Luận văn Các căn cứ quyết định hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Đà Nẵng

pdf 88 trang vuhoa 23/08/2022 9960
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Các căn cứ quyết định hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Đà Nẵng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_cac_can_cu_quyet_dinh_hinh_phat_theo_phap_luat_hinh.pdf

Nội dung text: Luận văn Các căn cứ quyết định hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Đà Nẵng

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ NGỌC THÙY CÁC CĂN CỨ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI, năm 2017
  2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ NGỌC THÙY CÁC CĂN CỨ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự Mã số: 60.38.01.04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. ĐẶNG QUANG PHƯƠNG HÀ NỘI, năm 2017
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu được trích dẫn theo nguồn đã công bố. Kết quả nêu trong luận văn này là trung thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Tác giả luận văn Nguyễn Thị Ngọc Thùy
  4. MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ CĂN CỨ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT 8 1.1. Những vấn đề lý luận về căn cứ quyết định hình phạt 8 1.2. Quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về các căn cứ quyết định hình phạt 15 CHƯƠNG 2. THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC CĂN CỨ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT TẠI THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG 35 2.1. Tổng quan kết quả áp dụng các căn cứ quyết định hình phạt tại thành phố Đà Nẵng 35 2.2. Những vi phạm, sai lầm trong việc áp dụng các căn cứ quyết định hình phạt tại thành phố Đà Nẵng và nguyên nhân 40 CHƯƠNG 3. CÁC YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG CÁC CĂN CỨ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT 57 3.1. Các yêu cầu bảo đảm áp dụng đúng các căn cứ quyết định hình phạt 57 3.2. Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các căn cứ quyết định hình phạt 61 KẾT LUẬN 79 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
  5. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLHS Bộ luật hình sự BLTTHS Bộ luật tố tụng hình sự CTTP Cấu thành tội phạm HĐTP Hội đồng thẩm phán HĐXX Hội đồng xét xử QĐHP Quyết định hình phạt TTHS Tố tụng hình sự TAND Tòa án nhân dân TANDTC Tòa án nhân dân tối cao TNHS Trách nhiệm hình sự VKSND Viện kiểm sát nhân dân VKSNDTC Viện kiểm sát nhân dân tối cao VAHS Vụ án hình sự XHCN Xã hội chủ nghĩa XXPT Xét xử phúc thẩm
  6. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Pháp luật với tư cách là nhân tố điều chỉnh các quan hệ xã hội. Nó luôn tác động và ảnh hưởng rất mạnh mẽ đến các quan hệ xã hội nói chung và đến các đối tượng mà nó điều chỉnh nói riêng. Để pháp luật phát huy được vai trò, tác dụng và giá trị to lớn của nó thì cần phải xây dựng một hệ thống pháp luật có tính khoa học, đảm bảo tác động có hiệu quả đến các đối tượng mà pháp luật cần điều chỉnh. Xét xử vụ án hình sự là một giai đoạn tố tụng hình sự đặc biệt quan trọng do Toà án thực hiện trên cơ sở kiểm tra, đánh giá toàn bộ các tình tiết của vụ án theo những quy định của BLTTHS để chứng minh tội phạm, giải quyết vấn đề TNHS, định tội danh và QĐHP đối với người bị kết án. Trong giai đoạn này, QĐHP là hoạt động không thể thiếu sau khi đã định tội danh mà kết quả là HĐXX nhân danh Nhà nước CHXHCN Việt Nam tuyên người bị kết tội một hình phạt cụ thể. Trong hoạt động thực tiễn, để QĐHP đúng, phát huy được hiệu quả và mục đích của hình phạt không phải là công việc đơn giản vì HĐXX (Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân) không bao giờ QĐHP lại dựa trên một khuôn mẫu chung, mang tính định sẵn trong mối quan hệ với tính đa dạng của các loại hành vi phạm tội. Đặc biệt, từ khi BLHS đầu tiên ra đời năm 1985, án lệ không còn được coi là nguồn của pháp luật hình sự thì càng không thể có một hình phạt mẫu với những thông số cho sẵn để hoạt động QĐHP chỉ việc lắp ráp một cách máy móc. Hệ thống hình phạt đa dạng, với các mức độ nghiêm khắc khác nhau được quy định trong BLHS tuy đã phát huy được tác dụng tích cực trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm nhưng việc quy định khoảng cách giữa mức tối thiểu và tối đa của hình phạt tù có thời hạn vẫn còn rộng nên dễ tạo ra sự tuỳ tiện trong QĐHP, không đảm bảo công bằng giữa các trường hợp phạm tội. Mặt khác, hoạt động QĐHP cũng không cho phép Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân được QĐHP một cách chủ quan, thiếu căn cứ pháp lý hay đi tìm tội danh cho một hình phạt đã có sẵn vì kết quả sẽ là sự xâm hại các quyền và lợi ích chính đáng của người phạm tội, vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc pháp chế của Luật hình sự trong một Nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Để thực hiện đúng nguyên tắc xử lý tại Điều 3 BLHS 1999 (Điều 3 BLHS 2015) thì ngoài việc mọi hành vi phạm tội phải được phát hiện kịp thời, xử lý nhanh 1
  7. chóng, công minh theo đúng pháp luật, khi truy cứu TNHS phải định tội danh đúng. Định tội danh đúng dẫn đến QĐHP đúng. Muốn QĐHP đúng thì cần phải tuân thủ các nguyên tắc QĐHP và phải bảo đảm đầy đủ các căn cứ QĐHP. Việc Toà án tuyên một hình phạt đảm bảo đầy đủ các căn cứ QĐHP có ý nghĩa chính trị, xã hội và pháp lý hết sức to lớn. QĐHP đúng, đảm bảo tính nghiêm minh, công bằng của pháp luật hình sự, tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội chính là để bảo vệ pháp chế và chế độ XHCN, là cơ sở pháp lý đầu tiên để đạt được các mục đích của hình phạt. Nhìn chung, QĐHP đúng không chỉ có tác dụng đối với người phạm tội mà còn thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật và phát huy tác dụng giáo dục, phòng ngừa chung. Trong những năm qua, cùng với sự phát triển chung của cả nước, tình hình kinh tế - xã hội trên địa bàn thành phố Đà Nẵng đã chuyển biến tích cực, tốc độ đô thị hóa diễn ra nhanh, diện mạo xã hội có nhiều thay đổi rõ rệt nhưng mặt trái của nền kinh tế thị trường đã làm cho tình hình tội phạm ngày một gia tăng về số lượng, phức tạp về tính chất và mức độ. Một bộ phận thanh thiếu niên hư hỏng, không lo tu dưỡng, rèn luyện bản thân mà chạy theo lối sống thực dụng, ích kỷ, có lối hành xử theo kiểu xã hội đen, côn đồ, hung hãn; người phạm tội không chỉ trẻ hóa về độ tuổi, sự tinh vi, xảo quyệt trong hành vi mà còn lập băng nhóm phạm tội có tổ chức như: trộm cắp, cướp giật, giết người, mua bán, vận chuyển, tàng trữ trái phép chất ma túy và thậm chí có nhiều loại tội phạm trước đây ít hoặc không thực hiện thì nay có xu hướng gia tăng như: nhóm tội xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người, xân phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng Trước diễn biến phức tạp, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, chính trị và trật tự an toàn xã hội trên cả nước nói chung và trên địa bàn thành phố Đà Nẵng nói riêng, vấn đề nâng cao chất lượng xét xử, áp dụng đúng các căn cứ QĐHP nhằm phục vụ cho đấu tranh và phòng chống tội phạm được đặt ra như là một yêu cầu cấp bách và cần thiết trong giai đoạn hiện nay. Thực tiễn xét xử cho thấy các cấp xét xử vẫn chưa phải tuân thủ và áp dụng đúng các căn cứ QĐHP. TAND hai cấp thành phố Đà Nẵng không phải là ngoại lệ, vẫn còn một số trường hợp Tòa án để xảy ra sai sót, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo, người bị hại Nguyên nhân của những sai sót đó thì nhiều, trong đó phải kể đến một số nguyên nhân chính như: quy định của pháp luật còn hạn 2
  8. chế, bất cập, việc hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật chưa được kịp thời, kinh nghiệm và năng lực của những người tiến hành tố tụng chưa đáp ứng được yêu cầu Nhằm góp phần bảo đảm áp dụng hình phạt đúng, tác giả chọn đề tài “Các căn cứ quyết định hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng” để làm luận văn thạc sỹ luật học. Đề tài này nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống những vấn đề lý luận cũng như thực tiễn áp dụng các căn cứ QĐHP theo pháp luật hình sự trong quá trình xét xử trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. Từ đó, khắc phục những vướng mắc, thiếu sót trong thực tiễn QĐHP của Tòa án, đưa ra các giải pháp bảo đảm QĐHP đúng đối với người phạm tội là hết sức cần thiết. Ngoài ra, nghiên cứu hoàn thiện quy định về các căn cứ QĐHP cũng là một nhiệm vụ cấp thiết để xây dựng pháp luật hình sự công bằng, nhân đạo, dân chủ và công minh trong Nhà nước pháp quyền XHCN ViệtNam. 2. Tình hình nghiên cứu Các căn cứ QĐHP được quy định tại Điều 45 BLHS năm 1999 (Điều 50 BLHS năm 2015) là cơ sở pháp lý bắt buộc Tòa án phải áp dụng đúng và đầy đủ khi thực hiện hoạt động QĐHP. Đây là một chế định quan trọng và không thể thiếu nhằm đảm bảo chất lượng, hiệu quả của hoạt động QĐHP của Tòa án. Chính vì vậy, các căn cứ QĐHP không chỉ được đề cập đến trong giáo trình Luật hình sự của các trường đại học như Đại học Luật Hà Nội, khoa Luật thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội để đào tạo cử nhân luật học, cán bộ tư pháp tương lai, mà còn là mối quan tâm của các cán bộ làm công tác xét xử, là trọng tâm nghiên cứu của các nhà khoa học pháp lý hình sự như: TSKH. PGS. Lê Cảm: Về bản chất pháp lý của quy phạm “Nguyên tắc quyết định hình phạt” tại Điều 37 BLHS Việt Nam - Tạp chí TAND số 1+2/1989; Nhân thân người phạm tội - Tạp chí TAND số 10/2001; TSKH. PGS. Lê Cảm và ThS. Trịnh Tiến Việt: Nhân thân người phạm tội: Một số vấn đề lý luận cơ bản - Tạp chí TAND số 1/2002; ThS. Trịnh Tiến Việt: Về các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự trong BLHS năm 1999 và một số kiến nghị - Tạp chí TAND số 13/2004; ThS. Phạm Thanh Bình: Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong luật hình sự Việt Nam - Tạp chí TAND số 8/1995; ThS. Nguyễn Mai Bộ: Việc áp dụng các tình tiết tăng nặng - Tạp chí TAND số 1/1999; ThS. Đinh Văn Quế: Một số điểm mới của BLHS năm 1999 về hình phạt và quyết định hình phạt - Tạp chí TAND số 3/2000; Đặng Xuân Đào: “Một số nội dung mới của các quy định về các tình tiết giảm nhẹ, 3
  9. tăng nặng trách nhiệm hình sự trong BLHS Việt Nam năm 1999” - Tạp chí Tòa án nhân dân số 8/2000 Tuy nhiên, những công trình khoa học này chủ yếu nghiên cứu về các căn cứ QĐHP dưới góc độ là các căn cứ độc lập hoặc là một phần trong chế định QĐHP của Luật hình sự. Đặc biệt, các công trình khoa học này cũng chưa đưa ra được các giải pháp hoàn thiện quy định về căn cứ QĐHP từ thực tiễn một địa phương cụ thể như thành phố Đà Nẵng. Điều đó cho thấy yêu cầu nghiên cứu cả về lý luận và thực tiễn nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự có liên quan đến căn cứ QĐHP và hoàn thiện quy định về căn cứ QĐHP tại Điều 45 BLHS năm 1999 (Điều 50 BLHS năm 2015) là hoàn toàn có giá trị khoa học và rất thiết thực. Làm được điều này sẽ góp phần nâng cao chất lượng hoạt động QĐHP, qua đó đáp ứng mục tiêu nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác xét xử các VAHS theo tinh thần của Nghị quyết số 49- NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm 2020 đã đề ra. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Xuất phát từ tình hình nghiên cứu về các căn cứ QĐHP, tác giả nhận thấy cần có sự nghiên cứu toàn diện, có hệ thống về các căn cứ QĐHP được quy định tại Điều 45 BLHS năm 1999 và Điều 50 BLHS năm 2015. Dựa trên kết quả nghiên cứu về lý luận và đánh giá thực tiễn vận dụng các căn cứ QĐHP trong hoạt động xét xử của hai cấp Toà án thành phố Đà Nẵng, đưa ra những ý kiến đề xuất hoàn thiện quy định của pháp luật hình sự có liên quan đến các căn cứ QĐHP và hoàn thiện quy định về căn cứ QĐHP tại Điều 45 BLHS năm 1999 (Điều 50 BLHS năm 2015). Cũng qua đó góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động QĐHP của Toà án để đạt được mục đích của hình phạt là giáo dục, cải tạo người phạm tội trở thành công dân có ích cho xã hội. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu. Để đạt được mục đích nghiên cứu, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài là làm rõ một số vấn đề sau: - Nghiên cứu một cách sâu sắc, toàn diện một số vấn đề lý luận chung về các căn cứ QĐHP theo pháp luật hình sự Việt Nam. - Nghiên cứu thực tiễn áp dụng các căn cứ QĐHP trong quá trình xét xử vụ án hình sự trên địa bàn thành phố Đà Nẵng để tìm ra những bất cập của pháp luật hình sự 4
  10. hiện hành về các căn cứ QĐHP. - Nghiên cứu những bất cập của pháp luật hình sự hiện hành, tác giả đưa ra các giải pháp bảo đảm vận dụng các căn cứ QĐHP đúng trong xét xử các vụ án hình sự. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản, quan điểm về QĐHP, căn cứ QĐHP. Quy định của pháp luật về căn cứ QĐHP và thực tiễn áp dụng căn cứ QĐHP trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. Bởi vậy, luận văn lấy các quan điểm khoa học của khoa học luật tố tụng hình sự, các quy định của pháp luật tố tụng hình sự năm 2003 của nước ta, thực tiễn xét xử hình sự của TAND hai cấp tại thành phố Đà Nẵng để nghiên cứu các vấn đề thuộc nội dung nghiên cứu của đề tài. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Để đạt được mục đích đã đề ra, luận văn xác định phạm vi nghiên cứu là những quy định của pháp luật hình sự về các căn cứ QĐHP tại Điều 45 BLHS năm 1999 (Điều 50 BLHS năm 2015). Trong đó, tập trung nghiên cứu về những vấn đề lý luận, quan điểm về QĐHP, căn cứ QĐHP ở Việt Nam. Quy định của pháp luật hình sự hiện hành về căn cứ QĐHP và về thực tiễn áp dụng các căn cứ QĐHP trên địa bàn thành phố Đà Nẵng của Toà án trong quá trình thực hiện nhiệm vụ xét xử sơ thẩm và phúc thẩm vụ án hình sự từ khi BLHS năm 1999 có hiệu lực (ngày 01/7/2000) đến nay. Về thời gian trong 5 năm (2012- 2016), qua đó chỉ ra những hạn chế, nguyên nhân và đề xuất ý kiến hoàn thiện các căn cứ QĐHP nhằm tạo cơ sở vững chắc cho hoạt động QĐHP của Toà án đảm bảo tính đúng đắn, hiệu quả, đáp ứng các yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận + Cơ sở lý luận: Đề tài được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác - LêNin; Tư tưởng Hồ Chí Minh và Nhà nước pháp quyền; Quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về phòng, chống tội phạm, xử lý người phạm tội; Chính sách hình sự, chính sách nhân đạo, các nguyên tắc của luật hình sự Việt Nam; các quy định của BLHS năm 1999 về QĐHP và căn cứ quyết định hình phạt và các văn bản hướng dẫn thi hành BLHS năm 1999. 5
  11. + Cơ sở thực tiễn: Thực tiễn áp dụng căn cứ QĐHP trong hoạt động QĐHP của TAND hai cấp TP Đà Nẵng từ khi BLHS năm 1999 đến nay. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Các phương pháp nghiên cứu chủ yếu là: Phương pháp lich sử, phương pháp thống kê, phương pháp tổng hợp, phương pháp phân tích, phương pháp so sánh, phương pháp logic, phương pháp khảo sát thực tiễn, lấy ý kiến chuyên gia và phỏng vấn trực tiếp cán bộ làm công tác xét xử tại Toà án. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận Các căn cứ QĐHP là những vấn đề được khá nhiều tác giả nghiên cứu dưới những góc độ khác nhau. Thực tế đó đã tạo ra những thuận lợi nhất định cho việc nghiên cứu đề tài nhưng cũng chính là khó khăn lớn đối với tác giả vì sẽ không tránh khỏi sự trùng lặp về những kiến thức pháp luật hình sự cơ bản đã được thừa nhận rộng rãi trong khoa học pháp lý. Mặc dù vậy, dựa trên những nghiên cứu lý luận về QĐHP, tìm hiểu quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về căn cứ QĐHP và kết quả đánh giá thực tiễn áp dụng các căn cứ QĐHP trong hoạt động xét xử VAHS của TAND hai cấp thành phố Đà Nẵng nhằm góp phần nhận thức đúng các căn cứ QĐHP và tầm quan trọng của nó. Luận văn là tài liệu tham khảo để xây dựng văn bản hướng dẫn áp dụng đúng và thống nhất pháp luật; Xây dựng tài liệu tập huấn; có thể tham khảo trong công tác giảng dạy về luật học; Chỉ ra những sai lầm trong thực tiễn vận dụng và nguyên nhân của việc áp dụng chưa đúng các căn cứ QĐHP. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Điểm mới quan trọng nhất của luận văn là đưa ra các yêu cầu và giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các căn cứ QĐHP, bao gồm: Yêu cầu thực hiện đúng các nguyên tắc QĐHP; Yêu cầu của cải cách tư pháp; Yêu cầu bảo vệ quyền con người; Yêu cầu phòng và chống tội phạm; Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các căn cứ QĐHP gồm: Ban hành các văn bản hướng dẫn, tập huấn thi hành BLHS 2015; Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về các căn cứ QĐHP; Tăng cường năng lực người tiến hành tố tụng, Luật sư; Tăng cường giám đốc, kiểm tra và tổng kết công tác xét xử nói chung việc áp dụng các căn cứ QĐHP nói riêng; Xây dựng án lệ và phổ biến giáo dục pháp luật. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn 6
  12. gồm có 03 chương. Chương 1: Những vẫn đề lý luận và pháp luật hình sự Việt Nam về căn cứ quyết định hình phạt Chương 2: Thực tiễn áp dụng các căn cứ quyết định hình phạt trên địa bàn thành phố Đà Nẵng Chương 3: Các yêu cầu và giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các căn cứ quyết định hình phạt 7
  13. CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ CĂN CỨ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT 1.1. Những vấn đề lý luận về căn cứ quyết định hình phạt 1.1.1. Khái niệm và các nguyên tắc của quyết định hình phạt 1.1.1.1. Khái niệm quyết định hình phạt Với vị trí là một chế định quan trọng của Luật hình sự, là một hoạt động cơ bản của HĐXX trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, QĐHP được xác định là một khái niệm pháp lý cụ thể. Tuy nhiên, điểm đáng nói là cả BLHS năm 1999 và BLTTHS năm 2003 cũng như các văn bản hướng dẫn thi hành hai bộ luật trên đều không đề cập đến khái niệm QĐHP. Khái niệm này chỉ tồn tại trong lý luận và được đề cập đến trong một số công trình nghiên cứu khoa học. Thực tế này đã phần nào làm cho khái niệm QĐHP chưa đạt được sự thống nhất cao trong khoa học pháp lý hình sự. Nhưng, có thể khẳng định rằng, về cơ bản các cách hiểu đều thể hiện sự đồng nhất về nội dung (bản chất) của khái niệm QĐHP là việc Tòa án lựa chọn loại và mức hình phạt áp dụng đối với người phạm tội. Sự đồng nhất này có thể thấy rõ trong giáo trình Luật hình sự của các trường Đại học và trong một số tài liệu khác. Giáo trình Luật hình sự Việt Nam của Trường Đại học Luật Hà Nội thì: “Quyết định hình phạt là sự lựa chọn loại hình phạt và xác định mức hình phạt cụ thể trong phạm vi luật định để áp dụng đối với người phạm tội cụ thể” [45, tr.201]. Giáo trình Luật hình sự Việt Nam của khoa Luật thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội thì: “QĐHP là việc Tòa án lựa chọn loại hình phạt cụ thể (bao gồm hình phạt chính và có thể cả hình phạt bổ sung) với mức độ cụ thể trong phạm vi luật định để áp dụng đối với người phạm tội” [46, tr.317]. Tác giả Lê Văn Đệ cũng đưa ra khái niệm “QĐHP là sự lựa chọn loại hình phạt và xác định mức hình phạt cụ thể trong phạm vi luật định để áp dụng đối với người phạm tội cụ thể” [21, tr.161]. Hoặc tác giả Đinh Văn Quế có định nghĩa: “QĐHP là việc Tòa án lựa chọn hình phạt buộc người bị kết án phải chấp hành. Tòa án lựa chọn loại hình phạt nào, mức phạt bao nhiêu, phải tuân theo những quy định của BLHS” [34, tr.89]. 8
  14. Nhìn chung, các khái niệm về QĐHP trên đây suy cho cùng đều khẳng định QĐHP là việc Tòa án lựa chọn loại và mức hình phạt trong phạm vi luật định để áp dụng đối với người phạm tội. Việc lựa chọn loại hình phạt được hiểu là chỉ lựa chọn loại hình phạt chính hoặc cả hình phạt chính và hình phạt bổ sung trong số các hình phạt thuộc hệ thống hình phạt mà BLHS đã quy định, với những mức độ cụ thể, phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và nhằm đạt được mục đích của hình phạt. Có thể nói đây chính là nội hàm của khái niệm QĐHP được nhiều người ủng hộ. Ngoài ra, ngay trong cuốn giáo trình Luật hình sự Việt Nam của trường Đại học Luật năm 2001 có đề cập đến khái niệm QĐHP theo nghĩa rộng hơn là quyết định biện pháp xử lý đối với người phạm tội. Theo cách hiểu này, QĐHP không chỉ là việc lựa chọn hình phạt chính và hình phạt bổ sung mà còn bao gồm cả việc quyết định các biện pháp tư pháp nhằm hỗ trợ cho hình phạt được áp dụng đối với người bị kết án. Đánh giá một cách khách quan, các khái niệm trên đây đều đã thể hiện được bản chất của QĐHP. Tuy nhiên, theo quan điểm của tác giả, các khái niệm này còn một số vấn đề cần làm sáng tỏ. Cụ thể là: Thứ nhất, việc sử dụng cụm từ “người phạm tội” trong khái niệm QĐHP nên được thống nhất bằng cụm từ “cá nhân người phạm tội” thì chính xác hơn với đối tượng của QĐHP. Thứ hai, vấn đề cơ bản nhất là các khái niệm QĐHP trên đây chưa thể hiện được đầy đủ phạm vi của QĐHP là bao gồm những nội dung nào. Việc lựa chọn loại và mức hình phạt cụ thể đã bao quát hết nội dung của khái niệm QĐHP chưa? hay việc xác định TNHS, xác định khung hình phạt, miễn TNHS, miễn hình phạt, miễn chấp hành hình phạt, giảm mức hình phạt đã tuyên, quyết định cho hưởng án treo có phải là những nội dung thuộc phạm vi của QĐHP không? Tất cả những vấn đề đó cần được làm sáng tỏ khi xây dựng khái niệm QĐHP. Tuy nhiên, nay BLHS năm 2015 quy định TNHS đối với pháp nhân thương mại, vì vậy cần bổ sung: “cá nhân hoặc pháp nhân thương mai phạm tội.” Trên cơ sở phân tích mối quan hệ giữa định tội danh và QĐHP, các đặc điểm và các nội dung thuộc phạm vi của QĐHP, dưới góc độ luật hình sự và tố tụng hình sự, khái niệm QĐHP có thể được định nghĩa như sau: QĐHP là hoạt động nhận thức và áp dụng pháp luật hình sự, do Tòa án có thẩm quyền (Hội đồng xét xử), nhân danh Nhà nước CHXHCN Việt Nam thực hiện sau 9
  15. khi đã định tội danh và tùy thuộc vào từng trường hợp để quyết định khung hình phạt, loại hình phạt (hình phạt chính, hình phạt bổ sung), mức hình phạt cụ thể áp dụng cho chính cá nhân, pháp nhân thương mại phạm tội trong phạm vi giới hạn của khung hình phạt do luật định, phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội hoặc miễn hình phạt cho người phạm tội theo quy định của BLHS. 1.1.1.2. Các nguyên tắc của quyết định hình phạt Để QĐHP đúng pháp luật, công bằng và đạt được mục đích của hình phạt, cần phải tuân thủ các nguyên tắc QĐHP. Các nguyên tắc QĐHP là một trong những vấn đề quan trọng của QĐHP. Việc nhận thức, vận dụng đúng các nguyên tắc QĐHP trong thực tiễn xét xử giúp Tòa án có thể quyết định đúng pháp luật, công bằng, điều này có ý nghĩa lý luận và thực tiễn rất lớn. Về lý luận, khi làm sáng tỏ những nguyên tắc QĐHP sẽ góp phần vào việc nhận thức được bản chất, nội dung, nguồn gốc, ý nghĩa của chế định hình phạt, phân biệt chúng với các căn cứ QĐHP, để đưa ra phương án tối ưu để thể hiện chúng trong các quy phạm của luật hình sự. Về thực tiễn, các nguyên tắc này là những tư tưởng chỉ đạo, là kim chỉ nam cho hoạt động xét xử của Tòa án để quyết định loại, mức hình phạt đối với từng bị cáo trong từng vụ án cụ thể, là tiền đề, là điều kiện cho việc cải tạo, giáo dục người bị kết án, góp phần vào việc đấu tranh phòng chống tội phạm đạt hiệu quả. Chế định hình phạt có những nét đặc thù riêng, nên khi áp dụng nó, ngoài nguyên tắc chung của ngành luật, còn phải tuân thủ theo các nguyên tắc đặc thù của nó. Như vậy, giữa nguyên tắc chung của Luật hình sự và nguyên tắc QĐHP là mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng. Các nguyên tắc của Luật hình sự là cái chung còn các nguyên tắc QĐHP là cái riêng. Hai nguyên tắc này tồn tại một cách khách quan nhưng có mối liên hệ hữu cơ, bổ sung cho nhau. Nội dung một số nguyên tắc chung của Luật hình sự cũng thể hiện ở nội dung của một số nguyên tắc QĐHP như: nguyên tắc pháp chế, nguyên tắc nhân đạo. Ngoài ra, chế định QĐHP còn có nguyên tắc đặc thù như: nguyên tắc cá thể hóa hình phạt, nguyên tắc công bằng. Sự khác nhau của các nguyên tắc QĐHP với nguyên tắc chung của Luật hình sự ở mức độ cụ thể hóa cao và tính đặc thù nhất định do các đặc điểm của QĐHP chứ không phải sự đối lập mâu thuẫn về nội dung, nó có tính thống nhất khi áp dụng những nguyên tắc này để đưa ra một phán quyết một cách chính xác, công bằng. Như vậy, có thể hiểu các nguyên tắc QĐHP là những tư tưởng được thể hiện 10
  16. trong luật hoặc được làm sáng tỏ bắt nguồn từ việc giải thích luật. Đó là những nguyên lý quan trọng nhất chỉ đạo, xác định và định hướng hoạt động của Tòa án khi áp dụng các chế tài luật hình sự đối với người thực hiện tội phạm. Từ những phân tích trên, có thể định nghĩa các nguyên tắc QĐHP như sau: “Các nguyên tắc QĐHP là những tư tưởng xuất phát, tư tưởng chỉ đạo được quy định trong pháp luật hình sự và do giải thích mà có, xác định và định hướng hoạt động của Tòa án khi áp dụng chế tài luật hình sự đối với người phạm tội” [51, tr.387] Như vậy, nguyên tắc QĐHP là những tư tưởng chỉ đạo đặc thù, buộc Tòa án phải tuân theo khi áp dụng các quy phạm pháp luật hình sự vào QĐHP. Mặc dù không được quy định cụ thể trong luật, nhưng thông qua nội dung của các quy phạm pháp luật hình sự, có thể chỉ ra các nguyên tắc QĐHP hiện nay gồm: - Nguyên tắc pháp chế là một nguyên tắc hết sức quan trọng và cơ bản của quá trình xây dựng và đổi mới pháp luật ở Việt Nam. Nói đến pháp chế tức là nói đến sự triệt để tuân thủ pháp luật từ phía Nhà nước, các tổ chức chính trị, xã hội và của công dân. Nguyên tắc pháp chế có nguồn gốc từ nguyên lý không có tội nếu không có luật. Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa trong Luật Hình sự Việt Nam được thể hiện ở việc xét xử hình sự phải đúng người, đúng tội, không bỏ lọt tội phạm, không xử oan người vô tội, hình phạt phải tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm. Ngoài ra, nguyên tắc pháp chế còn đòi hỏi pháp luật hình sự phải được xây dựng trên những cơ sở khoa học, được xây dựng một cách hoàn thiện, đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Các quy định của Luật hình sự phải được xây dựng một cách cụ thể, chính xác với các dấu hiệu của từng hành vi phạm tội và hậu quả pháp lý của nó. - Nguyên tắc nhân đạo là nguyên tắc quan trọng của pháp luật Hình sự nhằm đảm bảo tính nhân văn, bảo vệ những quyền tối thiểu của con người dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Nguyên tắc này thể hiện bản chất Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Thể hiện tư tưởng vì con người của định hướng đi lên Nhà nước XHCN. Nguyên tắc này thể hiện ở việc áp dụng hình phạt đối với người phạm tội chủ yếu nhằm cải tạo, giáo dục họ trở thành người có ích cho xã hội. Hình phạt không gây đau đớn về thể xác của người 11
  17. phạm tội. Bộ luật hình sự có nhiều quy định tạo điều kiện cho người phạm tội tự cải tạo, có cơ hội để sớm hòa nhập vào cộng đồng như: quy định về miễn TNHS, miễn hình phạt, án treo và một số hình phạt không tước quyền tự do như hình phạt cảnh cáo. - Nguyên tắc công bằng trong quyết định hình phạt được thể hiện ở cả trong phần chung và phần các tội phạm. Nguyên tắc này thể hiện ở chỗ Tòa án phải tuyên hình phạt phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội đã được thực hiện, không phân biệt giới tính, dân tộc, địa vị, tôn giáo, tín ngưỡng, thành phần xuất thân, tình trạng tài sản của người phạm tội. - Nguyên tắc cá thể hóa hình phạt đòi hỏi Tòa án quyết định hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhất là trong trường hợp có yếu tố đồng phạm. 1.1.2. Khái niệm và vai trò của căn cứ quyết định hình phạt 1.1.2.1. Khái niệm căn cứ quyết định hình phạt Theo từ điển Tiếng Việt, căn cứ được hiểu là “cái làm chỗ dựa, làm cơ sở để lập luận hoặc hành động” [47, tr.118]. Vậy, căn cứ QĐHP là gì? Vấn đề này từ trước đến nay chưa được giáo trình Luật hình sự của các cơ sở chuyên đào tạo luật đề cập tới. Đồng thời, trong BLHS cũng như các văn bản hướng dẫn thi hành luật đều chưa có định nghĩa về căn cứ QĐHP mà chỉ quy định về nội dung của căn cứ QĐHP. Tuy nhiên, trong khoa học pháp lý đã có một số tác giả đưa ra định nghĩa về căn cứ QĐHP trong các công trình nghiên cứu riêng của mình. Đây chính là cơ sở quan trọng cho việc phân tích, so sánh, đối chiếu để đưa ra một định nghĩa khoa học, có giá trị pháp lý cao về căn cứ QĐHP. Tác giả Võ Khánh Vinh thì định nghĩa: “Các căn cứ QĐHP là những đòi hỏi cơ bản có tính nguyên tắc do luật hình sự quy định hoặc do giải thích luật mà có, buộc Tòa án phải tuân theo khi QĐHP đối với người thực hiện tội phạm” [51, tr.237]. Tác giả Lê Cảm đã định nghĩa: “Những căn cứ QĐHP là toàn bộ những yêu cầu có tính chất bắt buộc do luật định mà Tòa án phải nghiêm chỉnh tuân thủ khi QĐHP đối với người phạm tội” [13, tr.24]. Các định nghĩa này, nhìn chung đều đã chỉ ra được bản chất của căn cứ QĐHP là những đòi hỏi, yêu cầu có tính bắt buộc Tòa án phải tuân theo khi QĐHP. Song, theo quan điểm của tác giả, các định nghĩa trên đây về căn cứ QĐHP còn một số vấn đề cần được làm sáng tỏ hơn: 12
  18. Thứ nhất, căn cứ QĐHP chỉ được sử dụng để QĐHP khi người phạm tội bị kết án và phải chịu TNHS về hành vi phạm tội của mình. Vì vậy, các khái niệm “người thực hiện tội phạm”, “tội phạm”, “người phạm tội” trong các định nghĩa trên cần được thay bằng khái niệm “người phạm tội bị kết án” để đảm bảo tính thống nhất và chính xác về mặt pháp lý. Thứ hai, tác giả Võ Khánh Vinh cho rằng “các căn cứ QĐHP do giải thích pháp luật mà có” chỉ có thể phù hợp trong giai đoạn mà chúng ta chưa có BLHS hoàn chỉnh. Còn hiện nay, căn cứ QĐHP là cơ sở pháp lý của việc QĐHP thì bắt buộc phải được quy định cụ thể trong BLHS chứ không thể do giải thích mà có. Căn cứ QĐHP là gốc mà dựa vào đó có thể giải thích cho những vấn đề khác có liên quan chứ không thể thông qua giải thích luật để tạo ra các căn cứ QĐHP. Từ khi có BLHS năm 1985, chúng ta đã chính thức loại bỏ việc áp dụng nguyên tắc tương tự pháp luật. Vì vậy, căn cứ QĐHP do giải thích mà có sẽ dẫn đến việc tuỳ tiện, không đảm bảo được tính thống nhất trong nhận thức và áp dụng căn cứ QĐHP. Thứ ba, các định nghĩa trên tuy đều khẳng định căn cứ QĐHP là những yêu cầu, đòi hỏi có tính bắt buộc Tòa án phải tuân thủ khi QĐHP nhưng chưa chỉ ra được tính bắt buộc để làm gì? Nếu chỉ đơn thuần buộc HĐXX phải dựa vào một cách máy móc, rập khuôn để QĐHP đối với người phạm tội thì vô hình chung đã không đánh giá đúng ý nghĩa và mục đích của việc tuân thủ căn cứ QĐHP, một hoạt động nhận thức và áp dụng pháp luật đặc biệt của HĐXX trong quá trình xét xử vụ án hình sự. Trên cơ sở phân tích, đánh giá các định nghĩa này và kết quả nghiên cứu về các đặc điểm của căn cứ QĐHP, có thể đưa ra khái niệm về căn cứ QĐHP như sau: “Căn cứ QĐHP là những đòi hỏi cụ thể, có tính khách quan, do Bộ BLHS quy định mà HĐXX bắt buộc phải tuân thủ để không chỉ đảm bảo cho hình phạt được quyết định một cách khách quan, đúng pháp luật mà còn nhằm đạt được các mục đích của hình phạt ở mức cao nhất khi áp dụng đối với người phạm tội bị kết án”. 1.1.2.2. Vai trò của căn cứ quyết định hình phạt Dựa vào các đặc điểm và khái niệm nêu trên, có thể thấy các căn cứ QĐHP có những vai trò sau: Căn cứ QĐHP là cơ sở pháp lý để Tòa án QĐHP tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội. Tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm thể hiện ở chỗ tội phạm đã gây ra 13