Luận văn Các giai đoạn thực hiện tội phạm theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Đà Nẵng

pdf 88 trang vuhoa 23/08/2022 6620
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Các giai đoạn thực hiện tội phạm theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Đà Nẵng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_cac_giai_doan_thuc_hien_toi_pham_theo_phap_luat_hin.pdf

Nội dung text: Luận văn Các giai đoạn thực hiện tội phạm theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Đà Nẵng

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI PHẠM MINH THÔNG CÁC GIAI ĐOẠN THỰC HIỆN TỘI PHẠM THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI, năm 2017
  2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI PHẠM MINH THÔNG CÁC GIAI ĐOẠN THỰC HIỆN TỘI PHẠM THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự Mã số: 60.38.01.04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC PGS. TS. PHẠM VĂN TỈNH HÀ NỘI, năm 2017
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu được trích dẫn theo nguồn đã công bố. Kết quả nêu trong luận văn này là trung thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Tác giả luận văn Phạm Minh Thông
  4. MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ CÁC GIAI ĐOẠN THỰC HIỆN TỘI PHẠM THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 7 1.1. Khái niệm và ý nghĩa của các giai đoạn thực hiện tội phạm theo pháp luật hình sự Việt Nam 7 1.2. Quy định của pháp luật về các giai đoạn thực hiện tội phạm 23 CHƢƠNG 2. THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ CÁC GIAI ĐOẠN THỰC HIỆN TỘI PHẠM TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG 38 2.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật đối với các giai đoạn thực hiện tội phạm trên địa bàn thành phố Đà Nẵng 39 2.2. Những kết quả đạt được từ thực tiễn 53 2.3. Những khó khăn, hạn chế, bất cập và nguyên nhân 57 CHƢƠNG 3. CÁC BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM XÁC ĐỊNH VÀ XỬ LÝ ĐÚNG TỪNG GIAI ĐOẠN THỰC HIỆN TỘI PHẠM 60 3.1. Hoàn thiện pháp luật hình sự liên quan đến các giai đoạn thực hiện tội phạm 60 3.2. Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật đối với các giai đoạn thực hiện tội phạm trên địa bàn thành phố Đà Nẵng 70 KẾT LUẬN 76 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
  5. DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu Tên bảng Trang bảng So sánh tỷ lệ bản án của tội phạm chưa hoàn thành so với tội phạm đã hoàn thành thông qua nghiên cứu 100 2.1. 38 bản án trên địa bàn thành phố Đà Nẵng từ năm 2011 đến năm 2015 So sánh tỷ lệ các tội phạm cụ thể trong 08 bản án hình 2.2. 39 sự về tội phạm chưa hoàn thành Tỷ lệ giai đoạn chuẩn bị phạm tội trong 08 bản án hình 2.3. 40 sự về tội phạm chưa hoàn thành So sánh tỷ lệ giai đoạn chuẩn bị phạm tội so với giai 2.4. đoạn phạm tội chưa đạt trong 08 bản án hình sự về tội 41 phạm chưa hoàn thành
  6. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Tội phạm, được hiểu theo nghĩa khái quát nhất là hành vi nguy hiểm cho xã hội, có lỗi, trái pháp luật hình sự và phải chịu hình phạt. Sự xuất hiện của tội phạm diễn ra cùng với sự chuyển đổi xã hội từ trạng thái tự nhiên sang trạng thái chính trị, tức là trạng thái xã hội có Nhà nước và pháp luật. Để bảo đảm cho xã hội không bị phá tan vì các xung đột, Nhà nước đã quy định những hành vi nguy hiểm cho xã hội nào là tội phạm và áp dụng trách nhiệm hình sự đối với người nào thực hiện các hành vi đó. Như vậy, từ lịch sử đến hiện tại, việc quy định tội phạm và hình phạt luôn luôn là phương thức đấu tranh chống tội phạm và nó đã chứng tỏ là một trong những phương thức bảo vệ quyền con người, giữ cho xã hội ổn định và phát triển. Vì thế, nó phải được duy trì và phát huy hiệu quả, bằng cách nhận thức ngày càng tốt hơn, đầy đủ hơn về tội phạm và hình phạt. Đây chính là nhu cầu nghiên cứu tự thân, tức là do chính sự vận động và biến đổi không ngừng của bản thân tội phạm trên thực tế, do tính phức tạp và đa dạng của bản thân tội phạm, làm phát sinh nhu cầu nghiên cứu những quy định về tội phạm và hình phạt một cách thường xuyên và dưới nhiều góc độ, trong đó có cả phương thức thực hiện tội phạm, còn gọi là các giai đoạn thực hiện tội phạm, cái mà đề tài luận văn này muốn đề cập. Mặt khác, do văn minh xã hội ngày càng cao, các quyền con người phải được thực hiện ngày càng tốt hơn, đầy đủ hơn, nên nguyên tắc công bằng càng phải được chú trọng trong việc quy định về tội phạm và hình phạt. Do vậy, việc nghiên cứu các giai đoạn thực hiện tội phạm có giá trị thiết thực, đặc biệt trong điều kiện hiện nay ở nước ta, khi mà công cuộc cải cách trên các lĩnh vực, trong đó có cải cách tư pháp hình sự, đã đạt được những thành quả 1
  7. nhất định. Xét trên phương diện thực tế, tức là qua thực tiễn xét xử tại thành phố Đà Nẵng lại cho thấy, việc áp dụng pháp luật hình sự trong việc xác định trách nhiệm hình sự và quyết định hình phạt đối với người phạm tội tại các giai đoạn phạm tội là không thống nhất, còn nhiều bất cập, cần phải làm rõ. Bản thân giai đoạn thực hiện tội phạm cũng chứa đựng nhiều ý nghĩa, vừa thể hiện mức độ thực hiện ý định phạm tội vừa liên quan trực tiếp đến trách nhiệm hình sự của người phạm tội. Với cách nhìn nhận như vậy và cũng là để góp phần thực hiện mục tiêu của Đảng bộ và nhân dân thành phố Đà Nẵng đã đề ra trong kế hoạch đấu tranh phòng, chống tội phạm, trong đó, đấu tranh chống tội phạm bằng pháp luật hình sự luôn luôn giữ vai trò quan trọng. Vì thế, đề tài “Các giai đoạn thực hiện tội phạm theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng” đã được lựa chọn để nghiên cứu. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trong những năm qua, đã có nhiều công trình nghiên cứu; sách chuyên khảo, sách tham khảo, giáo trình; các bài viết trên các tạp chí chuyên ngành; các luận văn về tội phạm, các giai đoạn thực hiện tội phạm của nhiều tác giả, trong đó phải nói đến những công trình sau đây, những công trình mà tác giả Luận văn đã tham khảo: - Võ Khánh Vinh (1994), Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân; - Võ Khánh Vinh (2013), Giáo trình Lý luận chung về định tội danh, Nxb Khoa học xã hội năm; - Đào Trí Úc (2000), Luật hình sự Việt Nam (quyển 1) – những vấn đề chung, Nxb KHXH, Hà Nội; - Đinh Văn Quế (2000), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự 1999 – 2
  8. Phần chung, NXB. Thành phố Hồ Chí Minh; - Lê Văn Cảm (2007), Cấu thành tội phạm và vấn đề xác định giai đoạn thực hiện tội phạm; - Cao Thị Oanh (2010), Cấu thành tội phạm và vấn đề xác định giai đoạn thực hiện tội phạm, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội; - Lê Thị Sơn (1999), Một số vấn đề về các giai đoạn thực hiện tội phạm, Trong sách: Luật hình sự Việt Nam – Những vấn đề lý luận và thực tiễn, NXB Công an nhân dân, Hà Nội; - Lê Thị Sơn (1986), Các giai đoạn phạm tội, trong sách: những vấn đề lý luận cơ bản về tội phạm trong luật hình sự Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội; - Hồ Thanh Vinh (2014), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam, Luận văn, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Tuy chưa đầy đủ, song các công trình khoa học nêu trên đã cung cấp cho tác giả Luận văn những kiến thức nền tảng về các giai đoạn thực hiện tội phạm để thực hiện đề tài, từ khái niệm, các đặc điểm cơ bản đến trách nhiệm hình sự và việc quyết định hình phạt đối với hành vi của người phạm tội trong từng giai đoạn thực hiện tội phạm. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Vì đề tài thuộc chuyên ngành Luật hình sự, nên mục đích nghiên cứu của đề tài phải là hoàn thiện quy định của pháp luật hình sự và hướng dẫn áp dụng quy định đó về giai đoạn thực hiện tội phạm. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích đã nêu, đề tài cần phải thực hiện những nhiệm vụ sau đây: - Nghiên cứu lịch sử lập pháp về các giai đoạn thực hiện tội phạm trong 3
  9. pháp luật hình sự Việt Nam qua các thời kỳ; - Nghiên cứu về các giai đoạn thực hiện tội phạm quy định trong luật hình sự một số nước; - Nghiên cứu quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về các giai đoạn thực hiện tội phạm; - Nghiên cứu cụ thể, bao gồm các hoạt động tìm, thu thập, xử lý, phân tích, so sánh những số liệu thống kê thường xuyên, bản án hình sự và báo cáo tổng kết của Tòa án thành phố Đà Nẵng trong thời gian từ năm 2011 đến năm 2015; - Kiến nghị hoàn thiện pháp luật hình sự liên quan đến các giai đoạn thực hiện tội phạm và đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả xử lý đối với từng giai đoạn thực hiện tội phạm trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đề tài này phải đi tìm sự phù hợp giữa thực tế diễn biến các giai đoạn của sự kiện phạm tội, mức độ nguy hiểm cho xã hội của từng giai đoạn đó với quy định của pháp luật. Nói cách khác, đối tượng nghiên cứu của đề tài này là bản chất pháp lý của các giai đoạn thực hiện tội phạm. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Xét về nội dung, đề tài này được thực hiện trong chuyên ngành Luật hình sự và tố tụng hình sự; Xét về địa bàn và thời gian, đề tài sử dụng số liệu thống kê hình sự và các bản án hình sự của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng từ năm 2011 đến năm 2015. 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa 4
  10. Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về pháp luật và áp dụng pháp luật hình sự. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình thực hiện đề tài, Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: quy nạp, diễn dịch; hệ thống; thống kê tội phạm; phân tích, tổng hợp; so sánh; điều tra, khảo sát; tổng kết kinh nghiệm. Từ đó rút ra những đánh giá, kết luận và đề xuất các kiến nghị liên quan đến các giai đoạn thực hiện tội phạm. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận Luận văn là công trình nghiên cứu về các giai đoạn thực hiện tội phạm trên cơ sở khảo sát thực tiễn áp dụng pháp luật Hình sự Việt Nam trên địa bàn thành phố Đà Nẵng từ năm 2011 đến năm 2015, nên kết quả nghiên cứu của đề tài có giá trị góp phần bổ sung vào lý luận, cũng như quy định của pháp luật về giai đoạn thực hiện tội phạm và có thể được sử dụng làm tài liệu học tập cũng như nghiên cứu trong phạm vi chuyên ngành Luật hình sự và tố tụng hình sự. 6.1. Ý nghĩa thực tiễn Về mặt thực tiễn, kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần bổ sung vào kinh nghiệm công tác đấu tranh chống tội phạm trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 03 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về các giai đoạn thực hiện tội phạm theo pháp luật hình sự Việt Nam Chương 2: Thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật về các giai đoạn 5
  11. thực hiện tội phạm trên địa bàn thành phố Đà Nẵng Chương 3: Các biện pháp bảo đảm xác định và xử lý đúng từng giai đoạn thực hiện tội phạm. 6
  12. CHƢƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ CÁC GIAI ĐOẠN THỰC HIỆN TỘI PHẠM THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. Khái niệm và ý nghĩa của các giai đoạn thực hiện tội phạm theo pháp luật hình sự Việt Nam 1.1.1. Khái niệm các giai đoạn thực hiện tội phạm theo pháp luật hình sự Việt Nam Khoa học luật hình sự trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng, đều phân biệt các giai đoạn phạm tội, như là cách thức để nhận biết dấu hiệu của tội phạm ở từng thời điểm thực hiện. Trong khoa học luật hình sự Liên bang Nga, quan điểm về các giai đoạn cũng có sự khác nhau. Cụ thể như sau: 1) Các giai đoạn thực hiện tội phạm là các giai đoạn chuẩn bị và trực tiếp thực hiện tội phạm cố ý, được phân biệt với nhau theo tính chất (nội dung) của hành vi đã được thực hiện và thời điểm chấm dứt xử sự có tính chất tội phạm (B.V.Zđravômưxlôv); 2) Các giai đoạn thực hiện tội phạm là các giai đoạn nhất định của việc chuẩn bị và thực hiện tội phạm cố ý, được phân biệt với nhau theo tính chất của những hành vi được thực hiện và thời điểm chấm dứt hành vi ấy (X.G.Kelina); 3) Các giai đoạn của việc chuẩn bị và trực tiếp thực hiện tội phạm được quy định trong luật và được phân biệt với nhau theo tính chất và nội dung của hành vi người phạm tội thực hiện, cũng như mức độ kết thúc hành vi phạm tội (Ê.F.Pobegailô) [3, tr.440-441]. Còn trong khoa học luật hình sự Việt Nam, các nhà khoa học luật hình sự, về cơ bản đã đi sâu nghiên cứu và đưa ra các quan điểm khác nhau về tội phạm chưa hoàn thành và nói chung đều thừa nhận chỉ những tội phạm do 7
  13. phạm tội cố ý, tức là người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước được hậu quả của hành vi đó, bằng ý chí chủ quan của mình quyết tâm thực hiện tội phạm đến cùng thì mới có các giai đoạn phạm tội. GS.TSKH. Lê Văn Cảm viết: Các giai đoạn thực hiện tội phạm là các bước phát triển theo một trình tự nhất định mà tội phạm trải qua, được thể hiện bằng việc thực hiện các dấu hiệu thuộc mặt khách quan của cấu thành tội phạm tương ứng và bằng mức độ khác nhau của việc thể hiện sự cố ý phạm tội của chủ thể [3, tr.441]. Hay tác giả Trần Văn Đượm lại đưa ra quan điểm tương tự và liệt kê các giai đoạn cố ý thực hiện tội phạm là "các bước trong quá trình thực hiện tội phạm bao gồm chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và tội phạm hoàn thành" [22, tr.176]. Hay gần đây, TS. Trịnh Tiến Việt quan niệm: "Các giai đoạn phạm tội được hiểu là những bước trong quá trình thực hiện tội phạm do cố ý, phản ánh mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội ở từng thời điểm, bao gồm: chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và tội phạm hoàn thành" [31, tr.156]; v.v Chắt lọc từ những quan điểm nêu trên, có thể rút ra những điểm chung cơ bản của các giai đoạn thực hiện tội phạm là chỉ ở các tội cố ý, người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước được hậu quả của hành vi đó, người phạm tội bằng ý chí chủ quan của mình quyết tâm thực hiện tội phạm đến cùng thì mới có các giai đoạn phạm tội. Từ đó cũng có thể hiểu được rằng các giai đoạn thực hiện tội phạm không có trong tội phạm vô ý, bởi trong tội phạm vô ý người phạm tội không nhận thức được hành vi nguy hiểm cho xã hội, không thấy trước được hậu quả nguy hiểm cho xã hội của hành vi đó và cũng không mong muốn cho hậu quả nguy hiểm cho xã hội bởi hành vi đó. 8
  14. Như vậy, trong phạm tội cố ý, có hai hình thức lỗi (hay còn gọi là hai dạng) cố ý là cố ý trực tiếp và cố ý gián tiếp. Như vậy vấn đề đặt ra cho các giai đoạn thực hiện tội phạm là hình thức lỗi cố ý trực tiếp hay hình thức lỗi cố ý gián tiếp, hay chung cho cả hai hình thức lỗi cố ý. Hầu hết các nhà hình sự học cho rằng các giai đoạn thực hiện tội phạm chỉ đặt ra với tội phạm thực hiện với hình thức lỗi cố ý trực tiếp [2, tr.223]. Lý giải cho quan điểm này, các tác giả đều cho rằng, ở lỗi cố ý trực tiếp người phạm tội khi thực hiện một loạt hành vi như chuẩn bị công cụ, phương tiện, vạch kế hoạch, bàn bạc, rủ rê, lôi kéo người khác tham gia; v.v và tiến hành thực hiện hành vi phạm tội. Do đó, người phạm tội không thể không nhận thức được hậu quả nguy hiểm cho xã hội của hành vi thực hiện, không thể không mong muốn cho hậu quả xảy ra. Cũng có trường hợp đối với những tội có cấu thành hình thức bằng không hành động, mặc dù có lỗi cố ý trực tiếp cũng không có hành vi chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt. Ví dụ: Tội không tố giác tội phạm (Điều 314 Bộ luật hình sự); Tội cố ý không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng (Điều 107 Bộ luật hình sự); v.v Cũng có một số quan điểm cho rằng người phạm tội với hình thức lỗi cố ý gián tiếp cũng trải qua các giai đoạn thực hiện tội phạm. Cũng trường hợp phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp, người phạm tội có lỗi cố ý gián tiếp cũng có ý thức lựa chọn một xử sự phạm tội. Những gì nguy hiểm cho xã hội đã xảy ra ở trường hợp phạm tội cố ý gián tiếp là những điều tuy chủ thể không nhằm tới nhưng họ chấp nhận việc nó xảy ra. Khi điều đó chưa xảy ra, chúng ta vẫn có thể và cần phải đặt vấn đề trách nhiệm hình sự đối với họ, vì việc không xảy ra là do nguyên nhân khách quan, còn chủ quan người phạm tội vẫn sẵn sàng chấp nhận việc nó xảy ra. Ngoài ra, về mặt thực tiễn, hiện nay chúng ta đã gặp những vụ việc đòi hỏi cần xét xử về hình sự và 9
  15. việc xét xử này chỉ có thể thực hiện được trên cơ sở thừa nhận nguyên tắc: Các giai đoạn thực hiện tội phạm và trách nhiệm hình sự đối với các giai đoạn phạm tội được đặt ra cho cả trường hợp phạm tội cố ý gián tiếp [10, tr.68-69]. Do đó, việc đặt ra cho các giai đoạn thực hiện tội phạm với hình thức lỗi cố ý gián tiếp là chưa thật chính xác, bởi vì trong tội phạm do lỗi cố ý gián tiếp, người phạm tội không nhận thức trước được hậu quả nguy hiểm cho xã hội, không mong muốn hậu quả xảy ra, nên không thể có các giai đoạn chuẩn bị phạm tội cũng như phạm tội chưa đạt. Bộ luật hình sự Việt Nam quy định các giai đoạn thực hiện tội phạm bao gồm: Chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và tội phạm hoàn thành. Tuy nhiên, Bộ luật hình sự cũng chỉ nêu chuẩn bị phạm tội tại Điều 17, phạm tội chưa đại tại Điều 18, còn tội phạm hoàn thành không quy định thành một điều luật cụ thể mà được phản ánh thông qua nội dung của 276 tội danh trong Phần các tội phạm Bộ luật này. Trong đó, chuẩn bị phạm tội là giai đoạn đầu tiên của các giai đoạn thực hiện tội phạm và là giai đoạn có ảnh hưởng lớn đến kết quả phạm tội. Các giai đoạn kế tiếp là phạm tội chưa đạt và tội phạm hoàn thành. Việc quy định cách phân chia các giai đoạn thực hiện tội phạm như vậy, thể hiện tính hợp lý cao về khoa học và thực tiễn. Điều 2 Bộ luật hình sự quy định: "Chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự" [15]. Như vậy, việc quy định rõ chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt trong Bộ luật hình sự là cơ sở để xác định mức độ và tính chất của hành vi nguy hiểm cho xã hội, từ đó làm cơ sở cho việc truy cứu trách nhiệm hình sự một cách chính xác, hợp tình, hợp lý, bảo đảm sự chặt chẽ trong quyết định hình phạt, thể hiện được các nguyên tắc pháp chế và công bằng, để Tòa án đưa ra được các quyết định hình phạt một cách công minh, chính xác, không để lọt tội phạm và người phạm tội, nhưng cũng không làm oan người vô tội. 10
  16. Ngoài ra, thực tiễn xét xử ở nước ta từ trước đến nay hầu hết chỉ thừa nhận các giai đoạn thực hiện tội phạm do lỗi cố ý mà không đặt ra vấn đề các giai đoạn thực hiện tội phạm đối với lỗi cố ý trực tiếp, bởi vì trong tội phạm do lỗi cố ý gián tiếp người phạm tội không mong muốn hậu quả xảy ra, thờ ơ, bàng quan với hậu quả xảy ra. Hậu quả xảy ra không phải là mục đích của người phạm tội. Như vậy, có thể đưa ra khái niệm đang nghiên cứu như sau: Các giai đoạn phạm tội là các bước của quá trình thực hiện tội phạm do cố ý (trực tiếp) do luật hình sự quy định, phản ánh tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội ở từng thời điểm khác nhau, bao gồm chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và tội phạm hoàn thành. Từ khái niệm nêu trên, có thể nêu lên những đặc điểm chính của các giai đoạn thực hiện tội phạm như sau: - Các giai đoạn thực hiện tội phạm là các bước, các giai đoạn phát triển nhất định mà tội phạm trải qua gồm: Chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và tội phạm hoàn thành. - Các giai đoạn thực hiện tội phạm được quy định trong luật hình sự. - Các giai đoạn thực hiện tội phạm chỉ được đặt ra đối với tội phạm thực hiện do lỗi cố ý trực tiếp. - Các giai đoạn thực hiện tội phạm phản ánh tính chất và mức độ nguy hiểm khác nhau của hành vi phạm tội ở từng thời điểm trong quá trình thực hiện tội phạm (chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và tội phạm hoàn thành). Trong khoa học luật hình sự Việt Nam, cũng đã có nhiều tác giả đưa ra những quan điểm về khái niệm các giai đoạn thực hiện tội phạm và được thể chế hóa trong Bộ luật hình sự Việt Nam để từ đó phân biệt giữa khái niệm tội phạm chưa hoàn thành và tội phạm đã hoàn thành, đồng thời làm rõ cơ sở để phân chia các giai đoạn phạm tội nhằm xác định đúng và đầy đủ trách nhiệm 11
  17. hình sự đối với từng giai đoạn thực hiện tội phạm. Qua đó, có thể hiểu về khái niệm và trách nhiệm hình sự đối với từng giai đoạn phạm tội cụ thể như sau: 1.1.1.1. Giai đoạn chuẩn bị phạm tội a. Khái niệm Chuẩn bị phạm tội là một giai đoạn phạm tội trong tội phạm chưa hoàn thành và một phần của quá trình thực hiện tội phạm cố ý. Ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội, người phạm tội đã có hành vi nhằm tạo ra những điều kiện cần thiết, tạo tiền đề cho việc thực hiện tội phạm, tuy nhiên người phạm tội chưa thực hiện hành vi thuộc mặt khách quan của tội phạm, tức là chưa có hành vi xâm phạm đến đối tượng tác động. Ví dụ như: Trần Văn A chuẩn bị các công cụ sử dụng để phá khóa với mục đích đến nhà ông Nguyễn Văn B phá khóa trộm cắp tài sản của gia đình ông B, nhưng khi chuẩn bị thực hiện hành vi thì bị lực lượng dân phòng phát hiện nên A không thực hiện được hành vi trộm cắp tại nhà B. Giai đoạn chuẩn bị phạm tội được quy định tại Điều 17 Bộ luật hình sự, theo đó chuẩn bị phạm tội là tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phương tiện hoặc tạo ra những điều kiện khác để thực hiện tội phạm. Hành vi chuẩn bị phạm tội thường được thể hiện dưới các dạng như sau: - Chuẩn bị kế hoạch phạm tội như: bàn bạc, phân công trách nhiệm cho từng người, kế hoạch tiêu thụ tài sản hay kế hoạch che giấu tội phạm Dạng chuẩn bị phạm tội này thường xảy ra đối với những tội phạm được thực hiện có đồng phạm hoặc có tổ chức. Tuy nhiên, cũng có tội phạm chỉ do một người thực hiện vẫn có sự chuẩn bị kế hoạch phạm tội. Ví dụ: A có ý định tạt a xít vào B, tự A đã vạch ra một kế hoạch như mua a xít ở đâu, tạt a xít vào B như thế nào, sau khi tạt được a xít vào B thì tẩu thoát như thế nào, v.v - Thăm dò hoặc tìm địa điểm phạm tội, dạng chuẩn bị này chủ yếu đối với các tội xâm phạm sở hữu hoặc xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân 12
  18. phẩm của công dân. Cũng như ví dụ trên: A theo dõi B, xác định quy luật tuyến đường, thời gian B thường đi để tiến hành hành vi phạm tội. - Chuẩn bị công cụ, phương tiện phạm tội như: chuẩn bị xe máy để đi cướp giật, chuẩn bị dao để giết người, chuẩn bị thuốc nổ để hủy hoại tài sản, chuẩn bị xăng để đốt nhà, chuẩn bị thuốc mê để làm người có tài sản uống nhằm chiếm đoạt tài sản của họ, chuẩn bị giấy tờ giả mạo để lừa đảo, v.v - Loại trừ trước những trở ngại khách quan để thực hiện tội phạm được thuận lợi dễ dàng như: ngắt cầu dao điện để đêm đột nhập vào kho trộm cắp tài sản, cho các con đi nghỉ mát để ở nhà giết vợ được dễ dàng v.v Như vậy, chuẩn bị phạm tội là hành vi tạo ra tiền đề (điều kiện cần thiết cho việc thực hiện tội phạm. Hành vi chuẩn bị phạm tội có một ý nghĩa rất quan trọng đến kết quả của việc thực hiện tội phạm, chuẩn bị càng chu đáo công phu bao nhiêu thì kết quả của việc thực hiện tội phạm càng đạt kết quả bấy nhiêu. b. Trách nhiệm hình sự đối với giai đoạn chuẩn bị phạm tội Về cơ sở khoa học để xác định một người phải chịu trách nhiệm hình sự ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội. Mặc dù hành vi đã thực hiện ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội chưa tác động vào đối tượng tác động của tội phạm để gây thiệt hại cho xã hội nhưng họ vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự. Bởi vì: Bản chất của chuẩn bị phạm tội là hành vi tiền đề tạo điều kiện cho việc thực hiện tội phạm. Hành vi này luôn hướng tới việc đạt mục đích nhất định. Chính nó quyết định tội phạm xảy ra hay không và xảy ra như thế nào. Một tội phạm khi thực hiện có sự chuẩn bị thì tính nguy hiểm cho xã hội của nó cao hơn so với trường hợp không có sự chuẩn bị. Trong ý thức chủ quan của can phạm là mong muốn tiếp tục thực hiện tội phạm đến cùng. Việc dừng lại ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội do nguyên nhân khách 13
  19. quan ngoài ý muốn. Kết quả của việc thực hiện tội phạm phần nào phụ thuộc vào hành vi chuẩn bị phạm tội, nếu quá trình chuẩn bị phạm tội càng chi tiết, kĩ lưỡng thì quá trình thực hiện tội phạm có khả năng gây ra hậu quả cao hơn, nghiêm trọng hơn. Theo luật hình sự Việt Nam, không phải hành vi chuẩn bị phạm tội nào cũng bị truy cứu trách nhiệm hình sự, việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi chuẩn bị phạm tội được đánh giá và phân biệt thành hai loại: loại hành vi chuẩn bị phạm tội phải truy cứu trách nhiệm hình sự (nếu tội định phạm là tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng) và loại không bị truy cứu trách nhiệm hình sự, mặc dù cả hai loại đều chưa gây ra hậu quả, nhưng tính chất nguy hiểm của hành vi chuẩn bị phạm tội có khác nhau và sự khác nhau đó lại không phụ thuộc vào tính chất và mức độ của hành vi chuẩn bị phạm tội mà nó hoàn toàn phụ thuộc vào tính chất nghiêm trọng của tội phạm mà người đó định thực hiện. 1.1.1.2. Giai đoạn phạm tội chưa đạt a. Khái niệm Điều 18 của Bộ luật hình sự quy định: “Phạm tội chưa đạt là cố ý thực hiện tội phạm nhưng không thực hiện được đến cùng vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội” Chỉ có các tội được thực hiện do cố ý thì mới có phạm tội chưa đạt. Điều luật không quy định hình thức cố ý trực tiếp hay cố ý gián tiếp, nhưng căn cứ vào nội dung của điều luật quy định “không thực hiện được đến cùng”, tức là người phạm tội có mục đích thực hiện tội phạm đến cùng, nên họ mong muốn cho hậu quả xảy ra chứ không phải để mặc cho hậu quả xảy ra. Do đó phạm tội chưa đạt chỉ có thể xảy ra đối với trường hợp cố ý trực tiếp. Theo luật hình sự Việt Nam, có ba dấu hiệu xác định trường hợp phạm tội chưa đạt [23, tr.156-158]. 14
  20. Dấu hiệu thứ nhất: người phạm tội đã bắt đầu thực hiện tội phạm. Đây là dấu hiệu phân biệt phạm tội chưa đạt với chuẩn bị phạm tội. Sự bắt đầu này thể hiện ở chỗ: người phạm tội đã thực hiện hành vi khách quan được mô tả trong cấu thành tội phạm. Ví dụ: kẻ giết người đã thực hiện hành vi tước đoạt tính mạng người khác (như đã đâm, đã bắn, đã chém) là hành vi được mô tả trong cấu thành tội phạm tội giết người (Điều 93 Bộ luật hình sự). Cũng được coi là đã bắt đầu thực hiện tội phạm nếu người phạm tội đã thực hiện được hành vi đi liền trước hành vi khách quan. Đó là những hành vi (xét về khách quan và chủ quan) thể hiện là sự bắt đầu của hành vi khách quan và kế tiếp ngay sau nó hành vi khách quan sẽ xảy ra. Ví dụ: hành vi nhặt dao để đâm, lắp đạn để bắn trong trường hợp phạm tội giết người được coi là hành vi đi liền trước. Những hành vi này chưa phải là hành vi khách quan, chưa phải là hành vi tước đoạt tính mạng người khác (hành vi đâm, hành vi bắn) nhưng nó là sự bắt đầu của hành vi khách quan và ngay sau nó hành vi khách quan (hành vi đâm, hành vi bắn) sẽ xảy ra. Những hành vi “đi liền trước” như vậy tuy thể hiện là sự chuẩn bị nhưng vì rất gần với hành vi khách quan, không tách ra được nên cũng được coi là hành vi thực hiện tội phạm. Dấu hiệu thứ hai: người phạm tội không thực hiện tội phạm được đến cùng (về mặt pháp lí), nghĩa là hành vi của họ chưa thỏa mãn hết các dấu hiệu (thuộc mặt khách quan) của cấu thành tội phạm. Những trường hợp hành vi phạm tội chưa thỏa mãn hết các dấu hiệu (thuộc mặt khách quan) của cấu thành tội phạm có thể xảy ra ở một trong những dạng dưới đây: - Chủ thể chưa thực hiện được hành vi khách quan mà mới chỉ thực hiện được “hành vi đi liền trước”. Ví dụ: kẻ giết người mới nhặt dao để đâm thì bị bắt giữ. - Chủ thể đã thực hiện được hành vi khách quan nhưng chưa gây ra hậu quả của tội phạm. Ví dụ: kẻ giết người đã đâm được nạn nhân nhưng nạn 15
  21. nhân không chết. - Chủ thể đã thực hiện được hành vi khách quan nhưng chưa thực hiện hết. Ví dụ: kẻ hiếp dâm mới vật ngã được nạn nhân nhưng chưa thực hiện được việc giao cấu thì bị bắt giữ. - Hậu quả thiệt hại tuy đã xảy ra nhưng không có quan hệ nhân quả với hành vi khách quan mà chủ thể đã thực hiện. Ví dụ: A cầm dao đột nhập vào nhà để giết B, A thấy B chùm chăn nằm trên giường liền lao tới và đâm nhiều nhát vào người B, nghĩ rằng B đã chết nên A bỏ đi. Tuy nhiên trên thực tế, trước khi A đột nhập vào nhà B thì B đã chết, như vậy hậu quả chết người tuy đã xảy ra với B nhưng không có quan hệ nhân quả với hành vi khách quan của A. Trong bốn dạng có thể xảy ra nêu trên, hai dạng (2 và 4) chỉ có thể có ở những tội phạm có cấu thành tội phạm vật chất. Dấu hiệu thứ ba: người phạm tội không thực hiện tội phạm được đến cùng là do những nguyên nhân ngoài ý muốn của họ. Bản thân người phạm tội vẫn muốn tội phạm hoàn thành nhưng tội phạm không hoàn thành là do: - Nạn nhân hoặc người bị hại đã chống cự lại được hoặc đã tránh được; - Người khác đã ngăn chặn được; - Có những trở ngại khác như bắn nhưng đạn không nổ; thuốc độc để đầu độc không đủ liều lượng. b. Phân loại các trường hợp phạm tội chưa đạt Căn cứ vào thái độ tâm lí của người phạm tội đối với hành vi mà họ đã thực hiện, khoa học pháp lý chia phạm tội chưa đạt thành hai loại: chưa đạt đã hoàn thành và chưa đạt chưa hoàn thành, cụ thể: - Phạm tội chưa đạt đã hoàn thành là trường hợp người phạm tội đã thực hiện đầy đủ những hành vi mà họ cho là cần thiết để gây hậu quả, nhưng vì nguyên nhân khách quan (ngoài ý muốn) hậu quả đó không xảy ra (chưa 16
  22. đạt về hậu quả, hoàn thành về hành vi). Ví dụ một người có ý định giết người khác, đã dùng dao đâm 3 phát vào người nạn nhân và tin nạn nhân đã chết nên bỏ đi, nhưng sau đó nạn nhân được cứu chữa nên không chết. Ở đây người phạm tội đã hành động như ý muốn và tin là hậu quả sẽ xảy ra nhưng lại không xảy ra. Trường hợp này người phạm tội dừng lại mặc dù không còn gì ngăn cản nhưng cũng không được coi là tự nguyện nửa chừng chấm dứt thực hiện tội phạm, vì người phạm tội đã thỏa mãn với hành vi nhưng chưa thỏa mãn về hậu quả. - Phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành là trường hợp người phạm tội vì nguyên nhân khách quan, chưa thực hiện hết các hành vi mà họ cho là cần thiết để gây ra hậu quả nên hậu quả không xảy ra (chưa đạt về hậu quả, chưa hoàn thành về hành vi). Ví dụ: một người có ý định giết người khác nên dùng dao đâm vào người khác để tước đoạt tính mạng người đó, nhưng mới đâm được một nhát thì bị người dân xung quanh ngăn cản, không đâm tiếp được nữa và nạn nhân không chết, chỉ bị thương. Trường hợp này người phạm tội chưa đâm được như ý muốn và hậu quả cũng chưa xảy ra. Căn cứ vào tính chất đặc biệt của nguyên nhân dẫn đến việc chưa đạt thì luật hình sự còn có trường hợp phạm tội chưa đạt vô hiệu, đây là trường hợp phạm tội chưa đạt mà nguyên nhân khách quan của việc chưa đạt gắn với công cụ, phương tiện, với đối tượng tác động của tội phạm. c. Điều kiện của phạm tội chưa đạt - Về thời điểm: Thời điểm bắt đầu của giai đoạn phạm gội chưa đạt: là thời điểm bắt đầu thực hiện hành vi khách quan được mô tả trong cấu thành tội phạm hoặc hành vi đi liền trước hành vi khách quan (ví dụ như hành vi nhặt dao để đâm nạn nhân). + Người phạm tội đã thực hiện hành vi đi liền trước hành vi khách quan + Người phạm tội chưa thực hiện hết các hành vi khách quan đối với tội 17