Luận văn Các giải pháp hoàn thiện vấn đề công bố thông tin kế toán của các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Các giải pháp hoàn thiện vấn đề công bố thông tin kế toán của các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_cac_giai_phap_hoan_thien_van_de_cong_bo_thong_tin_k.pdf
Nội dung text: Luận văn Các giải pháp hoàn thiện vấn đề công bố thông tin kế toán của các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM K PHẠM ĐỨC TÂN CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VẤN ĐỀ CÔNG BỐ THÔNG TIN KẾ TOÁN CỦA CÁC DOANH NGHIỆP NIÊM YẾT TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM Chuyên ngành: Kế toán – Kiểm toán Mã số: 60.34.30 NGƯỜI HƯỚNG DẪN: PHẠM VĂN DƯỢC LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – 2009
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU CHƯƠNG 1 : TỔNG QUAN VỀ KẾ TOAN VÀ CÔNG BỐ THONG TIN KẾ TOAN TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN 1.1. Bản chất và vai trò của thông tin kế toán 1.1.1 Bản chất của kế toán 1.1.2 Vai trò của thông tin kế toán 1.2 Vấn đề công bố thông tin kế toán trên TTCK. 1.2.1 TTCK và cơ chế hoạt động của thị trường chứng khoán 1.2.2 Công ty niêm yết và thông tin công bố trên thị trường chứng khoán. 1.2.3 Ảnh hưởng của thông tin kế toán đối với các đối tượng sử dụng thông tin trên TTCK. 1.2.4 Các yêu cầu về chất lượng thông tin và CBTT. 1.3 Thông tin kế toán công bố trên TTCK ở một số quốc gia trên thế giới. 1.3.1 Hình thức công bố thông tin 1.3.2 Nội dung CBTT 1.3.3 Thời gian công bố thông tin 1.3.4. Bài học kinh nghiệm Việt Nam. Kết luận chương 1 CHƯƠNG 2 : THỰC TRẠNG CONG BỐ THONG TIN KẾ TOAN CỦA CAC DOANH NGHIỆP NIÊM YẾT TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOAN VIỆT NAM. 2.1 Lược sử thị trường chứng khoán và các công ty niêm yết của Việt Nam
- 2.1.1 Thị trường chứng khoán Việt Nam 2.1.2. Các Công ty niêm yết. 2.2 Thông tin kế toán công bố trên thị trường chứng khoán Việt Nam 2.2.1 Theo quyết định của các cơ quan chức năng 2.3 Đánh giá tình hình công bố thông tin trên thị trường chứng khoán 2.3.1 Khảo sát CHƯƠNG 3 : CÁC GIẢI PHAP HOÀN THIỆN VẤN ĐỀ CONG BỐ THONG TIN CỦA CONG TY NIÊM YẾT TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOAN VIỆT NAM. 3.1. Các quan điểm định hướng và hoàn thiện 3.1.1. Quan điểm 3.1.2. Định hướng 3.2 Các giải pháp hoàn thiện cụ thể 3.2.1 Giải pháp về nội dung thông tin công bố 3.2.3. Giải pháp về điều kiện và trách nhiệm công bố thông tin 3.2.4. Giải pháp đánh giá chất lượng thông tin công bố 3.2.5. Giải pháp xử l. các vi phạm – các biện pháp chế tài 3.2.6 Giải pháp đối với công tác kiểm toán Kết luận chương 3 Kết luận chung
- - 1 - MỞ ĐẦU Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài Kinh tế Việt Nam đã có những bước tiến vượt bậc, sau hơn hai mươi hai năm chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá sang nền kinh tế thị trường, nhất là trong khoảng hơn mười năm trở lại đây với mức tăng trưởng bình quân 7%, năm năm gần đây bình quân 7,5%, riêng năm 2007 là 8,5% (nguồn: gso.gov.vn), xu thế phát triển kinh tế ngày càng mạnh mẽ đã làm sức bật cho thị trường tài chính phát triển một cách nhanh chóng, nhằm mục đích đáp ứng nhu cầu về vốn phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh ngày càng tăng trong toàn nền kinh tế. Yêu cầu về vốn thúc đẩy thị trường vốn không ngừng phát triển, từ đó dẫn đến sự ra đời của TTCK là một tất yếu khách quan, khi mà các tổ chức tài chính trung gian đã có trước đây, không thể đảm nhận tốt vai trò cung ứng vốn cho nền kinh tế. Thi trường chứng khoán là một thị trường cao cấp, hoạt động của thị trường có những yêu cầu rất khác biệt so với các thị trường truyền thống như thị trường hàng hoá, dịch vụ, thị trường lao động , hàng hoá lưu thông, mua, bán trên thị trường là chứng khoán, đây là các công cụ chu chuyển vốn của nền kinh tế, những hoạt động kinh doanh trên TTCK dựa vào thông tin là chính, lấy niềm tin làm cơ sở cho sự tồn tại và phát triển của thị trường. Trong các loại thông tin được cung cấp trên thị trường thì TTKT được cung cấp đưới dạng các báo cáo tài chính quý, năm là những thông tin có vai trò quan trọng đặc biệt, nó có ảnh hưởng lớn đến mối quan hệ cung – cầu chứng khoán, là động lực cho quyết định mua vào, bán ra của nhà đầu tư trên thị trường sau khi phân tích các BCTC được công bố. Mặt khác đứng trên phương diện vĩ mô nền kinh tế, những TTKT của các DNNY cũng phần nào nói lên tình hình chung của toàn nền kinh tế, tình hình sức khoẻ tài chính quốc gia.
- - 2 - Chính vì những lý do trên, yêu cầu đầu tiên của thị trường là phải xây dựng được một hệ thống đánh giá chất lượng TTKT, một mạng lưới CBTT hiện đại và rộng khắp, nhằm ngoài việc thông tin công bố có chất lượng cao, nó còn phải được truyền đi nhanh chóng, kịp thời, cũng như phải làm sao cho các chủ thể hoạt động kinh doanh trên thị trường có quyền bình đẳng trong tiếp nhận thông tin. Tuy nhiên kể từ khi TTCK Việt Nam được thành lập cho đến nay, hiện tượng bất cân xứng trong tiếp nhận thông tin thường xuyên xảy ra, thực trạng thông tin là báo cáo tài chính thường niên cung cấp trên thị trường còn nhiều bất cập, cần phải được bổ khuyết cho phù hợp với xu thế phát triển chung của toàn nền kinh tế. Vì vậy, chúng tôi với việc nghiên cứu những mô hình công bố thông tin trên thị trường chứng khoán một số nước trên thế giới, kết hợp với điều tra, khảo sát, thống kê, phân tích thực trạng công bố thông tin kế toán trên TTCK Việt Nam, thông qua đề tài: “Các giải pháp hoàn thiện vấn đề công bố thông tin kế toán của các doanh nghiệp niêm yết trên Thị trường chứng khoán Việt Nam”. Với mong muốn đưa ra một số nhận xét đánh giá, đồng thời kiến nghị những giải pháp hoàn thiện vấn đề công bố thông tin kế toán, nhằm mục đích xây dựng môi trường kinh doanh lành mạnh, tăng cường tính minh bạch, trung thực, kịp thời, cũng như từng bước nâng cao chất lượng thông tin được công bố trên thị trường, xây dựng TTCK phát triển hiệu quả, công bằng, ổn định và bền vững. Mục tiêu tổng quát TTCK có thể phát triển ổn định và bền vững được hay không phần lớn tùy thuộc vào môi trường kinh doanh, chất lượng hàng hoá giao dịch trên thị trường, thông tin được cung cấp trên thị trường là yếu tố góp phần tăng thêm chất lượng, củng cố niềm tin của các chủ thể kinh doanh. Về phía Nhà nước nhằm thực hiện điều này, đã ban hành Luật Chứng khoán và các văn bản hướng dẫn thi hành vào
- - 3 - đầu năm 2007. Đối với TTCK Việt Nam, đây là lần đầu tiên có một hệ thống luật pháp hoàn chỉnh. Để có thể phần nào đó nhận định đúng thị trường, chúng tôi đã chọn ra ba năm 2006 – 2007 – 2008 để nghiên cứu, đánh giá, vì các lý do sau: - Năm 2006 là năm có mức tăng đột biến về số lượng cũng như giá trị cổ phiều các công ty đăng ký và niêm yết nhiều nhất trên TTCK kể từ ngày mới thành lập cho đến nay (SGDCK Tp HCM: năm 2005: 35 công ty; năm 2006: 106 công ty). - Năm 2007 là năm lần đầu tiên Quốc hội ban hành Luật Chứng khoán, Chính phủ và Bộ Tài chính ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành nhằm hoàn chỉnh hệ thống luật pháp về chứng khoán và thị trường chứng khoán. - Năm 2008 là năm thứ hai các báo cáo tài chính, nhất là báo cáo tài chính năm được thực hiện và công bố trong điều kiện có một hệ thống luật pháp hoàn chỉnh trên TTCK. - Một lý do quan trọng nữa là cũng trong những năm này, hiện tượng đầu tư tràn lan vào thị trường chứng khoán. Từ nửa cuối năm 2006 đến đầu năm 2007, có khoảng 10 tỷ Đô la Mỹ và 300 ngàn tỷ đồng của nhà đầu tư nước ngoài và các tổ chức cá nhân trong nước bơm vào TTCK và thị trường bất động sản1, ngay lập tức đã tạo ra giai đoạn thị trường bong bóng ( đầu năm 2006 VNIndex trong khoảng trên 300 điểm, đã tăng mạnh vào cuối năm 2006 và đầu năm 2007, đạt đỉnh vào ngày 12/3/2007: 1.170 điểm, và trở lại trong khoảng trên 300 điểm vào cuối năm 2008) , đây cũng là nguyên nhân gây nên tình hình lạm phát cao khiến Chính phủ phải sử dụng chính sách thắt chặt tiền tệ. - Mặt khác trong giai đoạn này cũng tồn tại nhiều bất cập trong điều hành vĩ mô TTCK, cùng với hiện tượng khai thác quá mức thị trường đã gây nên hậu quả không tốt, ảnh hưởng đến sự phát triển của TTCK. Vấn đề này chúng tôi xin được trình bày, phân tích kỹ trong các phần sau. Đây là những năm tập trung khá nhiều sự kiện và dữ liệu mang nhiều ý nghĩa đối với TTCK còn non trẻ của Việt Nam, qua đây chúng tôi muốn chia sẻ
- - 4 - quan điểm về việc xây dựng hệ thống công bố thông tin kế toán trên TTCK trên các mặt như: hình thức, nội dung, phương tiện , nhằm mục đích sao cho báo cáo tài chính cung cấp trên thị trường ngày càng trung thực, minh bạch và hợp lý hơn, góp phần tăng tăng cường chất lượng hàng hoá giao dịch trên thị trường, tạo lập niềm tin của nhà đầu tư vào TTCK Việt Nam. Mục tiêu cụ thể Thông qua nghiên cứu tổng quan về thông tin kế toán trên TTCK, xác định vai trò, bản chất của thông tin kế toán trên thị trường, mức độ quan trọng cũng như yêu cầu lâu dài, cần thiết phải củng cố hệ thống thông tin công bố trên thị trường, đồng thời có so sánh, đối chiếu với các TTCK trên thề giới để rút ra bài học kinh nghiệm nhằm xây dựng TTCK Việt Nam, vừa phù hợp với thực trạng nền kinh tế, vừa từng bước đến gần với thông lệ và chuẩn mực quốc tế. Bước tiếp theo là thông qua khảo sát và nghiên cứu ngay trên TTCK Việt Nam vào những năm nhạy cảm, từ đó đưa ra các đánh giá về thực trạng CBTT của các DNNY trên thị trường, nêu lên một số nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên, nhằm từng bước có biện pháp khắc phục và hoàn thiện. Sau cùng, căn cứ vào những đánh giá nói trên, luận văn cũng đưa ra những định hướng cho quy trình công bố thông tin trên thị trường, xác định giải pháp, những ý kiến kiến nghị đối với các chủ thể hoạt động trên thị trường với mục đích sao cho thông tin kế toán công bố trên thị trường ngày càng trung thực, hợp lý, chính xác, kip thời và minh bạch. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu Do hạn chế về thời gian, khả năng nghiên cứu và các lý do bất khả kháng khác, trong luận văn chỉ đề cập đến báo cáo tài chính của các công ty niêm yết trên TTCK, và cũng chỉ dùng tư liệu là báo cáo tài chính thường niên của các doanh nghiệp niêm yết trên SGDCK TpHCM (HOSE) trong ba năm : 2006 – 2007 –
- - 5 - 2008, kết hợp với phần khảo sát, thống kê thực tế, để phân tích, đánh giá đưa ra định hướng và kiến nghị các giải pháp nhằm hoàn thiện việc CBTT trên TTCK mà thôi. Phương pháp nghiên cứu Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu như chọn mẫu nghiên cứu, điều tra, khảo sát, thống kê mô tả, phân tích và các dữ liệu quá khứ đã tập hợp được thông qua các biểu đồ, hình ảnh, các chỉ số phân tích , kết hợp so sánh, đối chiếu với hệ thống luật pháp và các văn bản hướng dẫn thi hành có liên quan đến các lĩnh vực mà đề tài nghiên cứu, từ đó đánh giá tình hình thực tế, đưa ra một số giải pháp kiến nghị đối với các chủ thể có liên quan trên cơ sở tuân thủ các nguyên tắc khoa học và đảm bảo tính khách quan trong các giải pháp trình bày. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mục lục, mở đầu, và phụ lục, đề tài được chia làm ba phần chính Chương 1 Tổng quan về kế toán và công bố thông tin trên Thị trường Chứng khoán Kết luận chương 1 Chương 2 Thực trạng công bố thông tin kế toán của các doanh nghiệp niêm yết trên Thị trường Chứng khoán Việt Nam. Kết luận chương 2 Chương 3 Các giải pháp hoàn thiện vấn đề công bố thông tin của công ty niêm yết trên Thị trường Chứng khoán Việt Nam. Kết luận chương 3 Kết luận chung
- - 6 - CHƯƠNG 1 : TỔNG QUAN VỀ KẾ TOÁN VÀ CÔNG BỐ THÔNG TIN KẾ TOÁN TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN. 1.1. Bản chất và vai trò của thông tin kế toán. 1.1.1 Bản chất của kế toán. Lịch sử loài người đã trải qua nhiều giai đoạn, sự phát triển xã hội của các cộng đồng cư dân gắn liền với sự phát triển kinh tế. Nhiều di chỉ khảo cổ đã chỉ ra rằng nền văn minh mà xã hội loài người hiện nay có được, phần lớn là nhờ vào những kiến thức, tư liệu lịch sử để lại là các tài liệu được ghi chép dưới dạng văn tự cổ xưa, trong đó các nhà khảo cổ đã tìm thấy những tài liệu có liên quan đến kinh tế, cổ vật đã được tìm thấy đầu tiên là các bản khắc axít bằng đất nung cách đây hơn 3.300 năm trước công nguyên, hồ sơ ghi chép bằng chữ tượng hình các khoản thuế của người Ai Cập cổ đại 2. Công việc ghi chép lại các sự kiện có liên quan đến các hoạt động kinh tế trong xã hội luôn là những vấn đề thực tiễn được con người quan tâm hàng đầu, trong suốt con đường hoạt động cho mục đích tồn tại và phát triển của cộng đồng người, trước khi nó chính thức trở thành một môn khoa học với một hệ thống các lý thuyết, giải thích dựa trên những cơ sở khoa học có sự hỗ trợ của các môn học khác như toán học, triết học, logic học , và có tên gọi là hạch toán kế toán như bây giờ. Tuy nhiên, công việc ghi chép cũng có tính chất vận động riêng của nó, ở giai đoạn đầu việc ghi chép chỉ mang tính chất phản ảnh, sao chép, ghi lại các sự kiện hiện thực trong đời sống kinh tế, chỉ từ khi con người phát minh ra chữ viết và số, cùng với sự ra đời của toán học dựa trên các chữ số và ký hiệu đã đem lại cho công việc ghi chép các sự kiện kinh tế giá trị thực sự của nó, hạch toán kế toán và thông tin kinh tế ngày càng có vị trí quan trọng và không thể thiếu trong quá trình hoạt động kinh tế của con người nhất là vào giai đoạn hiện nay.
- - 7 - Với mục đích đạt được hiệu quả kinh tế cao trong các hoạt động kinh tế, thông tin kế toán phải được cung cấp kịp thời, chính xác, và trên tất cả mọi mặt. Trong bối cảnh kinh tế xã hội ngày nay, các hoạt động kinh tế rất đa dạng, có nhiều lĩnh vực khác nhau, nhưng dù ở trong lĩnh vực nào đi nữa thì thông tin kế toán luôn mang tính chất quan trọng và không thể thiếu, qua đó cho phép chúng ta hiểu rõ về các hoạt động kinh tế mà mình đang thực hiện, cũng như hiệu quả của các công việc này là như thế nào. Hạch toán kế toán chính là công việc ghi chép các diễn biến trong hoạt động kinh tế dựa trên quan sát, đo lường, tính toán và ghi lại những sự việc trên. Trong các hoạt động kinh tế diễn ra hàng ngày thường mang tính chu kỳ, đầu chu kỳ là quá trình đầu tư bằng nhiều phương tiện khác nhau như vốn bằng tiền, nguyên vật liệu, sức lao động của con người , cuối chu kỳ là quá trình thu hoạch, tổng kết tính toán hiệu quả hoạt động kinh tế, xem xét để ra quyết định tiếp tục một chu kỳ tái sản xuất mới, đây chính là các đối tượng mà trong quá trình quan sát phải ghi nhận lại, và khi ghi nhận phải tuân thủ nguyên tắc về đo lường, mỗi đối tượng phải được đo lường với đơn vị đo lường phù hợp. Các giai đoạn trên phải được ghi chép vào sổ sách theo quy định, đồng thời dùng các phép tính, để tính toán, quy đổi, tổng hợp các số liệu này đưa vào các biểu mẫu nhằm cung cấp thông tin cho các đối tượng có liên quan. Công tác hạch toán được thực hiện dưới nhiều dạng khác nhau, tùy theo yêu cầu cụ thể của từng lĩnh vực kinh tế nhất định, nhìn chung công tác hạch toán có các dạng sau: - Hạch toán nghiệp vụ là dạng ghi chép trong từng công đoạn của quá trình sản xuất kinh doanh việc ghi chép chỉ mang tính ghi nhận, tính toán, tổng hợp từng phần không mang tính chất tổng hợp do đó các chỉ tiêu sử dụng ít, thông tin đơn giản, chủ yếu dùng để làm số liệu tổng hợp mà thôi.
- - 8 - - Hạch toán thống kê là dạng hạch toán cung cấp những thông tin tổng hợp có sử dụng nhiều đơn vị đo lường, nhiều chỉ tiêu tổng hợp cũng như nhiều phương pháp, kỹ thuật tính toán phức tạp, số liệu đi kèm với thời gian, khu vực nhất định, vì thế thông qua số liệu thống kê người ta có thể rút ra các quy luật vận động, xu thế phát triển của sự vật hiện tượng. - Hạch toán kế toán là việc phản ảnh một cách thường xuyên, tổng hợp, liên tục và có hệ thống các sự kiện kinh tế phát sinh trong một đơn vị kinh tế cần xem xét, theo dõi. Việc phản ảnh các sự kiện kinh tế này thông qua các thước đo là tiền, hiên vật và thời gian lao động. “Kế toán là việc thu thập, xử lý, kiểm tra, phân tích và cung cấp thông tin kinh tế, tài chính dưới hình thức giá trị, hiện vật và thời gian lao động” 3. Mục đích của kế toán là cung cấp thông tin, thông tin được cung cấp cho nhiều đối tượng khác nhau, và với các yêu cầu khác nhau, vì thế kế toán được chia thành hai phân hệ: kế toán tài chính và kế toán quản trị. Kế toán tài chính cung cấp những thông tin tổng hợp tình hình dịch chuyển các nguồn lực tài chính trong, kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, các hoạt động khác trong doanh nghiệp , nhằm cung cấp thông tin cho các đối tượng bên trong và bên ngoài, chủ yếu là các đối tượng ngoài doanh nghiệp. Thông tin của kế toán tài chính là những thông tin quá khứ (đã xảy ra rồi), được ghi chép lại vì vậy đòi hỏi phải chính xác, độ tin cậy cao, mặt khác việc quan trọng nhất của báo cáo tài chính là nó mang tính quyết định cuối cùng. “Kế toán tài chính là việc thu thập, xử lý, kiểm tra, phân tích và cung cấp thông tin kinh tế, tài chính bằng báo cáo tài chính cho đối tượng có nhu cầu sử dụng thông tin của đơn vị kế toán” 4 . Kế toán quản trị cũng cung cấp những thông tin kế toán có liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh như chi phí, thu nhập, của từng bộ phận, sản phẩm cụ thể
- - 9 - cũng như của từng khâu, từng loại sản phẩm, các thông tin này nhằm mục đích phục vụ nhu cầu quản trị ở các cấp độ khác nhau trong nội bộ doanh nghiệp. Đặc điểm của kế toán quản trị là những thông tin nó cung cấp mang tính định hướng tương lai (sự kiện sắp xảy ra), nhờ vào thông tin của kế toán quản trị, các nhà quản lý thực hiện chức năng quản trị của mình như: hoạch định, kiểm soát và ra quyết định, vì vậy hình thức công bố thông tin rất đa dạng và tùy theo thông tin cung cấp mà sử dụng các thước đo khác nhau cho phù hợp. “Kế toán quản trị là việc thu thập, xử lý, kiểm tra, phân tích và cung cấp thông tin kinh tế, tài chính theo yêu cầu quản trị và quyết định kinh tế tài chính trong nội bộ đơn vị kế toán”5. Kế toán tài chính và kế toán quản trị có mối liên quan mật thiết với nhau, trong quá trình cung cấp thông tin hai loại kế toán này tạo thành sự liên kết nhất quán, phản ảnh liên tục những sự kiện đã, đang và sẽ xảy ra trong suốt quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. 1.1.2 Vai trò của thông tin kế toán. Giai đoạn hiện nay, TTKT ngày càng trở nên quan trọng, khi mà toàn cầu hoá kinh tế phát huy tác dụng của nó, từ những thay đổi mô hình kinh tế thị trường theo hướng mở, thay đổi mô hình doanh nghiệp, thay đổi trong những mối quan hệ của các công ty mẹ, con, công ty xuyên quốc gia , sự quan tâm của chính quyền về hoạt động kinh tế trong và ngoài nước cho mục đích điều hành, yêu cầu có được thông tin hoạt động sản xuất kinh doanh trong DN của các nhà đầu tư, nhà tài trợ, Hội đồng quản trị, cổ đông góp vốn , thông tin tài chính của doanh nghiệp phải được cung cấp đầy đủ, nhanh chóng, kịp thời, chính xác và trung thực. Những vấn đề thông tin kế toán cung cấp trước hết giúp cho các nhà quản trị doanh nghiệp nắm được toàn bộ quá trình hoạt động kinh doanh, quá trình chuyển dịch nguồn lực tài chính của doanh nghiệp, các đối tượng ở bên ngoài doanh nghiệp cũng từ những thông tin được cung cấp này ra những quyết định liên quan đến thị
- - 10 - trường hàng hoá, thị trường tài chính – tiền tệ, quyết định điều tiết, hoạch định chính sách vĩ mô của các cơ quan quản lý. Mặt khác thông tin kế toán đó là các báo cáo tài chính thường kỳ, còn phản ảnh thực trạng tài chính của doanh nghiệp, từ các báo cáo này nhà quản lý có thể đánh giá một cách đúng đắn và toàn diện hoạt động kinh doanh mà mình đang quản lý, hiệu quả thực tế trong công tác điều hành, khả năng hoàn thành các mục tiêu đã đề ra và quan trọng hơn cả là từ các thông tin này giúp cho hoạt động sản xuất kinh doanh ngày càng mang lại hiệu quả cao hơn. 1.2 Vấn đề công bố thông tin kế toán trên TTCK. Các nước có TTCK trên thế giới, nhìn chung đều yêu cầu các công ty niêm yết trên thị trường phải công bố TTKT theo quy định của các tổ chức quản lý, điều hành thị trường. Công bố BCTC thường kỳ trên thị trường chứng khoán là cung cấp thông tin tài chính của các doanh nghiệp niêm yết về: tình hình tài sản, nguồn vốn, kết quả sản xuất kinh doanh, mức cổ tức được chia , sở dĩ vấn đề công bố TTKT được đặt ra vì các lý do sau: - Nhằm mục đích công khai, minh bạch hoá tình hình tài chính của doanh nghiệp niêm yết, phục vụ yêu cầu của tất cả cổ đông trong công ty, cũng như các chủ thể khác có nhu cầu. - Thị trường chứng khoán là nơi tập trung phần lớn nguồn vốn đầu tư cho toàn bộ nền kinh tế, hàng hoá của thị trường này chủ yếu là cổ phiếu của các công ty niêm yết, chất lượng của hàng hoá chính là hiệu quả kinh tế hiện tại, giá trị ước tính trong tương lai của doanh nghiệp, và chỉ BCTC mới có thể cung cấp cho nhà đầu tư tình hình tài chính theo yêu cầu, và cơ sở dữ liệu này được dùng để nhà đầu tư phân tích tài chính doanh nghiệp, đồng thời ra quyết định đầu tư. - Trên TTCK công việc kinh doanh chủ yếu dựa vào các thông tin được cung cấp trên thị trường, vì thế yêu cầu của thị trường là thông tin phải được cung cấp
- - 11 - nhanh chóng, kịp thời, chính xác và nhất là phải đến được với tất cả các đối tượng tham gia thị trường là như nhau. - Thông tin trên thị trường là một trong những yếu tố để nhà đầu tư ra quyết định đầu tư, như thế nó chính là một trong những yếu tố tạo ra cung, cầu hàng hoá trên thị trường, đây cũng là yếu tố cơ bản để thị trường tồn tại, hoạt động hiệu quả và phát triển bền vững. - Mặt khác các công ty niêm yết trên TTCK hầu hết là những công ty hàng đầu trong các lĩnh vực, ngành nghề kinh doanh trong nền kinh tế, chất lượng công ty tốt hơn về nhiều mặt so với các công ty chưa đủ điều kiện niêm yết, chính vì vậy, các cơ quan quản lý, điều hành vĩ mô, các tổ chức thống kê , có thể thông qua các số liệu này để đánh giá tình hình kinh tế chung trong toàn quốc. Như vậy vấn đề CBTT trên TTCK mang tính chất quan trọng sống còn của thị trường, thông tin được công bố một cách chính xác, minh bạch, kip thời tạo ra niềm tin, sự an tâm cho các nhà đầu tư, tạo ra động lực kích thích cung, cầu hàng hoá trên thị trường. Trong các loại thông tin được công bố trên thị trường, thông tin kế toán có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả hoạt động và sự phát triển bền vững của thị trường. 1.2.1 TTCK và cơ chế hoạt động của thị trường chứng khoán. 1.2.1.1 Thị trường chứng khoán (Securities Market) Thị trường tài chính (Financial Market) bao gồm thị trường vốn (Capital Market) và thị trường tiền tệ (Currency Market), TTCK là bộ phận chính của thị trường vốn. Thị trường tài chính được hình thành, tồn tại và phát triển là một tất yếu khách quan của nền kinh tế thị trường, nó được sinh ra để giải quyết các mâu thuẫn cơ bản giữa khả năng và nhu cẩu cung ứng vốn phục vụ những hoạt động kinh tế của thị trường. Trong quá trình phát triển của nền KTTT, nhu cầu về vốn cung ứng cho nền kinh tế ngày càng cao, tốc độ giao dịch trong sản xuất, thương mại ngày càng phát
- - 12 - triển, vòng quay vốn trong lưu thông hàng hoá tăng lên cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, song song với tình hình phát triển tài chính – tiền tệ, các công cụ tài chính trên thị trường tiền tệ và thị trường vốn cũng nhanh chóng phát triển, từ đó nảy sinh các quan hệ mua, bán các loại công cụ tài chính này, đặc biệt là các loại chứng khoán được luật pháp cho phép lưu thông, mua bán trên thị trường. Chính sự phát triển của nền kinh tế thị trường đã hình thành nên thị trường tài chính là nơi diễn ra các hoạt động mua, bán các chứng khoán (bao gồm cả hai loại ngắn và dài hạn), với mục đích giải quyết các nhu cầu về vốn đầu tư. Mặt khác sự thay đổi về mô hình hoạt động của doanh nghiệp, dưới hình thức vốn tự có của công ty được chia thành nhiều cổ phần có mệnh giá bằng nhau và được gọi là công ty cổ phần, quan trọng hơn cả là việc luật pháp cho phép mua bán các loại cổ phần trong công ty cổ phần, đi đôi với việc phát hành cổ phiếu huy động vốn trong công chúng để phục vụ cho mục đích tái sản xuất mở rộng của doanh nghiệp. Sự phát triển lớn mạnh của thị trường tài chính, cùng với yêu cầu thực hiện cơ chế chuyển vốn trực tiếp từ nhà đầu tư sang tổ chức phát hành mà không thông qua định chế trung gian nào, hay nói khác đi đó là đáp ứng yêu cầu chu chuyển vốn đầu tư có chi phí thấp, yêu cầu này đã hình thành nên một loại thị trường cao cấp đó là TTCK, việc mua bán các công cụ tài chính trung và dài hạn là chứng khoán vốn và chứng khoán nợ, được diễn ra tập trung tại TTCK, trên hệ thống giao dịch điện tử của Sở giao dịch chứng khoán và các hệ thống giao dịch không tập trung khác có liên thông với nhau, nhằm mục đích kết nối giữa tổ chức phát hành và các nhà đầu tư, mục đích đáp ứng nhu cầu mua, bán chứng khoán của các đối tượng nói trên. Thị trường chứng khoán là nơi huy động vốn đầu tư cho nên kinh tế, đây là kênh huy động mà cùng một lúc có thể thoả mãn yêu cầu của nhiều chủ thể tham gia thị trường, cũng như nó có thể đáp ứng tiến độ phát triển theo kịp với xu thế
- - 13 - phát triển chung của nền kinh tế sản xuất hàng hoá mà đỉnh cao là nền kinh tế thị trường. Thị trường chứng khoán có hai thị trường chính: thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp. 1.2.1.1.1 Thị trường sơ cấp (Primary Market) Thị trường sơ cấp là nơi phân phối lần đầu các chứng khoán của tổ chức phát hành, việc mua bán được diễn ra theo nhiều hình thức: phát hành không thông qua đấu giá và phát hành thông qua đấu giá, chính trong quá trình đấu giá đã hình thành nhiều loại giá khác nhau của chứng khoán phát hành, nhưng đa phần chứng khoán phát hành trên thị trường sơ cấp bán theo mệnh giá. Phát hành được chia ra làm hai loại: Phát hành ra công chúng lần đầu (Inititial Public Offering - IPO) và phát hành tăng vốn điều lệ. Các cơ quan quản lý, điều hành TTCK các nước thường có quy định cụ thể đối với các tổ chức phát hành chứng khoán ra thị trường, gồm: - Tổ chức phát hành phải đáp ứng quy mô về vốn điều lệ tối thiểu, cơ cấu cổ đông ngoài công ty, tổng giá trị và số lượng cổ phiếu phát hành và số lượng nhà đầu tư tham gia mua. - Có báo cáo tài chính theo đúng quy định về phát hành chứng khoán. - Hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty phải có lãi, không thấp hơn mức quy định và trong một số năm nhất định. - Mục đích của đợt phát hành, kế hoạch sử dụng vốn. - Thông tin về các nhà quản lý cấp cao của doanh nghiệp. - Tỷ lệ nắm giữ của các cổ đông lớn (theo quy định riêng). - Các hình thức bảo lãnh (nếu có). - Các yêu cầu khác
- - 14 - Đặc trưng của thị trường sơ cấp đó là kênh đầu tư giai đoạn một của các nhà đầu tư trong và ngoài nước, nguồn vốn giao dịch tại đây sẽ cung ứng trực tiếp cho những hoạt động sản xuất, kinh doanh của các tổ chức phát hành. 1.2.1.1.2 Thị trường thứ cấp (Secondary Market) Thị trường thứ cấp là nơi giao dịch các loại chứng khoán đã qua giao dịch lần đầu trên thị trường sơ cấp, và đây chính là hàng hoá của thị trường. trên thị trường thứ cấp, hoạt động mua đi bán lại diễn ra giữa các chủ thể tham gia thị trường mà không làm tăng thêm quy mô về vốn đầu tư, không tạo ra nguồn tài chính mới cho các tổ chức phát hành, các khoản thu được từ việc bán chứng khoán thuộc về các nhà đầu tư và các nhà kinh doanh chứng khoán, tuy nhiên giữa hai thị trường này luôn có sự gắn kết chặt chẽ với nhau. Việc mua bán trên thị trường thứ cấp dựa vào: - Quan hệ cung cầu trên thị trường. - Các giá trị của doanh nghiệp niêm yết trên thị trường như: giá trị hiện tại, giá trị tương lai, xu thế phát triển - Tâm lý của nhà đầu tư. - Các thông tin có liên quan đến tình hình kinh tế - tài chính quốc gia, thế giới và tình hình hoạt động của các DNNY. Thị trường sơ cấp là cơ sở, nơi cung cấp hàng hoá cho thị trường thứ cấp, thị trường sơ cấp là tiền đề hình thành thị trường thứ cấp, nếu không có thị trường sơ cấp cũng sẽ không có thị trường thứ cấp. Nhưng một khi thị trường thứ cấp hoạt động ổn định có hiệu quả và bền vững, đó chính là nguồn động lực thúc đẩy thị trường sơ cấp phát triển và điều này là yếu tố quyết định, giúp cho các tổ chức phát hành chứng khoán thành công, nhằm đạt được mục đích huy động vốn phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh. Mặt khác hoạt động của thị trường thứ cấp cũng thoả mãn nhanh chóng nhu cầu chuyển dịch vốn đầu tư giữa các nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán.
- - 15 - Thị trường chứng khoán ra đời nhắm đến mục tiêu cung cấp dịch vụ chu chuyển vốn với chi phí thấp, lưu động hoá lĩnh vực đầu tư, làm cho chứng khoán có tính thanh khoản cao, đồng thời đáp ứng nhu cầu về vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh trong toàn nền kinh tế. Hoạt động mua bán trên TTCK được chia thành: Thị trường tập trung và thị trường phi tập trung. Thị trường tập trung được thực hiện qua Sở giao dịch chứng khoán, thông qua hệ thống bảng giao dịch điện tử, tại đây chứng khoán được niêm yết các thông tin có liên quan đến việc mua, bán chứng khoán như: giá, khối lượng, tình hình giao dịch của nhà đầu tư , việc giao dịch của các nhà đầu tư được thực hiện thông qua các công ty chứng khoán là thành viên của Sở giao dịch, các lệnh mua bán được truyền về hệ thống xử lý trung tâm, sau đó dữ liệu khớp lệnh sẽ được chuyển trả trở lại các công ty chứng khoán nơi nhà đầu tư đặt lệnh, để hoàn tất thủ tục giao dịch cho nhà đầu tư. Cũng cần nói rõ thêm, Sở giao dịch chứng khoán không phải là tổ chức sở hữu chứng khoán, đây chỉ là nơi giao dịch, và tạo điều kiện cho việc giao dịch được thuận lợi, công bằng, minh bạch và đúng pháp luật cho các chứng khoán của các tổ chức đủ điều kiện niêm yết tại Sở giao dịch. Thị trường phi tập trung (Over The Counter Market – Thị trường OTC). Bên cạnh thị trường giao dịch tập trung, thị trường chứng khoán còn có thị trường giao dịch phi tập trung, tại đây dành cho những công ty chưa đủ điều kiện giao dịch tại Sở giao dịch, việc giao dịch chủ yếu thông qua yết giá và thương lượng trực tiếp giữa người mua và người bán về các chứng khoán mà họ sở hữu, điều kiện giao dịch trên thị trường này tương đối đơn giản, chỉ cần không vi phạm luật pháp trong quan hệ mua bán. Ngoài hai thị trường chính thức này, trong các quốc gia có TTCK luôn tồn tại một thị trường thứ ba, đó là các hoạt động giao dịch, mua bán các loại chứng khoán
- - 16 - theo những hợp đồng miệng hoặc trao tay, các hoạt động mua bán này căn cứ vào sự tín nhiệm lẫn nhau của các nhà đầu tư. Để quản lý thị trường OTC, ở một số nước thành lập Hiệp hội kinh doanh chứng khoán quốc gia, Hiệp hội này ban hành quy chế thị trường, kết nạp và khai trừ thành viên, giám sát việc thực hiện quy chế của các chủ thể tham gia thị trường. 1.2.1.2 Cơ chế hoạt động của thị trường chứng khoán 1.2.1.2.1 Điều hành và giám sát thị trường Thông lệ chung trên thế giới, điều hành, giám sát TTCK là các cơ quan quản lý của Chính phủ, chịu trách nhiệm chính là Ủy ban Chứng khoán (Commission of Securities Market), đây là cơ quan chức năng chuyên ngành của Nhà nước trong lĩnh vực chứng khoán, chỉ thực hiện công việc quản lý chung chứ không trực tiếp điều hành, giám sát thị trường. Ủy ban chứng khoán có thẩm quyền ban hành các quy định điều chỉnh hoạt động trên thị trường, làm nền tảng cho các tổ chức tự quản thực hiện chức năng điều hành và giám sát thị trường của mình. Ngoài ra Ủy ban chứng khoán kiểm soát mọi hoạt động phát hành chứng khoán của các công ty niêm yết nói riêng và các công ty công chúng (Public Company) nói chung. Quản lý trực tiếp các tổ chức tự quản, giám sát, thanh tra cũng như xử lý các tổ chức, cá nhân tham gia thị trường để bảo vệ lợi ích chung, trong trường hợp có hiện tượng vi phạm pháp luật. Trực tiếp điều hành và giám sát thị trường chứng khoán gồm có hai tổ chức chính: Sở giao dịch chứng khoán và Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán. Sở giao dịch chứng khoán: Là một tổ chức tự quản bao gồm các công ty chứng khoán thành viên. SGDCK thực hiện các chức năng: