằm đảm bảo cho việc thực hiện nguyên tắc công bằng trong lĩnh vực hình sự, có tác động tích cực trong đấu tranh phòng ngừa tội phạm. Đối với mỗi tội phạm cụ thể thì các tình tiết tăng nặng TNHS không có giá trị tăng nặng như nhau, có tình tiết có ý nghĩa tăng nặng lớn, nhưng cũng có tình tiết chỉ có ý nghĩa tăng một phần nhỏ TNHS đối với người phạm tội. Do vậy, việc hiểu và vận dụng đúng đắn các tình tiết tăng nặng trong việc xác định TNHS trong mỗi trường hợp phạm tội cụ thể là tiền đề đảm bảo cho việc thực hiện nguyên tắc cá thể hóa TNHS và hình phạt. 14
- Bộ luật hình sự chỉ có thể quy định một cách khái quát mức hình phạt thấp nhất và cao nhất trong một khung hình phạt đối với một tội phạm. Vì trong thực tế mỗi tội phạm xảy ra rất khác nhau, phong phú, đa dạng về nguyên nhân, hoàn cảnh, mức độ thực hiện tội phạm, mức độ gây thiệt hại, về nhân thân người phạm tội Những tình tiết riêng biệt này đóng vai trò rất quan trọng trong việc đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội đã xảy ra và TNHS của người phạm tội. Do đó, việc quy định các tình tiết tăng nặng TNHS làm căn cứ để quyết định hình phạt đối với người phạm tội là thực hiện nguyên tắc cá thể hóa hình phạt, đảm bảo sự công bằng giữa các công dân trước pháp luật, giúp đạt được mục đích của hình phạt là cải tạo, giáo dục người phạm tội trở thành người lương thiện, có ích cho xã hội. * Ý nghĩa về mặt pháp lý: Các tình tiết tăng nặng là những tình tiết làm tăng mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm đã được thực hiện, là cơ sở pháp lý để tăng nặng hình phạt đối với người phạm tội trong phạm vi của một khung hình phạt tương ứng cụ thể. Thể hiện nội dung nghiêm trị trong chính sách hình sự của Nhà nước ta, đảm bảo thực hiện tốt nguyên tắc cá thể hóa TNHS và hình phạt. Về mặt pháp lý, các tình tiết tăng nặng TNHS có ý nghĩa là một phương tiện phân hóa TNHS trong luật và cá thể hóa TNHS trong áp dụng pháp luật, là điều kiện cần thiết để đạt được mục đích của hình phạt. 1.2. Khái quát lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự hiện hành 1.2.1. Những quy định về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự trong luật hình sự Việt Nam thời kỳ từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến năm 1985 Sau khi nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa được thành lập, trong phiên 15
- họp Chính phủ ngày 3/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Trước ta đã bị chế độ quân chủ chuyên chế cai trị, rồi đến chế độ thực dân không kém phần chuyên chế, nên nước ta không có Hiến pháp, nhân dân ta không được hưởng quyền tự do dân chủ. Chúng ta phải có một Hiến pháp dân chủ”. Bản Hiến pháp năm 1946 ra đời có ý nghĩa quan trọng về nhiều phương diện và là nguồn có tính chất định hướng của luật hình sự Việt Nam giai đoạn 1945-1959. Trong giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1959, Luật hình sự Việt Nam thể hiện là các văn bản pháp luật được ban hành dưới dạng sắc lệnh như: Sắc lệnh số 47/SL ngày 10/10/1945 của Chủ tịch chính phủ lâm thời Việt Nam dân chủ cộng hoà quy định: “Cho đến khi ban hành những bộ pháp luật duy nhất cho toàn cõi nước Việt Nam, các luật lệ hiện hành ở Bắc, Trung và Nam bộ vẫn tạm thời giữ nguyên như cũ, nếu những luật lệ ấy không trái với những điều thay đổi ấn định trong sắc lệnh này”. Sắc lệnh số 33 ngày 19/3/1947 quy định tăng mức tiền phạt trong trường hợp phạt tiền là hình phạt áp dụng đối với bị cáo lên gấp 10 lần so với quy định của “các hình luật ban bố trước ngày 19/8/1945” để bảo đảm tính hiệu quả của hình phạt này do sự mất giá của đồng tiền Đông Dương cũ. Số lượng các Sắc lệnh được ban hành trong giai đoạn 1945-1959 tương đối lớn trên nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Ngày 20/01/1953, Sắc lệnh số 133/SL ra đời chính thức quy định hệ thống các hành vi xâm phạm đến sự an toàn của nhà nước bị trừng phạt bởi biện pháp hình sự. So với các đạo luật hình sự đơn hành được ban hành trước đó, Sắc lệnh 133/SL là văn bản pháp luật đầu tiên quy định một cách hệ thống và khoa học nhất vấn đề tội phạm và hình phạt. Trong Sắc lệnh này không quy định các tình tiết tăng nặng TNHS thành điều luật riêng mà chỉ phân hóa vai trò của từng người phạm tội trong từng tội phạm cụ thể để quy định hình phạt. Tuy nhiên, ra đời trong bối cảnh cuộc vận động cải cách ruộng được triển khai mỗi lúc một 16