Luận văn Các hình phạt chính không tước tự do theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai

pdf 86 trang vuhoa 23/08/2022 8620
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Các hình phạt chính không tước tự do theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_cac_hinh_phat_chinh_khong_tuoc_tu_do_theo_phap_luat.pdf

Nội dung text: Luận văn Các hình phạt chính không tước tự do theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI BÙI BÁ DIỄN CÁC HÌNH PHẠT CHÍNH KHÔNG TƯỚC TỰ DO THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN HUYỆN TRẢNG BOM, TỈNH ĐỒNG NAI LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2018
  2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI BÙI BÁ DIỄN CÁC HÌNH PHẠT CHÍNH KHÔNG TƯỚC TỰ DO THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN HUYỆN TRẢNG BOM, TỈNH ĐỒNG NAI Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 8.38.01.04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẨN KHOA HỌC: TS. TRẦN THỊ QUANG VINH HÀ NỘI- 2018
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả đề cập trong Luận văn là trung thực, có nguồn gốc trích dẫn rõ ràng và chính xác. Kết quả nghiên cứu trong luận văn này chưa từng được công bố tại bất kỳ công trình khoa học nào. TÁC GIẢ LUẬN VĂN Bùi Bá Diễn
  4. MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ CÁC HÌNH PHẠT CHÍNH KHÔNG TƯỚC TỰ DO 7 1.1. Khái quát lý luận về các hình phạt chính không tước tự do . .7 1.2. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về các hình phạt chính không tước tự do 15 1.3. Quy định của pháp luật hình sự một số nước trên thế giới về các hình phạt chính không tước tự do 36 Chương 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ CÁC HÌNH PHẠT CHÍNH KHÔNG TƯỚC TỰ DO TẠI HUYỆN TRẢNG BOM, TỈNH ĐỒNG NAI 43 2.1. Tổng quát tình hình áp dụng quy định của pháp luật hình sự về các hình phạt chính không tước tự dotrong những năm gần đây 43 2.2. Thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật hình sự về các hình phạt chính không tước tự do cụ thể 44 2.3. Những bất cập của Bộ luật hình sự về các hình phạt chính không tước tự do và những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn khi áp dụng 50 Chương 3: CÁC YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG CÁC HÌNH PHẠT CHÍNH KHÔNG TƯỚC TỰ DO . 64 3.1. Các yêu cầu cải cách tư pháp về các hình phạt chính không tước tự do . 64 3.2. Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các hình phạt chính không tước tự do 66 KẾT LUẬN CHUNG 76 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 78
  5. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BLHS : Bộ luật hình sự BLTTHS : Bộ luật tố tụng hình sự BLTTDS : Bộ luật tố tụng dân sự HTPL : Hệ thống pháp luật LHS : Luật hình sự QĐHP : Quyết định hình phạt TAND : Tòa án nhân dân THA : Thi hành án THADS : Thi hành án dân sự THAHS : Thi hành án hình sự TNHS : Trách nhiệm hình sự UBND : Ủy ban nhân dân
  6. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Mục đích của hình phạt là kết quả thực tế cuối cùng mà Nhà nước mong muốn đạt được khi quyết định TNHS đối với tội phạm và áp dụng hình phạt đối với họ. Nó thể hiện trước hết ở chỗ hình phạt tác động trực tiếp đến người phạm tội, không chỉ trừng trị mà còn nhằm giáo dục, ngăn ngừa họ phạm tội mới. Để đạt được mục đích này, BLHS Việt Nam quy định HTHP bao gồm nhiều loại hình phạt, trong đó có có các hình phạt chính không tước tự do. Các hình phạt chính không tước tự do thể hiện nguyên tắc nhân đạo trong việc xử lý tội phạm và đó cũng là nội dung quan trọng trong chính sách hình sự của Nhà nước ta theo hướng đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội; tôn trọng và bảo đảm thực thi đầy đủ các quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013, mà cụ thể là giảm áp dụng hình phạt tù, đồng thời mở rộng phạm vi áp dụng các hình phạt không tước tự do như: hình phạt tiền, hình phạt cải tạo không giam giữ Tuy nhiên trên thực tế trong thời gian qua, việc áp dụng hình phạt không tước tự do đối với người phạm tội còn chiếm tỷ lệ rất thấp so với các hình phạt chính tước tự do, đặc biệt là hình phạt tù có thời hạn. Nguyên nhân là do các quy định của pháp luật về các hình phạt chính không tước tự do còn nhiều bất cập, vướng mắc, chưa quy định cơ chế đảm bảo việc áp dụng và thi hành các hình phạt chính không tước tự do trên thực tế. BLHS năm 2015 đã có những sửa đổi, bổ sung nhưng cũng vẫn còn một số vấn đề cần xem xét, góp ý để hoàn thiện hơn. Đồng thời không ít cán bộ áp dụng pháp luật nói chung và cán bộ làm công tác áp dụng pháp luật tại huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai (nơi tôi đang công tác) nói riêng chưa nhận thức được một cách đúng đắn, đầy đủ vai trò, lợi ích của các hình phạt chính không tước tự do trong việc thực hiện chính sách hình sự của nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay nên việc áp dụng hình phạt chính không tước tự do trong giải quyết các vụ án hình sự là rất hạn chế. 1
  7. Do vậy việc nghiên cứu những vấn đề lý luận về hình phạt chính không tước tự do và sự thể hiện chúng trong các quy định của PLHS, đồng thời đánh giá việc áp dụng hình phạt chính không tước tự do trên thực tiễn để từ đó đưa ra các giải pháp hoàn thịên về mặt luật pháp, nâng cao về nhận thức của những người áp dụng pháp luật nhằm làm tăng hiệu quả áp dụng các hình phạt chính không tước tự do là hết sức quan trọng. Và đây cũng chính là lý do để tôi quyết định chọn đề tài “Các hình phạt chính không tước tự do theo PLHS Việt Nam từ thực tiễn huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai” làm luận văn tốt nghiệp chương trình cao học Luật, chuyên ngành Luật hình sự và tố tụng hình sự mà mình đang theo học. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài: Để thực hiện đề tài “Các hình phạt chính không tước tự do theo PLHS Việt Nam”, tôi nghiên cứu và sử dụng các tài liệu có liên quan như: Giáo trình Luật hình sự Việt Nam - tập 1 của Trường Đại học Luật Hà Nộị (2006),NXB Công an nhân dân; Giáo trình Luật hình sự Việt Nam - tập 1 của Trường Đại học Luật Hà Nộị (2011),NXB Công an nhân dân;Giáo trình Luật hình sự Việt Nam – Phần chung của Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2012), NXB Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam;Giáo trình Luật hình sự Việt Nam của Trường Đại học Mở TP. Hồ Chí Minh (2014), NXB Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh; Giáo trình Tội phạm học của tác giả Dương Tuyết Miên (2010), NXB Giáo dục Việt Nam; Lịch sử Luật hình sự Việt Nam của tác giả Trần Quang Tiệp (2003), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội; Tội phạm học, Luật hình sự và Tố tụng hình sự của tác giả Đào Trí Úc (1995), NXB Chính trị Quốc gia; Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần chung) của tác giả Võ Khánh Vinh (2008), NXB Công an nhân dân;Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (phần chung) của tác giả Võ Khánh Vinh (2012), NXB Công an nhân dân;Giáo trình Luật hình sự Việt Nam – Phần chung của tác giả Trần Thị Quang Vinh (2012), NXB Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam; Bình luận khoa học BLHSnăm 1999 (Phần chung) của tác giả Đinh Văn Quế (2000), NXB TP Hồ Chí Minh; Bình luận khoa học BLHS năm 2015 được sửa đồi, bổ sung năm 2017 (Phần chung) của tác giả Nguyễn Ngọc Hòa (2017), NXB Tư pháp, Hà Nội; Bộ luật hình sự Liên Bang 2
  8. Nga, Trường Đại học Luật Hà Nộị (dịch) (2011), NXB Công an nhân dân; Bộ luật hình sự Thụy Điển, Trường Đại học Luật Hà Nộị (dịch) (2010), NXB Công an nhân dân; Thông tin khoa học pháp lý, chuyên đề: Những vấn đề cơ bản về PLHS của một số nước trên thế giới của Viện nghiên cứu Khoa học pháp lý – Bộ Tư pháp; Bài viết Thi hành hình phạt cảnh cáo thực hiện như thế nào của tác giả Phạm Ngọc Ánh đăng trên Tạp chí Tòa án số 13 năm 2013; Bài viết Hoàn Thiện các quy định về hình phạt tiền của BLHS Việt Nam của tác giả Doãn Trung Đoàn đăng trên Tạp chí Tòa án số 18 năm 2013; Bài viết Về hình phạt trục xuất của tác giả Đỗ Thanh Xuân đăng trên Tạp chí Tòa án số 02 năm 2015 Các tài liệu nêu trên đã làm rõ các quy định của pháp luật hình sự về hình phạt chính không tước tự do, đồng thời cũng đã chỉ ra một số vướng mắc, bất cập của việc áp dụng các quy định về hình phạt chính không tước tự do trong thực tiễn. Trên cơ sở nghiên cứu các tài liệu này, giúp cho tôi tăng sự hiểu biết về các hình phạt chính không tước tự do, đặc biệt là mục đích, ý nghĩa của nó để từ đó đưa ra các quan điểm, nhận thứccủa mình, đánh giá việc áp dụng các hình phạt chính không tước tự do tại huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai trong những năm gần đây, qua đó tiếp tục chỉ ra một số vướng mắc, bất cập và đưa ra các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các hình phạt chính không tước tự do khi thực hiện luận văn với mong muốn góp phần thực hiện tốt chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước theo hướng: “ đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội. Giảm hình phạt tù, mở rộng áp dụng hình phạt tiền, hình phạt cải tạo không giam giữ ” theo tinh thần của Hiến pháp năm 2013 về tăng cường bảo vệ quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của đề tài là trên cơ sở làm rõ quy định của pháp luật về hình phạt chính không tước tự do, đánh giá những hạn chế, vướng mắc trong quá trình áp dụng pháp luật nhằm đưa ra những kiến nghị hoàn thiện quy định của PLHS Việt Nam cũng như các giải pháp khác bảo đảm hiệu quả áp dụng các hình phạt chính không tước tự do. 3
  9. Để đạt được mục đích trên, cần phải phân tích, làm rõ những vấn đề lý luận và pháp luật hình sự Việt Nam về các hình phạt tự do; So sánh quy định của PLHS Viện Nam với quy định của PLHS một số quốc gia khác trên thế giới để thấy được nhng ưu điểm và hạn chế cần khắc phục của PLHS Việt Nam khi quy định về các quy định về hình phạt chính không tước tự do; Đánh giá thực tiễn về việc áp dụng áp dụng hình phạt chính không tước tự do trên địa bàn huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai, nêu ra các vướng mắc, bất cập trong thực tiễn áp dụng; Đưa ra các kiến nghị hoàn thiện PLHS và đề xuất các giải pháp nhằm bảo đảm áp dụng đúng quy định về các hình phạt chính không tước tự do. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Để đạt được mục đích và thực hiện tốt nhiệm vụ nghiên cứu đã nêu ở trên thì đối tượng nghiên cứu của đề tài là: Quy định của PLHS Việt Nam về các hình phạt chính không tước tự do và PLHS của một số quốc gia khác trên thế giới về các hình phạt này, cũng như thực tiễn áp dụng các hình phạt chính không tước tự do do trên địa bàn huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai. - Phạm vi nghiên cứu: + Phạm vi về nội dung: Đề tài được nghiên cứu dưới góc độ làm rõ những vấn đề lý luận, pháp lý về các hình phạt chính không tước tự do; đánh giá thực tiễn áp dụng chúng. BLHS 2015 quy định về TNHS không những đối với cá nhân người phạm tội mà còn quy định về TNHS đối với pháp nhân thương mại phạm tội. Do vậy, BLHS quy định các hình phạt chính đối với cá nhân và đối với pháp nhân thương mại phạm tội. Tuy nhiên, phạm vi nghiên cứu của đề tài này chỉ về hình phạt chính không tước tự do đối với cá nhân người phạm tội chứ không bao gồm cả pháp nhân thương mại phạm tội. Tên đề tài gắn với vấn đề “không tước tự do” nên nó chỉ có nghĩa khi đặt ra đối với người phạm tội. Các hình phạt không tước tự do đối với cá nhân người phạm tội bao gồm: hình phạt cảnh cáo, hình phạt tiền, hình phạt cải tạo không giam giữ và hình phạt trục xuất. + Phạm vi về không gian và thời gian: Luận văn đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật về các hình phạt chính không tước tự do trong khoảng thời gian từ ngày 4
  10. 01 tháng 10 năm 2013 đến hết ngày 30 tháng 9 năm 2017 (theo năm thi đua của hệ thống Tòa án) trên địa bàn huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu: Về phương pháp luận: Việc nghiên cứu đề thực hiện đề tài dựa trên cơ sở vận dụng chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; quan điểm, chính sách của Đàng và Nhà nước ta trong xử lý hình sự đối với người phạm tội, đồng thời tham khảo có trọn lọc quan điểm của một số tác giải có công trình nghiên cứu, bài viết liên quan để từ đó đưa ra quan điểm, nhận thức của mình về các hình phạt chính không tước tự do. Về phương pháp nghiên cứu gồm: - Phương pháp phân tích và tổng hợp: áp dụng để phân tích các quy định của PLHS về các hình phạt chính không tước tự do và nhận thức cách khái quát về các hình phạt này cả về mặt lý luận và trên thực tiễn áp dụng. Qua đó, tổng hợp lại để đánh giá và đưa ra các giải pháp nhằm bảo đảm áp dụng đúng các hình phạt chính không tước tự do. - Phương pháp nghiên cứu lịch sử: Tìm hiểu và đánh giá về lịch sử hình thành và phát triển của các quy định trong PLHS Việt Nam về các hình phạt chính không tước tự do - Phương pháp so sánh: nhằm làm rõ những điểm giống và khác nhau của các quy định về các hình phạt chính không tước tự do trước khi BLHS được pháp điển hóa và sau khi được pháp điển hóa (năm 1985) và đặc biệt là giữa các BLHS qua các lần sửa đổi, cũng như giữa PLHS Việt Nam và PHHS của một số nước khác khi quy định về các hình phạt chính không tước tự do. - Phương pháp thống kê: để tổng hợp số liệu của TAND huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai về các hình phạt chính không tước tự do và số lượng bị cáo được áp dụng các hình phạt này trong 05 năm gần đây, từ đó đưa ra đánh giá, nhận định về thực tiễn áp dụng các quy định về các hình phạt chính không tước tự do. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 5
  11. - Luận văn góp phần làm sáng tỏ hơn những vấn đề lý luận và PLHS Việt Nam về các hình phạt chính không tước tự do. Đồng thời, đánh giá thực tiễn áp dụng để thấy được những vướng mắc, bất cập còn tồn tại, sự cần thiết phải khắc phục từ đó đưa ra những giải pháp nhằm áp dụng đúng quy định về các hình phạt chính không tước tự do. - Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được những người quan tâm đến các hình phạt chính không tước tự do dùng làm tài liệu tham khảo trong quá trình học tập, nghiên cứu. Luận văn còn góp phần nâng cao nhận thức của những người làm công tác áp dụng pháp luật về các hình phạt chính không tước tự do. Đồng thời qua việc nghiên cứu, viết đề tài cũng sẽ giúp cho bản thân tôi có nhận thức tốt hơn và áp dụng chính xác, có hiệu quả các hình phạt chính không tước tự do trong công tác chuyên môn của mình mà cụ thể là công tác xét xử các vụ án hình sự được phân công giải quyết. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn gồm ba chương: Chương 1: Những vấn để lý luận và pháp luật hình sự Việt Nam về các hình phạt chính không tước tự do Chương 2: Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về các hình phạt chính không tước tự do tại huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai. Chương 3: Các yêu cầu và giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các hình phạt chính không tước tự do. 6
  12. Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ CÁC HÌNH PHẠT CHÍNH KHÔNG TƯỚC TỰ DO 1.1. Khái quát lý luận về các hình phạt chính không tước tự do 1.1.1. Khái niệm các hình phạt chính không tước tự do Tội phạm và TNHS là hai chế định trung tâm của LHS và có mối quan hệ mật thiết với nhau. Hình phạt là hình thức chủ yếu của TNHS.Nó là công cụ pháp lý của Nhà nước trong đấu tranh phòng chống tội phạm. Mối quan hệ giữa tội phạm và hình phạt là biểu hiện của mối quan hệ giữa nguyên nhân và hậu quả, tức là người phạm tội phải chịu hậu quả nhất định do hành vi phạm tội mà mình đã thực hiện. Trong lịch sử lập pháp hình sự ở nước ta, khái niệm về hình phạt lần đầu tiên được quy định tại điều 26 BLHS năm 1999 như sau“Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người phạm tội. Hình phạt được quy định trong BLHS và do Tòa án quyết định” . Kế thừa khái niệm về hình phạt của BLHS năm 1999, Điều 30 BLHS năm 2015 quy định:“Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước được quy định trong Bộ luật này, do Toà án quyết định áp dụng đối với người hoặc pháp nhân thương mại phạm tội nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người, pháp nhân thương mại đó” [32, Tr. 7]. Như vậy, hình phạt được xem là một trong những công cụ pháp lý hiệu quả nhất để đấu tranh phòng chống tội phạm. Người hoặc pháp nhân thương mại phạm tội thì phải chịu một hoặc một số hình phạt nhất định trên cơ sở tính chất, mức độ hành vi nguy hiểm cho xã hội mà người hoặc pháp nhân thương mại đã thực hiện. Tuy nhiên, việc áp dụng hình phạt không chỉ mang tính trừng trị đối với người phạm tội mà còn mang tính giáo dục với mục đích cao nhất là để người phạm tội nhận ra lỗi lầm, tự nguyện rèn luyện, cải tạo để trở thành người có ích cho xã hội, không vi phạm pháp luật nữa. Do vậy Điều 31 BLHS năm 2015 quy định“Hình phạt không chỉ nhằm trừng trị người, pháp nhân thương mại phạm tội mà còn giáo dục họ ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc 7
  13. sống, ngăn ngừa họ phạm tội mới; giáo dục người, pháp nhân thương mại khác tôn trọng pháp luật, phòng ngừa và đấu tranh phòng chống tội phạm”. Xuất phát từ thực tiễn đa dạng của hành vi phạm tội với hoàn cảnh, điều kiện, mức độ phạm tội khác nhau nên cần phải có các hình phạt khác nhau nhằm đảm bảo hiệu quả cao nhất của hình phạt, đó là đem lại lợi ích chung cho xã hội. Trên cơ sở này, BLHS 2015 quy định HTHP gồm các hình phạt đối với người phạm tội và các hình phạt đối với pháp nhân thương mại phạm tội; hình phạt chính, hình phạt bổ sung để Tòa án xem xét, cân nhắc áp dụng đối với từng trường hợp cụ thể. Điều 32 và Điều 33 BLHS năm 2015 phân chia HTHP thành hai loại là: hình phạt chính và hình phạt bổ sung. Theo đó, hình phạt chính là loại hình phạt được áp dụng chính thức cho người phạm tội và được Tòa án tuyên một cách độc lập, đối với một trường hợp phạm tội cụ thể thì chỉ được áp dụng một hình phạt chính. Hình phạt bổ sung là loại hình phạt không được tuyên độc lập mà chỉ được tuyên kèm với hình phạt chính, đối với một trường hợp cụ thể có thể không áp dụng, có thể áp dụng một hoặc nhiều hình phạt bổ sung. Cụ thể, BLHS năm 2015 quy định các hình phạt đối với hai đối tượng khác nhau, đó là người phạm tội và pháp nhân phạm tội. Điều 32 BLHS năm 2015 quy định đối với người phạm tội thì hình phạt chính bao gồm: cảnh cáo; phạt tiền;cải tạo không giam giữ; trục xuất; tù có thời hạn; tù chung thân; tử hình. Hình phạt bổ sung bao gồm: cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất dịnh; cấm cư trú; quản chế; tước một số quyền công dân; tịch thu tài sản; phạt tiền, khi không áp dụng là hình phạt chính; trục xuất, khi không áp dụng là hình phạt chính. Tuy BLHS không quy định khái niệm về “hình phạt tước tự do” và “hình phạt không tước tự do” nhưng căn cứ vào tính chất tước bỏ về tự do thân thể của người phạm tội thì hình phạt còn được chia thành hai nhóm là: hình phạt tước tự do và hình phạt không tước tự do. Thuật ngữ “hình phạt tước tự do” và “hình phạt không tước tự do” chưa được quy định chính thức trong BLHS nhưng đã được thừa nhận và được nhắc đến nhiều trong các tài liệu khoa học pháp lý khác và cũng được nhiều chuyên gia pháp lý và người làm công tác pháp luật sử dụng. Về khái niệm 8
  14. “hình phạt không tước tự do”, có quan điểm cho rằng theo từ điển thì “quyền tự do hoặc tự do là một khái niệm mô tả tình trạng khi một cá nhân không bị sự ép buộc, có cơ hội để lựa chọn và hành động theo đúng với ý chí nguyện vọng của chính mình” nên hình phạt không tước tự do là hình phạt không có sự ép buộc, hạn chế nào đối với người phạm tội và do vậy các hình phạt cải tạo không giam giữ cũng như hình phạt trục xuất không phải là hình phạt không tước tự do bởi các hình phạt này đã hạn chế quyền tự do cư trú của người phạm tội. Tuy nhiên phần lớn các chuyên gia pháp lý, nhà khoa học cho rằng hình phạt không tước tự do là hình phạt không buộc người phạm tội phải cách ly hoàn toàn khỏi môi trường sống bình thường hay nói cách khác là người phạm tội không phải sống tập trung trong môi trường giam giữ, nhưng họ phải bị tước bỏ hoặc hạn chế một số quyền và lợi ích nhất định. Xuất phát từ quan điểm này và trên cơ sở khái niệm chung về hình phạt được quy định tại Điều 30 BLHS năm 2015 có thể khái niệm hình phạt chính không tước tự do như sau: Hình phạt chính không tước tự do là những hình phạt chính nằm trong HTHP được quy định trong Bộ LHS, do Tòa án quyết định áp dụng đối với người phạm tội nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người đó nhưng không cách ly họ ra khỏi đời sống xã hội. Căn cứ vào khái niệm hình phạt chính không tước tự do như đã nêu ở trên, đối chiếu với HTHP được quy định tại Điều 32 BLHS năm 2015 thì các hình phạt chính không tước tự do bao gồm: cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ và trục xuất. 1.1.2. Cơ sở, mục đích của hình phạt chính không tước tự do Hình phạt tước tự do và hình phạt không tước tự do khác nhau cơ bản ở chỗ hình phạt có cách ly người phạm tội ra khỏi đời sống xã hội hay không mà thôi. Vấn đề quan trọng đặt ra là tại saolại phải quy định hình phạt tước tự do và hình phạt không tước tự do. Hay nói cách khác, cơ sở nào quy định các hình phạt tước tự do. Theo tôi có hai cơ sở đó là: Sự khác nhau về tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm đặt ra yêu cầu phân hóa TNHS sao cho hình phạt được tuyên tương xứng với tội phạm vàsự khác nhau về nhân thân người phạm tội phản ánh 9
  15. mức độ khác nhau về sự tiếp thu cải tạo, giáo dục để trở thành người có ý thức tuân theo pháp luật. Đây là những cơ sở để quyết định việc áp dụng hình phạt tước tự do hay áp dụng hình phạt không tước tự do đối với người phạm tội nhằm đạt được mục đích của hình phạt. Mục đích của hình phạt là kết quả cuối cùng mà Nhà nước mong muốn đạt được khi quy định và áp dụng hình phạt đối với người phạm tội. Hình phạt chính không tước tự do là một nhóm trong HTHP. Do đó, hình phạt chính không tước tự do cũng có các mục đích của hình phạt nói chung được quy định tại Điều 31 BLHS năm 2015. Tuy nhiên,mục đích chủ yếu của hình phạt chính không tước tự do không phải là trừng trị mà là giáo dục người phạm tội nhận ra sai lầm của mình để từ đó có ý thức tuân thủ pháp luật và tuân theo các quy tắc của cuộc sống, chuẩn mực xã hội, ngăn ngừa họ phạm tội mới. Ngoài mục đích giáo dục người phạm tội thì hình phạt chính không tước tự do còn nhằm giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Bởi hình phạt được tuyên không những nhằm tác động lên chính người phạm tội mà còn có tác động đến những người khác trong cộng đồng xã hội nhằm răn đe, ngăn ngừa họ phạm tội. và còn động viên, khuyến khích quần chúng nhân dân tích cực tham gia vào cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm. 1.1.3. Các đặc trưng của hình phạt chính không tước tự do Do bản chất vẫn là hình phạt nên các hình phạt chính không tước tự do cũng mang đầy đủ các đặc điểm của hình phạt nói chung, đó là: Là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước; Được quy định trong BLHS; Do Tòa án quyết định áp dụng; Hình phạt áp dụng đối với người, pháp nhân thương mại phạm tội. Ngoài những đặc điểm chung của hình phạt như trên, các hình phạt chính không tước tự do còn có một số đặc trưng riêng như sau: Hình phạt chính không tước tự do phản ánh nguyên tắc nhân đạo của PLHS Việt Nam mà cụ thể là không buộc người bị kết án phải cách ly khỏi đời sống xã hội nhưng vẫn đảm bảo mục đích của hình phạt. 10
  16. Điều này thể hiện ở chỗ hình phạt chính không tước tự do không buộc người phạm tội phải cách ly khỏi môi trường sống bình thường mà tạo điều kiện cho người phạm tội được sống, lao động, học tập, cải tạo trong môi trường xã hội bình thường như khi chưa bị áp dụng hình phạt dưới sự giám sát, giúp đỡ của gia đình, cơ quan nhà nước, tổ chức nơi họ sinh sống, làm việc. Điều này xuất phát từ thực tế, có người sau khi chấp hành hình phạt tù vẫn tiếp tục phạm tội, thậm chí tính chất, mức độ hành vi phạm tội còn nguy hiểm hơn trước khi chấp hành hình phạt. Do vậy hình phạt tù chỉ áp dụng khi hình phạt chính không tước tự do không đảm bảo đủ độ nghiêm khắc cần thiết, không đủ tác dụng giáo dục, phòng ngừa. Còn đối với những người phạm tội thuộc các nhóm tội phạm trật tự quản lý kinh tế, tội xâm phạm an toàn, trật tự công cộng, trật tự quản lý hành chính và một số tội xâm phạm sở hữu có mức độ ít nghiêm trọng, phạm tội lần đầu, nhân thân tốt, ăn năn hối cải thì không cần thiết phải áp dụng các hình phạt tước tự do, thay vào đó có thể áp dụng các hình phạt chính không tước tự do mà vẫn đạt được mục đích của hình phạt. Với việc quy định và cho phép áp dụng các hình phạt không tước tự do, Nhà nước đã thể hiện rõ nguyên tắc nhân đạo trong việc xử lý tội phạm, từ đó tác động tích cực đến nhận thức của người phạm tội, giúp họ nhận ra được lỗi lầm của mình để tích cực cải tạo, phấn đấu trở thành người có ích cho xã hội. Bản chất của hình phạt không tước tự do luôn gắn liền với sự tác động và hỗ trợ của xã hội và gia đình. Đây là đặc trưng khác biệt với các hình phạt tước tự do bởi vì đối với hình phạt tước tự do thì người phạm tội hầu như phải tự chịu trách nhiệm và phải tự tu dưỡng, rèn luyện. Còn đối với hình phạt không tước tự do thì pháp luật quy định người phạm tội chấp hành hình phạt dưới sự giám sát, giúp đỡ của gia đình, cơ quan nhà nước, tổ chức nơi họ sinh sống, làm việc. Mục đích của việc giao người bị kết án cho cơ quan, tổ chức giám sát, giáo dục và gia đình của người bị kết án có trách nhiệm phối hợp trong việc giám sát, giáo dục người bị kết án là nhằm giúp cho người bị kết án thực hiện tốt quá trình tự cải tạo của mình để trở thành người tốt, sống tôn trọng pháp luật. 11
  17. Hình phạt chính không tước tự do có mức độ nghiêm khắc thấp hơn so với các hình phạt chính tước tự do. Điều này thể hiện ở tính chất của các quyền, lợi ích mà người phạm tội bị hạn chế hoặc tước bỏ. Hình phạt chính không tước tự do chỉ tước bỏ hoặc hạn chế các quyền, lợi ích hợp pháp ở mức độ cho phép mà vẫn đảm bảo được các quyền cơ bản của người phạm tội. Cụ thể, hình phạt chính không tước tự do chỉ gây ra những hạn chế nhất định về mặt tinh thần đối người phạm tội thông qua việc khiển trách công khai của Nhà nước (trong trường hợp bị áp dụng hình phạt cảnh cáo); hoặc làm hạn chế quyền tự do thân thể của người phạm tội bởi hoạt động giám sát, giáo dục của cơ quan nhà nước hoặc tổ chức xã hội nơi người đó làm việc hoặc cư trú (trong trường hợp bị áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ); hoặc tước đi một khoản tiền (phạt tiền, khấu trừ thu nhập); hoặc tước quyền cư trú trên lãnh thổ Việt Nam (trục xuất). Trong khi đó, các hình phạt chính tước tự do lại cách ly người phạm tội ra khỏi môi trường sống bình thường, buộc họ phải chấp hành hình phạt trong một môi trường có quy chế và kỷ luật chặt chẽ là trại giam, thậm chí còn tước luôn cả quyền sống của con người như hình phạt tử hình [32, tr. 10-11]. Điều kiện để người phạm tội được áp dụng các hình phạt chính không tước tự do đói hỏi phài cao hơn so với hình phạt tước tự do Tòa án chỉ áp dụng các hình phạt chính không tước tự do đối với loại tội phạm được pháp luật quy định được áp dụng hình phạt chính không tước tự do. Đồng thời người phạm tội phải có nhân thân tốt và có nhiều tình tiết giảm nhẹ TNHS sự được quy định tại Điều 51 BLHS năm 2015; Ngoài ra Tòa án còn phải căn cứ vào tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội không lớn; đánh giá về vai trò, động cơ, mục đích phạm tội của người phạm tội trong vụ án để xác định người phạm tội có đủ khả năng để tự cải tạo trở thành người tốt và phải không ảnh hưởng đến công tác đấu tranh, phòng ngừa tội phạm. Như vậy, chỉ có những trường hợp người phạm tội hội đủ các điều kiện nêu trên thì mới được áp dụng các hình phạt không tước tự do. 1.1.4. Ý nghĩa của hình phạt chính không tước tự do 12
  18. Hình phạt chính không tước tự do có ý nghĩa quan trọng cả về mặt pháp lý và về mặt kinh tế - xã hội. Về ý nghĩa pháp lý Việc quy định các hình phạt không tước tự do trong BLHS nước ta đã góp phần đa dạng hóa HTHP nói riêng và các biện pháp xử lý hình sự nói chung trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm. Bên cạnh trừng trị và cải tạo giáo dục đối với các trường hợp phạm tội có mức độ nghiêm trọng lớn, BLHS Việt Nam cũng đòi hỏi phải thực hiện chính sách khoan hồng đối với các trường hợp lần đầu phạm tội, phạm tội ít nghiêm trọng hoặc nghiêm trọng nhưng đã ăn năn, hối cải. Điểm d khoản 3 Điều 3 BLHS năm 2015 đã ghi nhận: “khoan hồng đối với người tự thú, đầu thú, tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạmhoặc trong quá trình giải quyết vụ án, thật thà khai báo, tố giác đồng bọn, lập công chuộc tội, ăn năn hối cải, tự nguyện sửa chữa, hoặc bồi thường thiệt hại đã gây ra”. Đa dạng hóa hình phạt trong HTHP tạo nên cơ sở vững chắc cho việc thống nhất trong thực tiễn xét xử của Tòa án, đảm bảo thực hiện nguyên tắc bình đẳng và công bằng trong xét xử. Các hình phạt không tước tự do tạo ra khả năng linh hoạt, mềm dẻo cho Hội đồng xét xử trong việc lựa chọn hình phạt để áp dụng phù hợp, tương xứng với tính chất nguy hiểm của từng hành vi phạm tội [32, tr. 14- 15] Việc quy định các hình phạt không tước tự do trong HTHP góp phần thực hiện nguyên tắc xử lý có phân biệt và thực hiện quan điểm cá thể hóa hình phạt trong chính sách hình sự của Nhà nước ta. Đó là chính sách kết hợp hài hòa giữa việc trừng trị nghiêm khắc và khoan hồng như điểm d, khoản 1 Điều 3 của BLHS năm 2015 đã quy định. Cũng xuất phát từ thực tế hiện nay, tình hình tội phạm ngày càng diễn biến phức tạp, mức độ phạm tội ngày càng đa dạng, tinh vi, chính vì thế trong HTHP cần phải có những hình phạt nghiêm khắc chủ yếu mang tính chất trừng trị khi cần thiết và cả những hình phạt nhẹ để có thể khoan hồng đối với những trường hợp phạm tội với mức độ nghiêm trọng không lớn, đã hối cải nhưng chưa đến mức được miễn hình phạt. Mặt khác, Điều 50 BLHS năm 2015 quy định: 13
  19. “Khi quyết định hình phạt, Tòa án căn cứ vào quy định của Bộ luật này, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự” để có căn cứ xử lý có phân biệt đối với từng trường hợp phạm tội cụ thể sao cho hình phạt được áp dụng tương xứng với mức độ, tính chất nguy hiểm do hành vi phạm tội gây ra [32, tr.15] Về ý nghĩa kinh tế - xã hội Hình phạt chính không tước tự do hạn chế được những tác động tiêu cực của hình phạt tước tự do đến bản thân người phạm tội. Trên thực tế, nếu người phạm tội bị áp dụng hình tù thì sau khi chấp hành xong hình phạt, họ gặp phải không ít khó khăn, trở ngại trong việc tái hòa nhập cộng đồng. Bởi vì sau một thời gian bị cách ly khỏi đời sống xã hội, khi quay trở lại, nhiều vấn đề quan trọng trong sự nghiệp của bản thân bị dở dang, khó khắc phục, cơ hội đã qua đi, phải làm lại từ đầu nên cuộc sống của họ gặp không ít khó khăn. Ngoài ra, việc áp dụng các hình phạt chính không tước tự do còn giúp cho người bị kết án tránh bị “lây nhiễm” điều xấu từ những người cùng phải chấp hành hình phạt tù. Bởi trên thực tế không ít trường hợp sau khi ra tù, người phạm tội lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội với thủ đoạn ngày càng tinh vi, manh động và nguy hiểm hơn. Hình phạt chính không tước tự do còn hạn chế được những tác động tiêu cực của hình phạt tước tự do đến gia đình của người phạm tội: Điều đó thể hiện ở chỗ, khi người phạm tội bị áp dụng hình phạt chính tước tự do thì không chỉ có người phạm tội bị ảnh hưởng, mà còn ảnh hưởng đến cả gia đình người phạm tội vì trong nhiều trường hợp không chỉ bản thân người phạm tội mà gia đìnhngười phạm tội cũng bị cũng có thể bị kỳ thị, xa lánh. Đặc biệt việc vắng đi người cha, người mẹ do phải chấp hành hình phạt tước tự do sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến tâm lý của con cái họ. Đó là tâm lý tự ti, bất cần, buông xuôi và từ tâm lý này dẫn đến việc học hành sa sút, làm việc kém hiệu quả và dễ vướng vào các tệ nạn xã hội, thậm chí còn có trường hợp đi vào con đường phạm tội. Việc bị áp dụng hình phạt chính tước tự do còn có thể ảnh hưởng không nhỏ đến hạnh phúc gia đình của người phạm tội 14