Luận văn Các hình phạt chính không tước tự do theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh

pdf 88 trang vuhoa 23/08/2022 9860
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Các hình phạt chính không tước tự do theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_cac_hinh_phat_chinh_khong_tuoc_tu_do_theo_phap_luat.pdf

Nội dung text: Luận văn Các hình phạt chính không tước tự do theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI LÀNH LƯU MAI THẢO CÁC HÌNH PHẠT CHÍNH KHÔNG TƯỚC TỰ DO THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN QUẬN 5, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI – 2017
  2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI LÀNH LƯU MAI THẢO CÁC HÌNH PHẠT CHÍNH KHÔNG TƯỚC TỰ DO THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN QUẬN 5, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự Mã số: 60.38.01.04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. CAO THỊ OANH HÀ NỘI – 2017
  3. MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ CÁC HÌNH PHẠT CHÍNH KHÔNG TƯỚC TỰ DO ĐẾN TRƯỚC KHI BAN HÀNH BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 7 1.1. Những vấn đề lý luận về các hình phạt chính không tước tự do 7 1.2. Lịch sử pháp luật Việt Nam về các hình phạt chính không tước tự do đến trước khi ban hành Bộ luật Hình sự năm 1999 18 1.3 Các hình phạt chính không tước tự do trong Bộ luật hình sự của một số nước trên thế giới 24 Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 VỀ CÁC HÌNH PHẠT CHÍNH KHÔNG TƯỚC TỰ DO VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI QUẬN 5, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 30 2.1. Quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 về các hình phạt chính không tước tự do 30 2.2 Thực tiễn áp dụng các hình phạt chính không tước tự do trên địa bàn Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh 43 Chương 3: CÁC YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG CÁC HÌNH PHẠT CHÍNH KHÔNG TƯỚC TỰ DO Error! Bookmark not defined. 3.1. Các yêu cầu nâng cao hiệu quả áp dụng các hình phạt chính không tước tự do 61 3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các hình phạt chính không tước tự do 64 KẾT LUẬN 79 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 81
  4. DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT BLHS : Bộ Luật Hình sự BLTTHS : Bộ Luật Tố tụng hình sự BLTTDS : Bộ luật Tố tụng Dân sự CTKGG : Cải tạo không giam giữ HTHP : Hệ thống hình phạt KTTD : Không tước tự do LHS : Luật Hình sự PLHS : Pháp luật hình sự QĐHP : Quyết định hình phạt TAND : Tòa án nhân dân THA : Thi hành án THADS : Thi hành án dân sự THAHS : Thi hành án hình sự TNHS : Trách nhiệm hình sự TP. HCM : Thành phố Hồ Chí Minh
  5. MỞ ĐẦU 1. T nh ấp thi t ủ tài Việc quy định hình phạt nói chung và các hình phạt chính KTTD nói riêng trong BLHS Việt Nam có vai trò rất quan trọng trong công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm, cũng như trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người phạm tội. Cùng với việc áp dụng các hình phạt chính KTTD, Nhà nước đã thể hiện rõ nguyên tắc nhân đạo trong việc xử lý tội phạm, đồng thời, việc tăng cường quy định và áp dụng các hình phạt chính KTTD là một trong những nội dung quan trọng đã được đề ra trong chiến lược cải cách tư pháp tại Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị và đây cũng đang là xu hướng tiến bộ của các nước trên thế giới hiện nay. Tuy nhiên, quy định và thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về các hình phạt chính KTTD trong thời gian qua vẫn còn tồn tại nhiều bất cập, vướng mắc cần được sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện hơn. Về lý luận, các quy định của PLHS về các hình phạt chính KTTD còn nhiều bất cập, vướng mắc như: số lượng các điều luật, các khung hình phạt thuộc Phần thứ hai - Các tội phạm có quy định hình phạt chính KTTD tương đối ít, các hình phạt chính KTTD hầu hết được quy định trong chế tài lựa chọn với hình phạt tù có thời hạn mà rất ít được quy định trong chế tài lựa chọn với các hình phạt chính KTTD khác. Bên cạnh đó, quy định của BLHS về điều kiện áp dụng các hình phạt chính KTTD trong một số trường hợp còn chưa rõ ràng, mang tính định tính, cũng như chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể dẫn đến những cách hiểu không thống nhất. Ngoài ra, BLHS còn chưa quy định cơ chế đảm bảo việc áp dụng và thi hành các hình phạt chính KTTD trên thực tế đã làm cho các hình phạt này không đạt được hiệu quả mong muốn. Về thực tiễn, trong những năm vừa qua, có thể nhận thấy Tòa án rất ít áp dụng hình phạt chính KTTD đối với người phạm tội. Tỷ lệ người phạm tội 1
  6. được áp dụng hình phạt chính KTTD chiếm một tỷ lệ rất nhỏ so với các hình phạt chính tước tự do, đặc biệt là hình phạt tù có thời hạn. Điều này xuất phát từ nhiều nguyên nhân như hình phạt chính KTTD cùng những vấn đề về bảo đảm quyền con người của người phạm tội trong những năm vừa qua chưa được chú trọng, quan tâm đúng mức. Thực tế, có không ít cán bộ áp dụng pháp luật vẫn chưa nhận thức được một cách đúng đắn vai trò của các hình phạt chính KTTD, chưa thấy được hiệu quả cũng như lợi ích của việc áp dụng các hình phạt này đối với người phạm tội trên địa bàn Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng và đối với người phạm tội trên cả nước nói chung. Ngoài ra, BLHS năm 2015 mới được ban hành, vì vậy sẽ có nhiều quy định cần được xem xét, sửa đổi để hoàn thiện hơn trong thời gian tới. Để khắc phục những bất cập, vướng mắc trong quy định và áp dụng pháp luật về các hình phạt chính KTTD, góp phần hoàn thiện PLHS trong thời gian tới, đồng thời, nhằm đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm và bảo đảm quyền con người của người phạm tội thì việc nghiên cứu, tìm hiểu những vấn đề lý luận về các hình phạt chính KTTD, làm rõ những ưu điểm cũng như bất cập trong quy định và thực tiễn áp dụng các hình phạt này trên địa bàn Quận 5, TP. HCM từ đó làm cơ sở để đưa ra những kiến nghị hoàn thiện các quy định về các hình phạt chính KTTD trong PLHS Việt Nam là vấn đề cần thiết. Vì những lý do trên, tác giả chọn vấn đề “Các hình phạt chính không tước tự do theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh” làm đề tài luận văn tốt nghiệp. 2. Tình hình nghiên cứu tài Trong phạm vi khảo sát và tìm hiểu của tác giả, các đề tài nghiên cứu liên quan đến “Các hình phạt chính không tước tự do theo pháp luật hình sự Việt Nam” được lựa chọn phân tích như: Giáo trình Luật Hình Sự Việt Nam - 2
  7. Phần Chung của Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh [Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2013), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam - Phần Chung, NXB Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam]; Giáo trình Luật hình sự Việt Nam - tập 1 [Trường Đại học Luật Hà Nội (2011), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam - tập 1, NXB Công an nhân dân] ; Giáo trình Luật hình sự Việt Nam - Phần Chung [Võ Khánh Vinh - Chủ biên (2008), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam - Phần Chung, NXB Công an nhân dân] Sách: Bình luận khoa học Bộ luật hình sự - Phần Chung của tác giả Đinh Văn Quế [Đinh Văn Quế (2006), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự - Phần Chung, NXB Thành phố Hồ Chí Minh]; Luật hình sự Việt Nam - Phần Chung của tác giả Phạm Văn Beo [Phạm Văn Beo (2010), Luật hình sự Việt Nam – (Quyển 1) Phần Chung, NXB Chính trị quốc gia] ; Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009 - Phần Chung [Nguyễn Đức Mai - Chủ biên (2010), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009 - Phần Chung, NXB Chính trị quốc gia]. Trong nội dung của các sách nêu trên đã phân tích các vấn đề cơ bản về khái niệm, điều kiện áp dụng của các hình phạt chính KTTD. Qua đó, giúp cho tác giả hiểu thêm về khái niệm, điều kiện áp dụng các hình phạt chính KTTD, là cơ sở cho việc nghiên cứu của luận văn về các hình phạt KTTD. 3. Mụ h và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của đề tài là đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của PLHS Việt Nam đối với các hình phạt chính KTTD. Để thực hiện mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn xác định các nhiệm vụ trọng tâm sau: Một là, phân tích, làm rõ khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của các hình phạt chính KTTD. 3
  8. Hai là, phân tích lịch sử quy định của PLHS Việt Nam và phân tích quy định của BLHS năm 1999 về các hình phạt chính KTTD để thấy được quá trình phát triển, kế thừa của các quy định hiện hành. Ba là, phân tích quy định về các hình phạt chính KTTD trong BLHS một số nước, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam. Bốn là, đánh giá thực tiễn áp dụng trên địa bàn Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh, nêu ra các vướng mắc, bất cập và kiến nghị hoàn thiện. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Với mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đã nêu, đối tượng nghiên cứu của đề tài là quy định của PLHS Việt Nam và một số nước trên thế giới về các hình phạt chính KTTD, cũng như thực trạng áp dụng các hình phạt chính KTTD do trên địa bàn Quận 5, TP. HCM. - Phạm vi nghiên cứu: Trong phạm vi nghiên cứu đề tài, tác giả cũng không tham vọng nghiên cứu tất cả các vấn đề mà chỉ tập trung nghiên cứu một số nội dung chính sau đây: + Về quy định của PLHS Việt Nam: Nghiên cứu khái quát lịch sử quy định của PLHS Việt Nam qua các thời kỳ về các hình phạt chính KTTD và tập trung vào nghiên cứu các hình phạt chính KTTD đối với người phạm tội được quy định trong BLHS năm 1999 gồm: cảnh cáo, phạt tiền, CTKGG và trục xuất. Đồng thời, tìm hiểu một số điểm mới về các hình phạt chính KTTD được quy định tại BLHS năm 2015. Đối với các quy định về các hình phạt chính KTTD khác, trong giới hạn cho phép tác giả xin không phân tích trong phần nội dung luận văn. + Về PLHS của một số nước trên thế giới: Luận văn chỉ nghiên cứu quy định về các hình phạt chính KTTD trong BLHS của một số quốc gia có nền khoa học pháp lý và trình độ lập pháp phát triển. 4
  9. + Về thực tiễn áp dụng pháp luật: Luận văn sẽ đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật về các hình phạt chính KTTD trong khoảng thời gian từ năm 2011 đến năm 2015 trên địa bàn của Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh. 5. Phương pháp uận và phương ph p nghiên ứu Luận văn dựa trên cơ sở vận dụng chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử làm phương pháp luận. Các phương pháp cụ thể gồm: - Phương pháp nghiên cứu lịch sử để tìm hiểu lịch sử hình thành và phát triển các quy định về các hình phạt chính KTTD trong PLHS Việt Nam. - Phương pháp so sánh được sử dụng để làm rõ những điểm giống và khác nhau trong các quy định về các hình phạt chính KTTD trong BLHS năm 1999 với các giai đoạn trước đó. - Phương pháp phân tích và tổng hợp: áp dụng để phân tích các nội dung cần nghiên cứu và nhận thức một cách khái quát các vấn đề được nghiên cứu. Qua đó, phân tích để tìm hiểu cụ thể quy định về các hình phạt chính KTTD. - Phương pháp thống kê dùng để tổng hợp các số liệu về các hình phạt cụ thể được áp dụng, cũng như số bị cáo được áp dụng các hình phạt chính KTTD từ thực tế tại Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh, từ đó đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định về các hình phạt chính KTTD. 6. Ý nghĩ uận và thự ti n ủ uận v n Việc tìm hiểu, nghiên cứu đề tài có ý nghĩa quan trọng về mặt lý luận và thực tiễn, cụ thể: - Luận văn góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về các hình phạt chính KTTD, phân tích những quy định về các hình phạt chính KTTD trong BLHS năm 1999. Đồng thời, đánh giá thực tiễn áp dụng, từ đó đưa ra những kiến nghị, đề xuất nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng các hình phạt chính KTTD được quy định trong BLHS năm 2015. 5
  10. - Những kết quả nghiên cứu của luận văn đạt được còn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo trong quá trình công tác, học tập cho những độc giả có quan tâm về vấn đề này. Bên cạnh đó, đối với hoạt động thực tiễn, với vai trò là một tài liệu tham khảo, đề tài góp phần nâng cao nhận thức của những người áp dụng pháp luật về các hình phạt chính KTTD. 7. Cơ ấu ủ uận v n Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn gồm ba chương: - Chương 1. Những vấn đề lý luận và lịch sử pháp luật Việt Nam về các hình phạt chính không tước tự do đến trước khi ban hành Bộ luật Hình sự năm 1999. - Chương 2. Quy định của Bộ Luật Hình sự Việt Nam năm 1999 về các hình phạt chính không tước tự do và Thực tiễn áp dụng trên địa bàn Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh. - Chương 3. Các yêu cầu và giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các hình phạt chính không tước tự do. 6
  11. Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ CÁC HÌNH PHẠT CHÍNH KHÔNG TƯỚC TỰ DO ĐẾN TRƯỚC KHI BAN HÀNH BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 1.1. Những vấn uận v hình phạt h nh không tướ tự do 1.1.1. Khái niệm hình phạt chính không tước tự do “Tội phạm” và “hình phạt” là hai chế định cơ bản, quan trọng của luật hình sự và có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Khi quy định tội phạm, Nhà nước cũng đồng thời quy định về hình phạt đối với từng tội phạm tương ứng. Do đó, hình phạt luôn được biết đến như một trong những công cụ pháp lý hiệu quả nhất để đấu tranh phòng chống tội phạm. Có thể nói, mối quan hệ giữa tội phạm và hình phạt chính là biểu hiện của mối quan hệ giữa nguyên nhân và hậu quả tức là người phạm tội phải chịu một hình phạt nhất định vì đã thực hiện hành vi phạm tội [28, tr.345]. Theo quy định tại Điều 26 của Bộ luật Hình sự năm 1999 thì: “Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người phạm tội”. Kế thừa quan niệm về hình phạt của Bộ luật hình sự năm 1999, Điều 30 của Bộ luật hình sự năm 2015 cũng khẳng định: “Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước được quy định trong Bộ luật này, do Toà án quyết định áp dụng đối với người hoặc pháp nhân thương mại phạm tội nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người, pháp nhân thương mại đó”. Hệ thống hình phạt nước ta được cấu thành bởi các hình phạt cụ thể với nội dung, phạm vi và điều kiện áp dụng được quy định rất chặt chẽ, phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của từng trường hợp phạm tội. HTHP với nhiều hình phạt khác nhau nên căn cứ vào những tiêu chí khác nhau, nhằm vào những mục đích khác nhau mà có các cách phân loại hình 7
  12. phạt khác nhau. Điều 28 BLHS năm 1999 chia HTHP thành hai loại là: hình phạt chính và hình phạt bổ sung. Theo đó, hình phạt chính là loại hình phạt được áp dụng chính thức cho người phạm tội và được Tòa án tuyên một cách độc lập, đối với một trường hợp phạm tội cụ thể thì chỉ được áp dụng một hình phạt chính. Hình phạt bổ sung là loại hình phạt không được tuyên độc lập mà chỉ được tuyên kèm với hình phạt chính, đối với một trường hợp cụ thể có thể không áp dụng, có thể áp dụng một hoặc nhiều hình phạt bổ sung. Cụ thể, theo quy định tại Điều 28 BLHS năm 1999 về các hình phạt đối với người phạm tội, tại khoản 1, Điều 28 quy định bảy loại hình phạt chính áp dụng đối với người phạm tội gồm: Cảnh cáo, phạt tiền, CTKGG, trục xuất, tù có thời hạn, tù chung thân và tử hình và khoản 2, Điều 28 BLHS quy định bảy loại hình phạt bổ sung áp dụng đối với người phạm tội gồm: cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định; cấm cư trú; quản chế; tước một số quyền công dân; tịch thu tài sản; phạt tiền, khi không áp dụng là hình phạt chính; trục xuất, khi không áp dụng là hình phạt chính. Bên cạnh việc chia hình phạt thành hình phạt chính và hình phạt bổ sung thì căn cứ vào tính chất tước bỏ của các hình phạt, cụ thể là sự tước bỏ về tự do thân thể của người phạm tội thì hình phạt còn được chia thành hai nhóm là: hình phạt tước tự do và hình phạt KTTD. Khác với hình phạt chính và hình phạt bổ sung, đến nay, thuật ngữ “hình phạt tước tự do” và “hình phạt KTTD” chưa được quy định chính thức trong BLHS nhưng đã được thừa nhận về mặt khoa học. Tuy nhiên, về mặt khoa học, các thuật ngữ này chỉ được nói đến như một thuật ngữ sử dụng trong LHS chứ chưa có một khái niệm cụ thể [14, Tr.46-47]. Trên cơ sở khái niệm hình phạt được quy định tại Điều 26 BLHS năm 1999, cũng như tính chất của sự tước bỏ, tác giả xin đưa ra khái niệm về hình phạt chính KTTD như sau: 8
  13. “Hình phạt chính không tước tự do là các hình phạt thuộc nhóm hình phạt chính được quy định trong Bộ luật hình sự và do Tòa án áp dụng đối với người phạm tội nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người phạm tội mà không buộc họ phải cách ly ra khỏi môi trường xã hội bình thường”. 1.1.2. Đặc điểm của các hình phạt chính không tước tự do Các hình phạt chính KTTD về bản chất vẫn là hình phạt nên cũng mang đầy đủ các đặc điểm của hình phạt nói chung: Là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước; Được quy định trong BLHS và do Tòa án áp dụng; Hình phạt áp dụng với cá nhân người phạm tội. Ngoài các đặc điểm chung của hình phạt như trên, các hình phạt chính KTTD còn có một số đặc điểm riêng biệt trong sự so sánh với các hình phạt chính tước tự do như sau: - Hình phạt chính KTTD không buộc người bị kết án phải cách ly khỏi môi trường sống bình thường: Đây là đặc điểm quan trọng để phân biệt hình phạt chính KTTD và hình phạt chính tước tự do. Để đạt được mục đích của hình phạt, không nhất thiết phải tước đi quyền tự do của người phạm tội. Bởi lẽ có người sau khi chấp hành án vẫn quay trở lại con đường tái phạm, tái phạm nguy hiểm do nhiều nguyên nhân: gặp khó khăn trong việc tái hòa nhập cộng đồng, hay “ngựa quen đường cũ”, việc quay trở lại phạm tội chỉ là vấn đề thời gian. Do đó, đối với một số tội phạm mà mức độ và hành vi nguy hiểm là ít nghiêm trọng, phạm tội lần đầu, trong quá trình điều tra, xét xử đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối lỗi thì không cần thiết phải áp dụng các hình phạt tước tự do, thay vào đó có thể áp dụng các hình phạt chính KTTD mà vẫn đạt được mục đích của hình phạt. Hình phạt chính KTTD với những mức độ nghiêm khắc khác nhau vẫn có thể đạt được mục đích của hình phạt mà không cần phải cách ly người phạm tội ra khỏi môi trường sống bình thường. Với đặc trưng này, hình phạt chính KTTD tạo điều kiện cho người phạm tội được sống, lao động, học tập, 9
  14. cải tạo trong môi trường xã hội bình thường như khi chưa bị áp dụng hình phạt dưới sự giám sát, giúp đỡ của gia đình, cơ quan nhà nước, tổ chức nơi họ sinh sống, làm việc. Với những hình phạt này, Nhà nước đã thể hiện rõ nguyên tắc nhân đạo trong việc xử lý tội phạm, đảm bảo vấn đề tái hòa nhập cộng đồng, từ đó tác động tích cực đến nhận thức của người phạm tội, giúp họ nhận ra được lỗi lầm của mình để tích cực cải tạo, phấn đấu trở thành người có ích cho xã hội. - Hình phạt chính KTTD đối với người phạm tội có mức độ nghiêm khắc thấp hơn so với các hình phạt chính tước tự do: Theo tinh thần tại Điều 28 BLHS 1999 cho thấy HTHP nước ta có sự phân chia thang bậc theo mức độ nghiêm khắc đối với hành vi phạm tội, quy định theo trình tự từ nhẹ đến nặng: Các hình phạt KTTD được sắp xếp trước các hình phạt tước tự do. Trong đó cảnh cáo là loại hình phạt có mức độ nghiêm khắc nhẹ nhất nên đứng ở vị trí đầu tiên trong HTHP chính, kế đó là hình phạt tiền rồi đến hình phạt CTKGG và trục xuất. Xét về nội dung, hình phạt chính KTTD có mức độ ít nghiêm khắc hơn so với hình phạt chính tước tự do thể hiện ở tính chất của các quyền, lợi ích mà hình phạt chính KTTD hạn chế hoặc tước bỏ. Theo đó, hình phạt chính KTTD đều có tính chất là KTTD mà chỉ hạn chế tự do hoặc tước những quyền khác của người phạm tội. Tuy nhiên, hình phạt chính KTTD chỉ tước bỏ hoặc hạn chế các quyền, lợi ích hợp pháp ở mức độ cho phép mà vẫn đảm bảo được các quyền cơ bản của người phạm tội. Cụ thể, hình phạt chính KTTD có thể chỉ gây ra những hạn chế nhất định về mặt tinh thần đối với người phạm tội thông qua việc khiển trách công khai của Nhà nước (cảnh cáo); hoặc làm hạn chế quyền tự do thân thể của người phạm tội bởi hoạt động giám sát, giáo dục của cơ quan nhà nước hoặc tổ chức xã hội nơi người đó làm việc hoặc cư trú (CTKGG); hoặc tước đi một khoản tiền (phạt tiền, CTKGG); hoặc tước quyền cư trú trên lãnh thổ Việt Nam (trục 10
  15. xuất). Trong khi đó, các hình phạt chính tước tự do lại cách ly người phạm tội ra khỏi môi trường sống bình thường, buộc họ phải chấp hành hình phạt trong một môi trường có quy chế và kỷ luật chặt chẽ là trại giam, thậm chí còn tước luôn cả quyền sống của con người như hình phạt tử hình. Do đó, hiện nay Nhà nước ta đã và đang sửa đổi HTHP theo hướng tăng cường quy định các hình phạt KTTD và giảm dần các hình phạt tước tự do. - Hình phạt chính KTTD tước bỏ ít hơn các quyền con người của người phạm tội so với các hình phạt chính tước tự do, do đó, hình phạt chính KTTD bảo đảm tốt hơn quyền con người của người phạm tội. Thực tế cho thấy, khi người phạm tội bị áp dụng các hình phạt chính tước tự do thì các quyền, lợi ích thiết thân của người phạm tội cũng sẽ bị ảnh hưởng. Trong khi đó, nếu người phạm tội được áp dụng hình phạt chính KTTD thì quyền con người của người phạm tội ít bị xâm hại hơn. - Điều kiện áp dụng các hình phạt KTTD được quy định khá chặt chẽ: Việc áp dụng các hình phạt KTTD thường chỉ là đối với những tội phạm ít nghiêm trọng, cá nhân người phạm tội lần đầu, nhân thân tốt Đó là những tình tiết giảm nhẹ được quy định tại Điều 46 BLHS năm 1999. Theo đó, chỉ có những trường hợp phạm tội mà người thực hiện tội phạm có các điều kiện nêu trên thì mới được áp dụng các hình phạt KTTD. Do đó, luật quy định các điều kiện áp dụng các hình phạt KTTD khá chặt chẽ để cá thể hóa TNHS cũng như để đạt được mục đích của hình phạt. - Chủ thể thi hành hình phạt chính KTTD rất đa dạng: Nếu việc thi hành hình phạt chính tước tự do được giao cho một cơ quan chuyên trách thực hiện thì việc thi hành hình phạt chính KTTD được giao cho nhiều cơ quan, tổ chức khác nhau nơi người bị kết án cư trú, làm việc kết hợp với gia đình tham gia vào việc cải tạo, giáo dục người phạm tội như: chính quyền xã, phường, 11
  16. thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi người bị kết án cư trú hoặc làm việc, cơ quan THADS Như vậy, theo quy định của BLHS năm 1999, các hình phạt chính bao gồm: các hình phạt chính KTTD và các hình phạt chính tước tự do áp dụng đối với cá nhân người phạm tội. Tuy nhiên, với phạm vi nghiên cứu của đề tài là các hình phạt chính KTTD và dựa vào khái niệm về hình phạt chính KTTD mà tác giả đã đưa ra trong mục 1.1.1 của Luận văn, cũng như các đặc điểm của hình phạt chính KTTD đã phân tích ở trên, có thể thấy BLHS năm 1999 quy định tất cả là bốn hình phạt chính KTTD đối với người phạm tội, đó là: - Cảnh cáo - Phạt tiền - Cải tạo không giam giữ - Trục xuất 1.1.3. Mục đích của các hình phạt chính không tước tự do Mục đích của hình phạt là kết quả cuối cùng mà Nhà nước mong muốn đạt được khi quy định hình phạt đối với tội phạm và khi áp dụng hình phạt đối với người phạm tội [29, tr.267]. Hình phạt chính KTTD cũng được xem là hình phạt, do đó, hình phạt chính KTTD cũng có các mục đích của hình phạt nói chung được quy định cụ thể tại Điều 27 BLHS năm 1999: “Hình phạt không chỉ nhằm trừng trị người phạm tội mà còn giáo dục họ ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, ngăn ngừa họ phạm tội mới. Hình phạt còn nhằm giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm”. Tuy mục đích của hình phạt đã được quy định chính thức trong BLHS, nhưng đến nay, trong khoa học pháp lý hình sự vẫn còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau xung quanh vấn đề này. Sự khác nhau cơ bản giữa các quan 12
  17. điểm về mục đích của hình phạt là hình phạt trong LHS Việt Nam có mục đích trừng trị hay không. Có quan điểm cho rằng trừng trị là mục đích của hình phạt, cũng có quan điểm cho rằng trừng trị không phải là mục đích của hình phạt mà trừng trị chính là bản chất, nội dung, là thuộc tính tất yếu của hình phạt [34, tr.355-356]. Trước hết, là mục đích phòng ngừa riêng của hình phạt chính KTTD. Có thể nói, mục đích phòng ngừa riêng của hình phạt chính KTTD là kết quả mà Nhà nước mong muốn đạt được từ phía người phạm tội. Theo Điều 27 BLHS 1999, mục đích phòng ngừa riêng của hình phạt chính KTTD là hình phạt không chỉ nhằm trừng trị người phạm tội mà còn nhằm giáo dục họ có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, ngăn ngừa họ phạm tội mới. Tuy nhiên, mục đích phòng ngừa riêng chủ yếu của hình phạt không phải là trừng trị mà là giáo dục người phạm tội có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, ngăn ngừa họ phạm tội mới. Bên cạnh mục đích phòng ngừa riêng, hình phạt chính KTTD còn có mục đích phòng ngừa chung. Mục đích phòng ngừa chung của hình phạt chính KTTD là kết quả mà Nhà nước mong muốn đạt được khi dùng hình phạt tác động đối với cộng đồng xã hội. Theo Điều 27 BLHS, mục đích phòng ngừa chung của hình phạt chính KTTD là hình phạt còn nhằm giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Bởi hình phạt được tuyên không những nhằm tác động lên chính người phạm tội mà còn có tác động đến những người khác trong cộng đồng xã hội, mà trước hết là những người có tâm lý không vững vàng trong xã hội, hình phạt có tác dụng răn đe, ngăn ngừa họ phạm tội, cho họ thấy trước được hậu quả pháp lý của việc phạm tội mà họ phải gánh chịu nếu thực hiện hành vi phạm tội. Với sự răn đe này, hình phạt có mục đích ngăn ngừa, giáo dục những người không vững vàng tuân theo pháp luật, từ bỏ ý định phạm tội hoặc thận trọng hơn 13
  18. trong xử sự tránh để trở thành xử sự phạm tội [10, tr.16-17]. Mặt khác, thông qua việc áp dụng hình phạt đối với người phạm tội, hình phạt còn giáo dục ý thức pháp luật cũng như động viên, khuyến khích quần chúng nhân dân tích cực tham gia vào cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm. Có thể thấy, phòng ngừa riêng và phòng ngừa chung là hai mặt không thể tách rời trong mục đích của hình phạt chính KTTD và có quan hệ tác động qua lại lẫn nhau. Tuy nhiên, trong các mục đích của hình phạt, mục đích phòng ngừa riêng đóng vai trò chính trong mối quan hệ giữa các mục đích của hình phạt. 1.1.4. Ý nghĩa của các hình phạt chính không tước tự do Việc quy định các hình phạt chính KTTD trong hệ thống hình phạt mang lại nhiều ý nghĩa quan trọng: Thứ nhất, trong xã hội hiện nay, nền kinh tế ngày càng phát triển kéo theo một hệ lụy là các tội phạm ngày càng diễn biến phức tạp và phong phú. Do đó, việc nhà làm luật quy định các hình phạt KTTD trong BLHS nước ta đã góp phần đa dạng hóa hệ thống hình phạt nói riêng và các biện pháp xử lý hình sự nói chung trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm. Bên cạnh trừng trị và cải tạo giáo dục đối với các trường hợp phạm tội có mức độ nghiêm trọng lớn, PLHS Việt Nam cũng đòi hỏi phải thực hiện chính sách khoan hồng đối với các trường hợp lần đầu phạm tội, phạm tội ít nghiêm trọng và đã ăn năn, hối cải. Khoản 3, Điều 3 BLHS 1999 đã ghi nhận: “ khoan hồng đối với người tự thú, thật thà khai báo, tố giác đồng bọn, lập công chuộc tội, ăn năn hối cải, tự nguyện sửa chữa, hoặc bồi thường thiệt hại đã gây ra. Đối với người phạm tội lần đầu, ít nghiêm trọng và đã hối cải thì có thể áp dụng hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù ”. Đa dạng hóa hình phạt trong HTHP tạo nên cơ sở vững chắc cho việc thống nhất trong thực tiễn xét xử của Tòa án, đảm bảo thực hiện nguyên tắc bình đẳng và công bằng trong 14
  19. xét xử. Nó tạo ra khả năng linh hoạt, mềm dẻo cho các cán bộ Tòa án trong việc lựa chọn hình phạt để áp dụng, phù hợp và tương xứng với tính chất nguy hiểm của từng hành vi phạm tội, tránh được việc quyết định hình phạt quá nặng hoặc quá nhẹ, đảm bảo “không bỏ lọt tội phạm”. Có thể nói “các hình phạt không phải tù như những nấc trung gian giữa các biện pháp xử lý bằng pháp luật khác” [5, tr.127] Thứ hai, việc quy định các hình phạt KTTD trong HTHP góp phần thực hiện nguyên tắc xử lý có phân biệt và nguyên tắc cá thể hóa hình phạt trong chính sách hình sự của Nhà nước ta. Đó là chính sách kết hợp hài hòa giữa việc trừng trị nghiêm khắc và khoan hồng như khoản 3 Điều 3 BLHS 1999 đã quy định. Cũng xuất phát từ thực tế hiện nay, tình hình tội phạm càng diễn biến phức tạp, mức độ phạm tội ngày càng đa dạng, tinh vi, chính vì thế nên trong HTHP cần phải có những hình phạt nghiêm khắc chủ yếu mang tính chất trừng trị khi cần thiết và cả những hình phạt nhẹ để có thể khoan hồng đối với những trường hợp phạm tội ít nghiêm trọng, đã hối cải nhưng chưa đến mức được miễn hình phạt. Mặt khác, Điều 45 BLHS 1999 quy định: “khi quyết định hình phạt, Tòa án phải cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự” để có căn cứ xử lý có phân biệt đối với từng trường hợp phạm tội cụ thể sao cho hình phạt được áp dụng tương xứng với mức độ, tính chất nguy hiểm do hành vi phạm tội gây ra cho xã hội. Thứ ba, các hình phạt KTTD góp phần thể hiện nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa của PLHS nước ta. Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, không có hình phạt nào có tính chất khủng bố, trả thù hay đầy đọa thể xác hoặc chà đạp phẩm giá con người như một số hình phạt trong pháp luật phong kiến xưa, trái lại còn có một số hình phạt tạo điều kiện giúp đỡ người phạm tội dễ dàng hơn, thuận lợi hơn trong quá trình tự cải tạo, giáo dục để trở thành người có ích 15
  20. cho xã hội. Đó chính là bản chất nhân đạo rõ nét của các hình phạt KTTD trong HTHP nước ta. Hơn nữa, khi xét đến hình phạt chính đối với người phạm tội, BLHS quy định 07 loại hình phạt chính thì có đến 04 hình phạt chính KTTD là: cảnh cáo, phạt tiền, CTKGG, trục xuất và chỉ có 03 hình phạt chính tước tự do là: tù có thời hạn, tù chung thân và tử hình. Với ưu thế về số lượng 4/7 hình phạt chính KTTD đã thể hiện rõ chính sách nhân đạo trong HTHP của nước ta. Do đó, sự có mặt của các hình phạt KTTD sẽ giúp cho các lợi ích của người bị kết án được đảm bảo dưới sự giám sát của gia đình, các cơ quan chính quyền địa phương, từ đó sẽ là động lực giúp cho quá trình chấp hành án của họ đạt hiệu quả cao hơn. Thứ tư, Khi áp dụng hình phạt chính KTTD đối với người phạm tội sẽ hạn chế được những tác động tiêu cực của hình phạt lên người phạm tội cũng như gia đình của người phạm tội. Đây chính là yếu tố quan trọng để tăng cường hiệu quả của hình phạt chính KTTD trên thực tế. Cụ thể: - Hình phạt chính KTTD loại trừ được những tác động tiêu cực đến bản thân người phạm tội, trước hết là vấn đề tái hòa nhập cộng đồng sau khi chấp hành xong hình phạt. Thực tế cho thấy, nếu người phạm tội bị áp dụng hình phạt tước tự do (hình phạt tù) thì sau khi chấp hành xong hình phạt, họ phải đối mặt với vô vàn những trở ngại trong việc tái hòa nhập cộng đồng. Bên cạnh đó, khi bị áp dụng hình phạt tù, sau quá trình bị cách ly khỏi môi trường sống bình thường, khi quay trở lại với xã hội, họ không thể theo kịp đà phát triển của xã hội, làm cho họ thu mình lại, khó sinh sống nếu không được tạo những điều kiện thuận lợi. Chính vì vậy, vấn đề tái hòa nhập cộng đồng cho những người phạm tội sau khi chấp hành xong hình phạt tù được Nhà nước và xã hội đặc biệt quan tâm. Do đó, nếu người phạm tội được áp dụng hình phạt chính KTTD thì sẽ loại trừ được những tiêu cực trong vấn đề tái hòa nhập cộng đồng đưa lại. Bên cạnh việc loại trừ được các tác động tiêu cực từ 16