Luận văn Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh của ngân hàng thương mại theo pháp luật Việt Nam

pdf 125 trang vuhoa 25/08/2022 4380
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh của ngân hàng thương mại theo pháp luật Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_cac_hanh_vi_canh_tranh_khong_lanh_manh_cua_ngan_han.pdf

Nội dung text: Luận văn Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh của ngân hàng thương mại theo pháp luật Việt Nam

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TẠ THU HẰNG C¸C HµNH VI C¹NH TRANH KH¤NG LµNH M¹NH CñA NG¢N HµNG TH¦¥NG M¹I THEO PH¸P LUËT VIÖT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2015
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TẠ THU HẰNG C¸C HµNH VI C¹NH TRANH KH¤NG LµNH M¹NH CñA NG¢N HµNG TH¦¥NG M¹I THEO PH¸P LUËT VIÖT NAM Chuyên ngành: Luật Kinh tế Mã số: 60 38 01 07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. ĐẶNG VŨ HUÂN HÀ NỘI - 2015
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƢỜI CAM ĐOAN Tạ Thu Hằng
  4. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các chữ viết tắt MỞ ĐẦU 1 Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HÀNH VI CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI 7 1.1. KHÁI QUÁT VỀ CẠNH TRANH VÀ HÀNH VI CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH 7 1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của cạnh tranh 7 1.1.2. Khái niệm và đặc điểm của hành vi cạnh tranh không lành mạnh 10 1.2. HÀNH VI CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI 14 1.2.1. Khái quát chung về hoạt động của ngân hàng thƣơng mại 14 1.2.2. Khái niệm, bản chất và đặc trƣng cơ bản hành vi cạnh tranh không lành mạnh của ngân hàng thƣơng mại 18 1.2.3. Hậu quả do các hành vi cạnh tranh không lành mạnh của ngân hàng thƣơng mại gây ra 26 1.3. PHÁP LUẬT VỀ HÀNH VI CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI 29 1.3.1. Khái niệm, đặc điểm và nội dung cơ bản pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh 29 1.3.2. Những đặc trƣng cơ bản của pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh của ngân hàng thƣơng mại 36 Tiểu kết Chƣơng 1 39
  5. Chƣơng 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ HÀNH VI CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 40 2.1. THỰC TRẠNG CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ HÀNH VI CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI Ở VIỆT NAM 40 2.1.1. Thực trạng các quy định của Luật Cạnh tranh và các văn bản hƣớng dẫn thi hành về hành vi cạnh tranh không lành mạnh của ngân hàng thƣơng mại 40 2.1.2. Thực trạng các quy định của Luật các Tổ chức tín dụng và các văn bản hƣớng dẫn thi hành về hành vi cạnh tranh không lành mạnh của ngân hàng thƣơng mại 43 2.2. THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ HÀNH VI CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 59 2.2.1. Thực trạng các hành vi cạnh tranh không lành mạnh của ngân hàng thƣơng mại ở Việt Nam hiện nay 59 2.2.2. Thực trạng xử lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh của ngân hàng thƣơng mại ở Việt Nam hiện nay 65 2.3. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ HÀNH VI CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 80 2.3.1. Những kết quả đạt đƣợc 80 2.3.2. Những tồn tại và nguyên nhân 81 Tiểu kết Chƣơng 2 87 Chƣơng 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM CHỒNG HÀNH VI CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNHCỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI Ở VIỆT NAM 88 3.1. YÊU CẦU VÀ ĐỊNH HƢỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ HÀNH VI CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI Ở VIỆT NAM 88
  6. 3.1.1. Xu thế phát triển hoạt động dịch vụ ngân hàng thƣơng mại ở thị trƣờng Việt Nam 88 3.1.2. Một số định hƣớng hoàn thiện pháp luật 90 3.2. KIẾN NGHỊ VỀ CÁC GIẢI PHÁP CỤ THỂ 93 3.2.1. Giải pháp thuộc các cơ quan quản lý nhà nƣớc nhằm chống hành vi cạnh tranh không lành mạnh của NHTM 93 3.2.2. Giải pháp đối với các ngân hàng thƣơng mại nhằm chống hành vi cạnh tranh không lành mạnh của NHTM 108 Tiểu kết Chƣơng 3 112 KẾT LUẬN 113 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 115
  7. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT Chữ viết tắt Nghĩa đầy đủ CTKLM: Cạnh tranh không lành mạnh NHNN: Ngân hàng Nhà nƣớc Việt Nam NHTM: Ngân hàng thƣơng mại TCTD: Tổ chức tín dụng
  8. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Dự thảo Lộ trình phát triển khu vực ngân hàng đến năm 2020 và đề xuất Chiến lƣợc phát triển ngân hàng Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020, đƣợc Ngân hàng Nhà nƣớc Việt Nam và các chuyên gia Cục Kinh tế Liên bang Thụy Sỹ (SECO) xây dựng bao gồm các nội dung chính: Tầm nhìn chiến lƣợc cho khu vực ngân hàng Việt Nam đến năm 2020; Các giá trị cốt lõi khu vực ngân hàng Việt Nam cần theo đuổi để đạt đƣợc tầm nhìn; Các kế hoạch và mục tiêu để chỉ dẫn và xác định quá trình thực thi các chiến lƣợc. Theo đó, các chiến lƣợc cốt lõi đƣợc đề xuất trong bản lộ trình chiến lƣợc cho ngân hàng Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020, đƣợc phân thành 4 nội dung chính: Tăng cƣờng cạnh tranh, ổn định, và đa dạng hóa các định chế ngân hàng; Cải thiện tính hiệu quả hệ thống của khu vực ngân hàng thông qua việc củng cố cơ chế thị trƣờng; Xây dựng một cơ chế giám sát thận trọng, hiệu quả, tập trung và kiểm soát rủi ro hệ thống; Tăng cƣờng mức độ tiếp cận với những sản phẩm và dịch vụ ngân hàng tới tất cả khách hàng tiềm năng một cách hiệu quả. Báo cáo Lộ trình phát triển khu vực ngân hàng giai đoạn 2011 - 2020 sau khi hoàn thiện là cơ sở để NHNN quyết định chiến lƣợc phát triển ngành trong 10 năm tới, tạo ra bƣớc phát triển mới để hệ thống ngân hàng Việt Nam có thể rút ngắn khoảng cách với nhóm các quốc gia phát triển hàng đầu khu vực, đóng góp cho sự phát triển của đất nƣớc và thực hiện thắng lợi mục tiêu kinh tế 2011 - 2020 vừa đƣợc Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI thông qua. Theo cam kết khi gia nhập Tổ chức Thƣơng mại thế giới (WTO), kể từ ngày 01/04/2009, các TCTD nƣớc ngoài đƣợc thành lập ngân hàng 100% vốn nƣớc ngoài tại Việt Nam với các ràng buộc về vốn. Đây đang là sức ép rất lớn 1
  9. đối với các NHTM trong nƣớc, bởi lẽ, với một thị trƣờng tài chính còn non trẻ, chƣa có kinh nghiệm thích ứng và xử lý với những biến động của kinh tế thị trƣờng, nhƣng lại có quá nhiều chủ thể cung ứng dịch vụ ngân hàng, bởi vậy, việc bảo đảm cho các NHTM trong nƣớc có vị trí xứng đáng trên thị trƣờng quả là công việc khó khăn, nhất là tiềm lực tài chính và kinh nghiệm kinh doanh. Thực thi các cam kết quốc tế, các NHTM trong nƣớc buộc phải thay đổi các phƣơng thức kinh doanh, đặc biệt là cần phải có các giải pháp để nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trƣờng khi có sự hiện diện của các NHTM nƣớc ngoài tại Việt Nam. Mặc dù thời gian qua, các NHTM trong nƣớc cũng đã tập trung mọi nguồn lực để nâng cao năng lực tài chính và mở rộng quy mô, tuy nhiên, vấn đề cạnh tranh giữa các NHTM tại thị trƣờng Việt Nam cũng đang trở nên nóng bỏng và khốc liệt. Là một lĩnh vực quan trọng và nhạy cảm trong nền kinh tế, ngành Ngân hàng cần phải có những quy định pháp lý hết sức chặt chẽ và hiện đại để điều chỉnh kịp thời các hành vi cạnh tranh đa dạng và thay đổi liên tục để duy trì môi trƣờng kinh doanh lành mạnh cho tất cả các TCTD. Xuất phát từ mục tiêu duy trì và bảo vệ môi trƣờng cạnh tranh lành mạnh trong lĩnh vực ngân hàng, thúc đẩy nâng cao năng lực cạnh tranh của các NHTM, tăng cƣờng nhận thức về pháp luật cạnh tranh, chống các hành vi cạnh tranh không lành mạnh giữa các NHTM ở Việt Nam, tác giả đã mạnh dạn lựa chọn vấn đề: “Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh của ngân hàng thương mại theo pháp luật Việt Nam” để làm đề tài Luận văn Thạc sĩ Luật học. Đây cũng là một đề tài có ý nghĩa quan trọng cấp bách cả về phƣơng diện lý luận cũng nhƣ thực tiễn. 2. Tình hình nghiên cứu Cạnh tranh giữa các NHTM là một trong những vấn đề quan trọng, phong phú và phức tạp trong lĩnh vực hoạt động ngân hàng, nên từ trƣớc đến 2
  10. nay, nó cũng đƣợc một số nhà luật học đề cập đến trong các nghiên cứu của mình. Tuy nhiên, vấn đề này chƣa đƣợc chú trọng quan tâm đúng mức. Điều chỉnh bằng pháp luật đối với các hành vi cạnh tranh giữa các NHTM đã đƣợc đề cập chính thức tại Luật Ngân hàng Nhà nƣớc và Luật các Tổ chức tín dụng năm 1997, nhƣng chỉ là những quy định chung chung, không rõ ràng. Đến năm 2004, cùng với sự sửa đổi, bổ sung hai luật trên, vấn đề này đã đƣợc quy định cụ thể hơn trong Luật Cạnh tranh, tuy nhiên, chƣa có sự phân biệt rõ giữa cạnh tranh nói chung và cạnh tranh trong hoạt động ngân hàng - một lĩnh vực kinh doanh đặc biệt. Sau thời điểm này, đã có thêm những bài viết nghiên cứu, song ở khía cạnh kinh doanh hơn là pháp luật. Cụ thể nhƣ: “Áp dụng Luật Cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng” của TS. Nguyễn Văn Tuyến đăng trên Tạp chí Luật học số 06/2006; “Cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực ngân hàng – Nhìn từ góc độ pháp lý” của TS. Nguyễn Kiều Giang đăng trên Tạp chí Luật học số 12/2007; “Hoàn thiện pháp luật cạnh tranh của các tổ chức có hoạt động ngân hàng nhìn từ bất cập và các yêu cầu” của ThS. Viên Thế Giang đăng trên Tạp chí Nhà nƣớc và Pháp luật số 4/2008; “Hành lang pháp lý liên quan đến sáp nhập và thâu tóm ngân hàng ở Việt Nam” của ThS. Bùi Thanh Lâm đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 11/2010; “Hoàn thiện pháp luật cạnh tranh ngân hàng trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế”, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Học viện năm học 2009 – 2010, Học viện Ngân hàng (Chủ nhiệm Viên Thế Giang) Một số công trình luận văn thạc sỹ nhƣ: “Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của các NHTM Việt Nam thông qua hoạt động sáp nhập và mua lại”, Luận văn Thạc sỹ Kinh tế, Phạm Thị Tuyết Vân, Trƣờng Đại học Kinh tế TP.Hồ Chí Minh, 2008; “Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đến 2015”, Luận văn Thạc sỹ Kinh tế, Đặng Hoàng An Dân, Trƣờng Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh, 2010 Các 3
  11. công trình nghiên cứu khoa học trên đã đƣa ra những bàn luận và giải quyết đƣợc một số vấn đề về lý luận và thực tiễn áp dụng pháp luật, song đều nghiên cứu ở khía cạnh nghiệp vụ kinh doanh ngân hàng. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu của các công trình này cũng cho thấy, vấn đề cạnh tranh giữa các NHTM mặc dù là một trong những chế định cơ bản nhƣng cũng là một trong những chế định còn nhiều nội dung chƣa đạt đến sự đồng thuận và gây tranh luận sôi nổi trong giới khoa học và kinh doanh từ trƣớc đến nay. Trên cơ sở kế thừa những giá trị khoa học của các công trình nghiên cứu trƣớc đây, Luận văn này tiếp tục đi sâu, phát triển nhằm hoàn thiện hơn nữa pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực ngân hàng của Việt Nam hiện nay. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu * Mục đích nghiên cứu: - Nghiên cứu các vấn đề lý luận về cạnh tranh không lành mạnh, pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh nói chung và cạnh tranh không lành mạnh, pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực ngân hàng nói riêng. - Nghiên cứu, đánh giá thực trạng cạnh tranh không lành mạnh, pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực ngân hàng ở Việt Nam; chỉ ra những bất cập, tồn tại trong cơ chế thực thi pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực ngân hàng ở Việt Nam. - Đƣa ra định hƣớng và kiến nghị các giải pháp hoàn thiện pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực ngân hàng ở Việt Nam. * Nhiệm vụ nghiên cứu: - Làm rõ những vấn đề về lý luận, phân tích khái niệm, đặc điểm của hành vi cạnh tranh không lành mạnh, tính đặc thù của cạnh tranh không lành mạnh đƣợc thể hiện trong lĩnh vực ngân hàng, vai trò của pháp luật cạnh tranh trong điều chỉnh lĩnh vực ngân hàng; 4
  12. - Nghiên cứu, đánh giá thực trạng pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực ngân hàng, tính hiệu quả của cơ chế điều chỉnh pháp luật đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực ngân hàng ở Việt Nam; - Đề xuất, kiến nghị giải pháp hoàn thiện pháp luật về chống cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực ngân hàng ở Việt Nam hiện nay. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn đƣợc tiếp cận nghiên cứu dựa trên phƣơng pháp luận, quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lê Nin. Bên cạnh đó, để đạt đƣợc mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra, tác giả còn sử dụng kết hợp các phƣơng pháp nghiên cứu khoa học cơ bản nhƣ: phƣơng pháp tổng hợp, phân tích, khái quát hóa trong khi tìm hiểu các quy phạm pháp luật về cạnh tranh, về hoạt động ngân hàng từ trƣớc đến nay; phƣơng pháp so sánh, khảo sát, đánh giá khi nghiên cứu thực trạng thực thi các quy phạm pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực ngân hàng của Việt Nam trên thực tiễn để đối chiếu, tìm ra những hạn chế và đề xuất hƣớng hoàn thiện phù hợp. Các phƣơng pháp nghiên cứu này còn dựa trên sự tiếp thu quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc ta trong sự nghiệp đổi mới, đặc biệt là đổi mới cơ chế kinh tế, phát triển nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. 5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu * Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu chủ yếu về vấn đề cạnh tranh không lành mạnh giữa các NHTM theo pháp luật Việt Nam. * Phạm vi nghiên cứu: Kể từ những năm 90 trở đi, đất nƣớc chuyển đổi sang nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa dẫn đến các TCTD bắt đầu có sự cạnh tranh. Tuy nhiên, phải đến khi Luật Ngân hàng Nhà nƣớc và Luật các Tổ chức tín dụng ra đời năm 1997, thì pháp luật về cạnh tranh giữa các ngân hàng mới chính thức đƣợc ghi nhận. Do đó, luận văn sẽ đi sâu 5
  13. nghiên cứu từ giai đoạn năm 1997 đến nay, trong đó, đặc biệt ƣu tiên trong phạm vi 5 năm gần đây với sự ra đời của Luật Cạnh tranh năm 2004, Luật Ngân hàng Nhà nƣớc và Luật các Tổ chức tín dụng mới (đƣợc sửa đổi năm 2010). Trên cơ sở nghiên cứu, phân tích các vấn đề lý luận, đánh giá thực trạng và xu thế cạnh tranh hiện nay của các NHTM để có những kiến nghị, đề xuất hợp lý nhất. Đồng thời, luận văn cũng có sự so sánh pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng của một số nƣớc nhƣ: Mỹ, Hunggari, Ba Lan, Anh, Pháp để tham khảo trong quá trình nghiên cứu, hoàn thiện các quy định pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng của Việt Nam. 6. Những đóng góp mới của Luận văn - Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần đáng kể về mặt lý luận của pháp luật cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực ngân hàng. -Về thực tiễn, Luận văn chỉ ra xu thế cạnh tranh của các NHTM ở Việt Nam trong thời gian sắp tới; đánh giá đƣợc những điểm mạnh, điểm yếu của pháp luật cạnh tranh giữa các NHTM hiện nay và đƣa ra những giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực ngân hàng. Ngoài ra, luận văn có thể đƣợc sử dụng làm tài liệu tham khảo trong việc nghiên cứu, học tập tại các cơ sở nghiên cứu và đào tạo chuyên ngành luật ở nƣớc ta. 7. Kết cấu Luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, bố cục Luận văn đƣợc kết cấu với ba chƣơng: Chƣơng 1: Những vấn đề lý luận về hành vi cạnh tranh không lành mạnh của ngân hàng thƣơng mại. Chƣơng 2: Thực trạng về hành vi cạnh tranh không lành mạnh của ngân hàng thƣơng mại ở Việt Nam hiện nay. Chƣơng 3: Một số kiến nghị nhằm chống hành vi cạnh tranh không lành mạnh của ngân hàng thƣơng mại ở Việt Nam. 6
  14. Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HÀNH VI CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI 1.1. KHÁI QUÁT VỀ CẠNH TRANH VÀ HÀNH VI CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH 1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của cạnh tranh 1.1.1.1. Khái niệm cạnh tranh Trong nền kinh tế thị trƣờng – hình thức phát triển cao của nền kinh tế hàng hóa - cạnh tranh đã trở thành quy luật then chốt và là một thuộc tính quan trọng. Với tƣ cách là một trong những đặc trƣng cơ bản, đồng thời là động lực phát triển của kinh tế thị trƣờng, khái niệm cạnh tranh đã đƣợc hiểu từ nhiều góc nhìn khác nhau. Với tƣ cách là hiện tƣợng xã hội, P.A Samuelson & W.D.Nordhaus – hai nhà kinh tế học Mỹ đã viết trong cuốn “Kinh tế học” (tái bản lần thứ 12) rằng: “Cạnh tranh là sự kình địch giữa các doanh nghiệp nhằm cạnh tranh với nhau để giành giật một đối tượng khách hàng hay một thị trường trong lĩnh vực nào đó ”. Với tƣ cách là động lực nội tại trong mỗi một chủ thể kinh doanh, cuốn “Black’Law Dictionary” diễn tả cạnh tranh là “sự nỗ lực hoặc hành vi của hai hay nhiều thương nhân nhằm tranh giành những lợi ích giống nhau từ chủ thể thứ ba” [42, tr. 278]. Từ điển Kinh doanh của Anh xuất bản năm 1992 cũng định nghĩa: “Cạnh tranh là sự ganh đua, sự kình địch giữa các nhà kinh doanh trên thị trường nhằm tranh giành cùng một loại tài nguyên sản xuất hoặc cùng một loại khách hàng về phía mình” [15, tr.19]. Từ điển Tiếng Việt định nghĩa cạnh tranh là tranh đua giữa những cá nhân, tập thể có chức năng nhƣ nhau, nhằm giành phần hơn, phần thắng về phía mình [41, tr. 258]. Cạnh tranh cũng có thể đƣợc hiểu là hành vi của doanh nghiệp độc lập với nhau và là đối 7
  15. thủ của nhau cung ứng hàng hóa, dịch vụ nhằm làm thỏa mãn nhu cầu giống nhau với sự may rủi của mỗi bên, thể hiện qua việc lôi kéo đƣợc hoặc để bị mất đi một lƣợng khách hàng thƣờng xuyên [16, tr. 11]. Theo các cách giải thích trên, nếu nhìn từ phía các chủ thể của hành vi thì cạnh tranh đƣợc coi là phƣơng thức giải quyết mâu thuẫn về lợi ích tiềm năng giữa các nhà kinh doanh với vai trò quyết định của ngƣời tiêu dùng. Nếu nhìn khái quát trên quy mô toàn xã hội thì cạnh tranh là phƣơng thức phân bổ các nguồn lực, tài nguyên một cách tối ƣu, do đó là động lực bên trong của nền kinh tế phát triển. Với những ý nghĩa quan trọng đó, thông qua việc đáp ứng các nhu cầu và đem lại lợi ích cho ngƣời tiêu dùng, cạnh tranh có vai trò điều tiết, phân phối thu nhập, đào thải tự nhiên đối với những doanh nghiệp kinh doanh kém hiệu quả, dành lại chỗ đứng cho những doanh nghiệp giỏi, có tiềm năng. Cạnh tranh thúc đẩy phát triển các ứng dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và sáng tạo, đồng thời đảm bảo cho việc sử dụng các nguồn lực kinh tế một cách hiệu quả nhất, góp phần tạo nên năng lực cạnh tranh cho mỗi doanh nghiệp trên thị trƣờng. 1.1.1.2. Đặc điểm của cạnh tranh Đƣợc nhìn nhận dƣới những góc độ khác nhau, với tính chất đa dạng và phức tạp của quá trình cạnh tranh trong nền kinh tế hiện đại, các định nghĩa về cạnh tranh nêu trên đều đƣợc mô tả bởi 3 đặc trƣng cơ bản sau đây: Thứ nhất, với tƣ cách là hiện tƣợng xã hội diễn ra giữa các chủ thể kinh doanh, cạnh tranh chỉ xuất hiện khi tồn tại những tiền đề nhất định sau đây: - Có sự tồn tại của quan hệ thị trƣờng, trong đó có nhiều doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế và các hình thức sở hữu khác nhau. Bởi lẽ khi trong một thị trƣờng nhất định nào đó chỉ có một doanh nghiệp tồn tại thì chắc chắn nơi đó sẽ không có đất cho cạnh tranh nảy sinh và phát triển. Mặt khác, khi có sự tồn tại của nhiều doanh nghiệp, song chúng chỉ thuộc về một 8
  16. thành phần kinh tế duy nhất thì sự cạnh tranh chẳng còn ý nghĩa gì [22]. Cạnh tranh chỉ thực sự trở thành động lực thúc đẩy các doanh nghiệp kinh doanh tốt hơn nếu các doanh nghiệp thuộc về các thành phần kinh tế khác nhau với những lợi ích và tính toán khác nhau. - Cạnh tranh chỉ có thể tồn tại nếu nhƣ các chủ thể có quyền tự do hành xử trên thị trƣờng. Doanh nghiệp muốn chủ động tìm kiếm khả năng sinh tồn và phát triển trên thị trƣờng cần có sự tự do, sự độc lập và tự chủ. Mọi kế hoạch để sắp đặt các hành vi ứng xử, cho dù đƣợc thực hiện với mục đích gì đi nữa, đều hạn chế khả năng sáng tạo trong kinh doanh. Thứ hai, về mặt hình thức, cạnh tranh là sự ganh đua, sự kình địch giữa các doanh nghiệp. Mức lợi nhuận của mỗi nhà kinh doanh sẽ tỷ lệ thuận với năng lực của bản thân họ trong việc đáp ứng nhu cầu của khách hàng, ngƣời tiêu dùng trong xã hội, do đó các doanh nghiệp sẽ đua nhau lấy lòng khách hàng. Từng thủ đoạn đƣợc sử dụng để ganh đua đƣợc gọi là hành vi cạnh tranh của doanh nghiệp. Kết quả của cuộc cạnh tranh trên thị trƣờng làm cho ngƣời chiến thắng mở rộng đƣợc thị phần và tăng lợi nhuận, làm cho kẻ thua cuộc chịu mất khách hàng và phải rời khỏi thị trƣờng. Thứ ba, mục đích của các doanh nghiệp tham gia cạnh tranh là cùng tranh giành thị trƣờng mua hoặc bán sản phẩm. Trong kinh doanh, lợi nhuận là động lực cho sự gia nhập thị trƣờng, là thƣớc đo sự thành đạt và là mục đích hƣớng đến của các doanh nghiệp. Do đó, khi tham gia vào thị trƣờng, doanh nghiệp luôn ganh đua để có thể tranh giành các cơ hội tốt nhất nhằm mở rộng thị trƣờng. Trên thị trƣờng, cạnh tranh chỉ xảy ra giữa các doanh nghiệp có chung lợi ích tiềm năng về nguồn nguyên liệu đầu vào (cạnh tranh mua); hoặc về thị trƣờng đầu ra của sản phẩm (cạnh tranh bán) của quá trình sản xuất. Việc có chung khách hàng hoặc đối tác để tranh giành, có chung một nguồn lợi ích để hƣớng đến làm cho các doanh nghiệp có cùng mục đích và trở thành đối thủ cạnh tranh của nhau. 9
  17. 1.1.2. Khái niệm và đặc điểm của hành vi cạnh tranh không lành mạnh 1.1.2.1. Khái niệm hành vi cạnh tranh không lành mạnh Trƣớc hết, cạnh tranh không lành mạnh là một khái niệm bắt nguồn từ những quy định mang tính nguyên tắc trong pháp luật dân sự, theo đó, các chủ thể trong giao dịch (dân sự hay thƣơng mại) phải đảm bảo tôn trọng thuần phong, mỹ tục và đạo đức xã hội ở mỗi quốc gia. Với những quy định nhƣ vậy, giao dịch thƣơng mại trên thị trƣờng cũng phải đảm bảo tôn trọng những quy tắc trong xã hội về đạo đức kinh doanh. Sự phát triển đa dạng của các quan hệ thƣơng mại trong điều kiện tự do cạnh tranh ở các nền kinh tế theo cơ chế thị trƣờng đã kéo theo những hành vi cạnh tranh đa dạng, phức tạp nhằm giành đƣợc lợi thế nhất định cho mình, thậm chí gây thiệt hại cho đối thủ cạnh tranh khác, trong đó, có hành vi CTKLM. Hiện nay, có nhiều quan điểm khác nhau về hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Hiểu theo nghĩa rộng, hành vi CTKLM bao gồm tất cả hành vi xâm hại tới hoạt động cạnh tranh trên thị trƣờng, xâm hại tới quyền tự do cạnh tranh công bằng của các doanh nghiệp. Theo cách quan niệm này, lƣợng hành vi bị coi là hành vi CTKLM sẽ rộng lớn nhất bởi các hành vi hạn chế cạnh tranh cũng thuộc vào phạm trù “cạnh tranh không lành mạnh" [32]. Tuy nhiên, điều này sẽ tạo ra sự lẫn lộn trong cơ chế xử lý giữa hành vi hạn chế cạnh tranh và hành vi CTKLM, bởi lẽ, hai loại hành vi trên có những đặc điểm khác biệt về bản chất rất khó trộn lẫn với nhau. Công ƣớc Paris về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp quy định về “cạnh tranh không lành mạnh” (Điều 10bis – bổ sung vào Công ƣớc từ năm 1900), theo đó bất cứ hành vi nào trái với tập quán trung thực trong hoạt động thƣơng mại và công nghiệp đều bị coi là hành vi CTKLM [10, tr. 22]. Nhƣ vậy, quan niệm nhƣ trong Công ƣớc Paris có phần hẹp hơn, chủ yếu hƣớng tới 10
  18. các hành vi mang tính chất gian dối trong hoạt động thƣơng mại, không bao hàm một số hành vi thƣờng cũng đƣợc coi là các hành vi CTKLM trong pháp luật của nhiều quốc gia nhƣ hành vi gây rối hoạt động kinh doanh của đối thủ cạnh tranh, xâm phạm bí mật kinh doanh. Khoản 4 Điều 3 Luật Cạnh tranh năm 2004 đƣa ra khái niệm hành vi CTKLM nhƣ sau: “Hành vi CTKLM là hành vi cạnh tranh của doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh trái với các chuẩn mực thông thƣờng về đạo đức kinh doanh, gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nƣớc, quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác hoặc ngƣời tiêu dùng”. Theo đó, nguyên tắc để xác định một hành vi đƣợc coi là CTKLM cụ thể nhƣ sau: (i) Hành vi trái với chuẩn mực thông thƣờng về đạo đức kinh doanh, và (ii) Gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại tới lợi ích của Nhà nƣớc, quyền và lợi ích hợp pháp của các doanh nghiệp khác hoặc ngƣời tiêu dùng. Theo các quan niệm trên, khi đề cập đến hành vi CTKLM ngƣời ta thƣờng nhấn mạnh đến tính “không lành mạnh” của hành vi cạnh tranh, tức là những hành vi trái với các chuẩn mực trung thực và lành mạnh trong quan hệ thƣơng mại, mà hệ quả của những hành vi này có thể sẽ dẫn đến gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nƣớc, quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác hoặc ngƣời tiêu dùng, làm thay đổi tƣơng quan cạnh tranh trên thị trƣờng. Nhƣ vậy, các dấu hiệu để nhận biết hành vi CTKLM đó là: (i) Hành vi cạnh tranh giữa các doanh nghiệp nhằm tới những đối thủ cạnh tranh cụ thể, xác định đƣợc trên cùng một phân khúc thị trƣờng; (ii) Hành vi trái với các chuẩn mực thông thƣờng về đạo đức kinh doanh; và (iii) hành vi gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nƣớc, quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác hoặc ngƣời tiêu dùng. 11
  19. 1.1.2.2. Đặc điểm của hành vi cạnh tranh không lành mạnh Xuất phát từ khái niệm hành vi CTKLM nêu trên, có thể xác định một số đặc điểm cơ bản của hành vi CTKLM nhƣ sau: Thứ nhất, chủ thể thực hiện hành vi CTKLM là các chủ thể kinh doanh trong cùng một lĩnh vực nhất định trên thị trƣờng. Trên thị trƣờng cạnh tranh, mỗi hành vi kinh doanh của một doanh nghiệp cũng có thể là hành vi cạnh tranh trong tƣơng quan với các doanh nghiệp khác, do đó, mọi hoạt động của doanh nghiệp đều có thể bị xem xét về tính chính đáng, phù hợp với thông lệ hay đạo đức kinh doanh và pháp luật về CTKLM có thể can thiệp vào nhiều hoạt động khác nhau của đời sống kinh tế. Thứ hai, hành vi CTKLM phải nhằm mục đích cạnh tranh . Có thể thấy cạnh tranh là một vấn đề sống c ̣ òn của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trƣờng. Quy luật cạnh tranh cũng giống nhƣ những quy luật tồn tại và đào thải của tự nhiên, luôn khẳng định chiến thắng thuộc về kẻ mạnh. Do đó, để thu đƣợc nhiều lợi nhuận, các doanh nghiệp luôn phải cạnh tranh với nhau và đôi khi họ sử dụng cả những cách thức, phƣơng pháp mà pháp luật không cho phép, xâm phạm đến lợi ích của các đối thủ khác. Mục đích cạnh tranh là yếu tố bắt buộc để xác định một hành vi là cạnh tranh lành mạnh hay không lành mạnh. Nếu hành vi của doanh nghiệp, hiệp hội không nhằm mục đích cạnh tranh thì đó không phải là hành vi CTKLM. Thứ ba, hành vi CTKLM mang tính chất đối lập, đi ngƣợc lại các thông lệ kinh doanh tốt đẹp, các chuẩn mực thông thƣờng về đạo đức kinh doanh, có thể hiểu là những quy tắc xử sự chung đã đƣợc chấp nhận rộng rãi và lâu dài trong hoạt động kinh doanh trên thị trƣờng. Đặc điểm này phần nào thể hiện nguồn gốc tập quán pháp của pháp luật về CTKLM, các quy định về CTKLM đƣợc hình thành và hoàn thiện qua bề dày thực tiễn phát triển kinh tế xã hội, không thể một sớm một chiều mà có đƣợc. Mặt khác, đặc điểm này cũng đòi 12
  20. hỏi cơ quan xử lý về hành vi CTKLM phải có những hiểu biết và đánh giá sâu sắc về thực tiễn thị trƣờng để phán định một hành vi có đi ngƣợc lại những quy tắc xử sự chung trong kinh doanh tại một thời điểm nhất định hay không. Thứ tư, hành vi CTKLM có đối tƣợng xâm hại cụ thể là các đối thủ cạnh tranh, ngƣời tiêu dùng, lợi ích Nhà nƣớc hoặc các lợi ích xã hội khác. Bên cạnh đó, thiệt hại mà hành vi gây ra có thể là hiện thực (đã xảy ra) nhƣng cũng có thể chỉ là tiềm năng (có căn cứ để xác định rằng hậu quả chắc chắn sẽ xảy ra nếu không ngăn chặn hành vi). Do đó, một số hành vi CTKLM có cấu thành vật chất (thiệt hại là dấu hiệu bắt buộc) nhƣ gièm pha doanh nghiệp khác; một số hành vi có cấu thành hình thức (thiệt hại không là dấu hiệu bắt buộc mà có thể chỉ là sự suy đoán nếu hành vi tiếp tục đƣợc thực hiện), ví dụ hành vi quảng cáo không trung thực . Đặc điểm về hậu quả của hành vi giúp cho chúng ta phân biệt dƣới góc độ lý thuyết hành vi CTKLM và hành vi hạn chế cạnh tranh. Hành vi hạn chế cạnh tranh là những xử sự của doanh nghiệp hoặc nhóm doanh nghiệp có một vị thế nhất định, có khả năng chi phối, lũng đoạn thị trƣờng, tác động làm thay đổi một cách tiêu cực tình trạng cạnh tranh hoặc làm giảm tác dụng của cạnh tranh đối với thị trƣờng. Hành vi hạn chế cạnh tranh có thể gây thiệt hại cho một, một số đội tƣợng cụ thể, song nghiêm trọng hơn là làm cản trở, làm suy giảm hoặc sai lệch cạnh tranh [40, tr. 244]. Trong khi đó, hành vi CTKLM chỉ gây thiệt hại cho các tổ chức, cá nhân kinh doanh khác hoặc cho ngƣời tiêu dùng, xâm hại đến trật tự quản lý cạnh tranh của nhà nƣớc mà không cản trở, sai lệch hay làm giảm tình trạng cạnh tranh của thị trƣờng. Vì vậy, cách thức và mức độ xử lý đối với hai loại hành vi này khác nhau. Nhƣ vậy, để xác định một hành vi là hành vi CTKLM phải có đủ bốn đặc điểm trên. Nếu thiếu một trong bốn đặc điểm này thì hành vi đó không đƣợc coi là hành vi CTKLM và không chịu sự điều chỉnh của Luật Cạnh tranh 2004. 13
  21. 1.2. HÀNH VI CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI 1.2.1. Khái quát chung về hoạt động của ngân hàng thƣơng mại 1.2.1.1. Sơ lược về sự ra đời và phát triển các ngân hàng thương mại ở Việt Nam Theo Sắc lệnh số 15/SL của Chủ tịch nƣớc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngày 05/05/1951, Ngân hàng Quốc gia Việt Nam đƣợc ra đời. Giai đoạn từ năm 1951 đến năm 1987, ở Việt Nam đã tạo lập hệ thống ngân hàng một cấp, phù hợp với cơ chế quản lý kế hoạch hoá tập trung. Quá trình chuyển đổi của hệ thống các ngân hàng Việt Nam theo định hƣớng kinh tế thị trƣờng đƣợc chính thức ghi nhận kể từ thời điểm Chính phủ ban hành hai Pháp lệnh về ngân hàng vào tháng 5/1990. Trong đó, lần đầu tiên quy định hệ thống các ngân hàng Việt Nam đƣợc tổ chức làm hai cấp có chức năng, nhiệm vụ phân biệt rõ ràng: Ngân hàng Trung ƣơng là cơ quan phát hành tiền tệ và thực hiện chức năng quản lý nhà nƣớc về tiền tệ - tín dụng và các NHTM thực hiện chức năng kinh doanh, trung gian tài chính. Hệ thống ngân hàng hai cấp tiếp tục đƣợc quy định trong Luật Ngân hàng Nhà nƣớc và Luật các Tổ chức tín dụng 1997, tạo ra khung pháp lý cho quá trình phát triển lâu dài của hệ thống ngân hàng Việt Nam trong tiến trình đổi mới. Hệ thống ngân hàng Việt Nam đƣợc phân loại dựa trên tiêu chí cấu trúc vốn, bao gồm hai loại hình ngân hàng là ngân hàng trong nƣớc và ngân hàng có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài. Ngân hàng trong nƣớc bao gồm các NHTM nhà nƣớc, NHTM cổ phần. Ngân hàng có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài bao gồm ngân hàng liên doanh, ngân hàng nƣớc ngoài, chi nhánh ngân hàng nƣớc ngoài và các văn phòng đại diện của ngân hàng nƣớc ngoài tại Việt Nam. Theo thống kê về Hệ thống tổ chức tín dụng của Ngân hàng Nhà nƣớc Việt Nam trên website sbv.gov.vn [45], tính đến ngày 30/6/2015, ngoài hệ thống NHNN 14
  22. gồm Hội Sở chính và 63 chi nhánh ở 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ƣơng, còn có hệ thống TCTD gồm: 03 NHTM nhà nƣớc; 34 NHTM cổ phần; 02 ngân hàng chính sách; 01 ngân hàng hợp tác xã (trƣớc là Quỹ Tín dụng nhân dân Trung ƣơng); 17 công ty tài chính; 11 công ty cho thuê tài chính; 03 tổ chức tài chính vi mô; 04 ngân hàng liên doanh; 05 ngân hàng 100% vốn nƣớc ngoài; 49 chi nhánh ngân hàng nƣớc ngoài tại Việt Nam; 51 văn phòng đại diện của TCTD nƣớc ngoài tại Việt Nam. Với hệ thống các TCTD và NHTM nói trên, thị trƣờng tín dụng ở Việt Nam đang ngày càng sôi nổi và tính chất cạnh tranh ngày càng quyết liệt hơn bao giờ hết. Tại Luật các Tổ chức tín dụng 1997, lần đầu tiên hoạt động cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng đƣợc thể chế hóa, Điều 16 quy định về hợp tác và cạnh tranh trong hoạt động ngân hàng, theo đó các tổ chức hoạt động ngân hàng đƣợc hợp tác và cạnh tranh hợp pháp, nghiêm cấm các hành vi cạnh tranh bất hợp pháp, gây tổn hại đến việc thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, an toàn hệ thống các tổ chức tín dụng và lợi ích hợp pháp của các bên. Đến Luật các TCTD 2010 đã cụ thể hóa nhiều quy định của Luật Cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng nhằm bảo đảm tính phù hợp giữa luật chung và luật chuyên ngành, bảo đảm hoạt động kiểm soát, quản lý các hành vi cạnh tranh trên thị trƣờng một cách tốt nhất. 1.2.1.2. Khái niệm ngân hàng thương mại Ngân hàng là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế. Ngân hàng bao gồm nhiều loại tuỳ thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế nói chung và hệ thống tài chính nói riêng, trong đó, NHTM thƣờng chiếm tỷ trọng lớn nhất về quy mô tài sản, thị phần và số lƣợng các ngân hàng. Khoản 3 Điều 4 Luật các Tổ chức tín dụng 2010 đã định nghĩa: “Ngân hàng thƣơng mại là loại hình ngân hàng đƣợc thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác theo quy định của Luật này 15