Luận văn Các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn áp dụng tại quận Thanh Xuân Thành phố Hà Nội

pdf 81 trang vuhoa 23/08/2022 9140
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn áp dụng tại quận Thanh Xuân Thành phố Hà Nội", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_cac_bien_phap_ngan_chan_theo_phap_luat_to_tung_hinh.pdf

Nội dung text: Luận văn Các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn áp dụng tại quận Thanh Xuân Thành phố Hà Nội

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI LÊ THỊ THU NGUYỆT CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI QUẬN THANH XUÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI Chuyên ngành : Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số : 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Hồ Sỹ Sơn Hà Nội - 2017
  2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi, được hoàn thành dưới sự hướng dẫn của PGS.TS. Hồ Sỹ Sơn, các số liệu, kết luận, trích dẫn được đưa ra trong luận văn là trung thực, chưa được công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào khác. Tác giả luận văn Lê Thị Thu Nguyệt
  3. MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ 7 1.1. Khái niệm và ý nghĩa của các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự 7 1.2. Các yếu tố tác động đến việc quy định và áp dụng các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự 11 1.3. Khái quát lập pháp tố tụng hình sự Việt Nam về các biện pháp ngăn chặn đến trước khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 15 Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM NĂM 2003 VỀ CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN THANH XUÂN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI 20 2.1. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về các biện pháp ngăn chặn 20 2.2. Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về các biện pháp ngăn chặn trên địa bàn quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội 33 Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM 54 3.1. Tăng cường nhận thức về các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự 54 3.2. Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự 60 3.3. Tăng cường hướng dẫn các quy định về biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự 66 3.4. Kiện toàn tổ chức, bộ máy của các cơ quan bảo vệ pháp luật của quận Thanh Xuân; nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong áp dụng các biện pháp ngăn chặn theo tố tụng hình sự hiện nay 68 3.5. Tăng cường sự phối hợp giữa Tòa án, Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra và các cơ quan hữu quan khác trong việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự 69 3.6. Tăng cường tuyên truyền, phố biến, giáo dục pháp luật về các biện pháp ngăn chặn 70 KẾT LUẬN 72 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 74
  4. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BPNC : Biện pháp ngăn chặn BLHS : Bộ luật hình sự BLTTHS : Bộ luật tố tụng hình sự CQĐT : Cơ quan điều tra TTHS : Tố tụng hình sự VKS : Viện kiểm sát XHCN : Xã hội chủ nghĩa
  5. DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu Tên bảng Trang bảng 2.1 Kết quả áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt người trong các 35 vụ án hình sự từ năm 2012 đến năm 2016 2.2 Số liệu người bị tạm giữ so với người bị khởi tố bị can từ 38 năm 2012 đến năm 2016 2.3 Số liệu áp dụng BPNC tạm giam trên địa bàn quận Thanh 39 Xuân trong giai đoạn từ 2012 đến 2016
  6. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Các biện pháp ngăn chặn (BPNC) là một trong những chế định quan trọng của luật tố tụng hình sự (TTHS). Việc áp dụng các BPNC có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình giải quyết vụ án hình sự và hiệu quả trong công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm. Tuy nhiên, việc áp dụng các BPNC luôn gắn liền với những hạn chế quyền, lợi ích hợp pháp của công dân được ghi nhận và bảo đảm trong Hiến pháp. Điều 20 Hiến pháp năm 2013 quy định: “1. Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm. 2. Không ai bị bắt nếu không có quyết định của Toà án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của VKS nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt, giam, giữ người do luật định”.[19] Như vậy, quy định này của Hiến pháp đảm bảo mọi người không bị bắt giữ, tước tự do một cách tùy tiện. Vì vậy, khi áp dụng biện pháp bắt cũng như các biện pháp ngăn chặn khác đòi hỏi phải hết sức thận trọng, đúng căn cứ pháp luật mà pháp luật TTHS quy định. Thực tế chỉ ra rằng, việc áp dụng các BPNC trong TTHS không đúng không chỉ xâm phạm các quyền cơ bản của công dân, gây nên những khó khăn nhất định cho việc giải quyết vụ án hình sự, mà còn tạo dư luận xã hội không tốt và có thể dẫn đến những hậu quả như bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô tội, vi phạm nguyên tắc pháp chế XHCN. Từ thực tiễn áp dụng các BPNC của cơ quan tiến hành tố tụng tại quận Thanh Xuân trong 5 năm từ năm 2012 đến năm 2016 cho thấy, các biện pháp này, đặc biệt là biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam được áp dụng khá phổ biến trong các vụ án hình sự. Việc áp dụng chúng trong nhiều trường hợp đã ngăn chặn kịp thời hành vi phạm tội, chặn đúng hành vi trốn tránh pháp luật của bị 1
  7. can, bị cáo hoặc bảo đảm cho việc thi hành án đạt hiệu quả. Kết quả đấu tranh đó đã đem lại nhiều kinh nghiệm hay cần được tổng kết để bổ sung cho lý luận và nhân rộng trong thực tiễn. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn một số vi phạm ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả điều tra tội phạm, xâm phạm các quyền cơ bản của công dân, gây dư luận xấu trong nhân dân, ảnh hưởng đến uy tín của Đảng, Nhà nước và các cơ quan tiến hành tố tụng. Nguyên nhân của tình hình trên có nhiêu, nhưng chủ yếu do các quy định của pháp luật TTHS còn nhiều “lỗ hổng”, thiếu chặt chẽ, chồng chéo, dẫn đến những khó khăn trong việc áp dụng pháp luật. Bên cạnh đó, trình độ của một số người làm công tác áp dụng các quy định này còn chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ trong hình hình mới. Nắm vững nội dung, thẩm quyền, thủ tục áp dụng các BPNC sẽ có tác dụng tốt giúp các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng áp dụng đúng pháp luật, hạn chế tối đa vi phạm các quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân mà Hiến pháp và luật đã quy định. Hơn nữa, việc đảm bảo quyền con người trong TTHS nói chung và trong việc áp dụng BPNC nói riêng sẽ góp phần bảo đảm pháp chế XHCN, tăng cường sự tin tưởng của nhân dân vào hoạt động của các cơ quan nhà nước, tạo cơ sở vững chắc để xây dựng xã hội ổn định, văn minh. Từ những phân tích, lập luận trên tác giả quyết định chọn vấn đề “Các BPNC theo pháp luật TTHS Việt Nam và thực tiễn áp dụng tại quận Thanh Xuân thành phố Hà Nội” làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học, với mong muốn góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng các BPNC trong TTHS trên một địa bàn cụ thể. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Những vấn đề liên quan đến BPNC trong TTHS đã được một số nhà luật học, cũng như một số cán bộ làm công tác thực tiễn nghiên cứu trong những năm vừa qua. 2
  8. Đầu tiên có thể kế đến cuốn "Những điều cần biết về bắt người, tạm giữ, tạm giam đúng pháp luật" của Phạm Thanh Bình - Nguyễn Vạn Nguyên, Nxb Chính trị quốc gia, 1993; cuốn "Các BPNC và những vấn đề nâng cao hiệu quả của chúng" của Nguyễn Vạn Nguyên, Nxb Công an nhân dân, 1995. Luận án tiến sĩ luật học của tác giả Nguyễn Văn Điệp “Các biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam trong TTHS Việt Nam – Thực trạng, nguyên nhân và giải pháp” bảo vệ tại Viện Nhà nước và pháp luật năm 2003. Luận văn thạc sĩ: Các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn áp dụng tại thành phố Đà Nẵng, của Nguyễn Thùy Linh, Học viện khoa học xã hội năm 2015. Bên cạnh đó còn có một số sách báo, tạp chí chuyên ngành luật đã nghiên cứu về các BPNC theo TTHS đã được đăng tải như: Tác giả Nguyễn Đức Mai với bài viết “Áp dụng các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự(BLTTHS) về thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên phạm tội”, tạp chí Kiểm sát số 6/2007; Tác giả Vũ Thành Long với bài viết “Bàn về BPNC, bắt giam giao bị cáo sau khi tuyên án “ Tạp chí Kiểm sát số 5/2007; Tác giả Phạm Việt Hưng với bài viết “Cần sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTHS năm 2003 về BPNC cấm đi khỏi nơi cư trú” Tạp chí Kiểm sát số 7/2010; Tác giả Hoàng Việt Quang với bài “Cần thay đổi BPNC "cấm đi khỏi nơi cư trú" bằng biện pháp "trình diện" Tạp chí Kiểm sát số 17/2011; Tác giả Mai Đắc Biên, Mai Ngọc Hải với bài “Chế định BPNC trong BLTTHS năm 2015 “ Tạp chí Kiểm sát số 5/2016; Tác giả Vũ Gia Lâm với bài “Hoàn thiện một số quy định của BLTTHS nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng BPNC”, Tạp chí Luật học số 9/2012; Các công trình nghiên cứu trên đã đề cập đến một số vấn đề lý luận và thực tiễn về BPNC, tuy nhiên hầu hết các công trình mới chỉ đề cập đến lý luận về BPNC và các giải pháp hoàn thiện chế định này mà chưa có công trình nào nghiên cứu thực tiễn áp dụng biện pháp này trên thực tiễn, những tồn tại, hạn chế, vướng mắc trong áp dụng BPNC trên một địa bàn cụ thể là quận Thanh 3
  9. Xuân, Hà Nội. Chính vì vậy, việc lựa chọn đề tài có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở làm sáng tỏ một cách có hệ thống những vấn đề lý luận liên quan đến BPNC trong TTHS hiện hành, thực tiễn áp dụng BPNC trên địa bàn quận Thanh Xuân, luận văn đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng BPNC trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự trên địa bàn quận Thanh Xuân. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích trên, luận văn đặt ra và tập trung giải quyết một số nhiệm vụ sau: - Phân tích làm sáng tỏ một những đề lý luận về các BPNC; - Phân tích các quy định của pháp luật TTHS về BPNC liên quan đến đối tượng, thẩm quyền, điều kiện, thủ tục áp dụng; - Phân tích thực tiễn áp dụng BPNC trên địa bàn quận Thanh Xuân thành phố Hà Nội ở những khía cạnh như kết quả đạt được và nguyên nhân, những hạn chế, khó khăn và nguyên nhân. - Đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về BPNC và nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp này trên thực tế. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn lấy các quan điểm khoa học, các quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về các BPNC, thực tiễn áp dụng các biện pháp đó trên địa bàn quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội để nghiên cứu các vấn đề thuộc nội dung nghiên cứu của đề tài. 4
  10. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Đề tài được nghiên cứu dưới góc độ luật hình sự và tố tụng hình sự, song chỉ nghiên cứu những quy định của pháp luật TTHS về thẩm quyền, đối tượng, thời hạn, thủ tục áp dụng các BPNC trong BLTTHS năm 2003 và thực tiễn áp dụng tại quận Thanh Xuân từ năm 2012 đến năm 2016. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước và pháp luật, trong đó có vấn đề áp dụng BPNC. Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của khoa học luật hình sự, luật TTHS các tài liệu tham khảo từ các công trình nghiên cứu của các tác giả khác . 5.2. Phương pháp nghiên cứu Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: Thống kê, phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu với các quy phạm pháp luật hiện hành, phương pháp tham khảo ý kiến chuyên gia 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Với việc làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn của cácBPNCluận văn góp phần nhận thức thống nhất và sâu sắc hơn các BPNC trong tố tụng hình sự Việt Nam. Với việc đánh giá đúng thực tiễn áp dụng các BPNC trên địa bàn quận Thanh Xuân, đánh giá những thành tựu và nguyên nhân, những khó khăn, bất cập và nguyên nhân, luận văn rút ra được những đề xuất có cơ sở lý luận và thực tiễn. Những đề xuất này có giá trị tham khảo trong áp dụng của các cơ quan tiến hành tố tụng trên địa bàn. Đề tài có giá trị làm tài liệu tham khảo và học tập đối với các sinh viên, học viên luật, người làm thực tiễn tại các Cơ quan điều tra (CQĐT), Viện kiểm sát (VKS), Tòa án, cán bộ nghiên cứu 5
  11. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài được kết cấu thành 3 chương, cụ thể như sau: Chương 1: Những vấn đề lý luận về các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự Việt Nam Chương 2: Các quy định của bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 2003 về các biện pháp phòng ngừa và thực tiễn áp dụng tại quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội Chương 3: Các yêu cầu và giải pháp bảo đảm hiệu quả của các biện pháp ngăn chặn trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam 6
  12. Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ 1.1. Khái niệm và ý nghĩa của các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự Các BPNC là một trong những chế định pháp lý quan trọng được quy định tại chương VI của BLTTHS năm 2003. Việc nhận thức thống nhất, đồng thời quy định và áp dụng đúng đắn các BPNC là bảo đảm cần thiết cho việc thực hiện tốt các nhiệm vụ của TTHS để phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Trong lịch sử pháp luật TTHS Việt Nam, mặc dù chưa có quy phạm định nghĩa về khái niệm BPNC, nhưng các BPNC đã được quy định trong các văn bản pháp luật TTHS nước ta ngày từ sau Cách mạng tháng Tám. Sắc lệnh số 02- SL ngày 18/6/1957 của Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà quy định “những trường hợp phạm tội quả tang và trường hợp khẩn cấp” và Sắc lệnh số 02-SL ngày 15/3/1976 của Chính phủ cách mạng lâm thời cộng hoà miền Nam Việt Nam đã quy định các BPNC: “bắt bình thường, bắt khẩn cấp, bắt người phạm pháp quả tang, tạm giữ và tạm giam”. Tuy nhiên, trong các văn bản pháp luật này không có quy phạm định nghĩa về BPNC mà dùng thuật ngữ biện pháp cưỡng chế để chỉ nội dung các BPNC trong luật TTHS thời bấy giờ. Trong khoa học luật TTHS, việc nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn hình thành khái niệm các BPNC đã và đang có nhiều quan đểm khác nhau giữa các nhà nghiên cứu pháp luật. Sau đây, tác giả luận văn này xin trích dẫn một số quan điểm phổ biến: Có quan điểm cho rằng, “những BPNC là những biện pháp cưỡng chế trong TTHS được áp dụng đối với bị can, bị cáo hoặc đối với người chưa bị khởi 7
  13. tố (trong trường hợp bị bắt trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang) nhằm ngăn chặn hành vi nguy hiểm cho xã hội của họ tiếp tục phạm tội, trốn tránh pháp luật hoặc có hành động gây cản trở cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án” [4, tr.36]. Khái niệm này đã nêu ra được đối tượng bị áp dụng BPNC, mục đích áp dụng BPNC tuy nhiên lại chưa làm rõ được chủ thể áp dụng các BPNC. Đặc biệt, trong khái niệm đã nêu chưa có sự phân biệt rõ giữa mục đích và căn cứ áp dụng. Theo một quan điểm khác khẳng định: “những BPNC được áp dụng trong hoạt động TTHS là biện pháp do luật định được thực hiện khi xét thấy cần thiết nhằm ngăn chặn kẻ phạm tội đang có hành vi thực hiện tội phạm hoặc tiếp tục thực hiện tội phạm, loại trừ việc bị can, bị cáo gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử và ngăn ngừa bị can, bị cáo, người bị kết án trốn tránh để đảm bảo cho việc thi hành án được thực hiện” [13, tr.98]. Theo chúng tôi, quan điểm này đã có những nhận xét đúng đắn là các BPNC chỉ áp dụng khi xét thấy cần thiết nhằm ngăn chặn người phạm tội đang có hành vi thực hiện tội phạm, loại trừ việc bị can, bị cáo gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử, Đây là vấn đề rất cơ bản nhằm phân biệt các BPNC với biện pháp hình phạt là chế tài hình sự. Không phải tất cả mọi trường hợp người phạm tội đều bị áp dụng BPNC. Tuy nhiên, trong khái niệm này chưa nêu được chủ thể nào có quyền áp dụng BPNC cũng như những vấn đề khác liên quan đến căn cứ và điều kiện áp dụng các BPNC. Cũng có quan điểm cho rằng, “BPNC là biện pháp do CQĐT, VKS, Toà án áp dụng đối với người bị tình nghi phạm tội, đối với bị can, bị cáo và cả người bị kết án khi các cơ quan này có căn cứ cho rằng những người này sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hoặc sẽ tiếp tục phạm tội” [41, tr.502-503]. Nếu so sánh với các quan điểm đã nêu ở trên, thì khái niệm này đã phần nào đề cập đến bản chất của các BPNC được quy định trong BLTTHS, 8
  14. đồng thời đã nêu được tính chất của các BPNC, cơ quan có thẩm quyền áp dụng, đối tượng và căn cứ áp dụng BPCN. Trong BLTTHS Việt Nam hiện hành, mặc dù nhà làm luật không đưa ra một khái niệm về BPNC, song tại Điều 79 BLTTHS 2003 quy định: “để kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội, cũng như khi cần bảo đảm thi hành án, thì CQĐT, VKS hoặc Toà án có thể áp dụng một trong những BPNC sau đây: bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm” [17]. Phân tích lời văn của điều luật trên đây có thể thấy các căn cứ đó cũng đã phản án một phần bản chất của BPNC trong pháp luật TTHS Việt Nam. Tuy nhiên, BPNC là biện pháp cưỡng chế rất nghiêm khắc của TTHS, do vậy trong khái niệm về BPNC đòi hỏi phải có sự phân định rõ ràng về chủ thể áp dụng, về thẩm quyền áp dụng, về đối tượng bị áp dụng, về căn cứ và mục đích áp dụng liên quan đến các vấn đề nêu trên đây cũng có quan điểm cho rằng. Giáo trình luật TTHS Việt Nam–Trường Đại học Luật Hà Nội cho rằng: “BPNC là biện pháp cưỡng chế trong TTHS áp dụng với bị can, bị cáo, người phạm tội quả tang và người cần phải bắt trong trường hợp khẩn cấp. Nhằm kịp thời ngăn chặn tội phạm của họ, ngăn chặn người đó gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử và tiếp tục phạm tội hoặc trốn”. [28, tr.189] Theo một quan điểm khác BPNC là một loại biện pháp do CQĐT, VKS và Toà án áp dụng đối với người bị tình nghi phạm tội, đối với bị can, bị cáo và cả người bị kết án khi các cơ quan này có căn cứ cho rằng những người này sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hoặc tiếp tục phạm tội. BPNC gồm: bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm. [41, tr.511] Rõ ràng, các sách báo, tài liệu nêu trên cũng đã đề cập được khía cạnh này hay khía cạnh khác về các BPCN, nhưng nhìn chung vẫn chưa đưa ra được một 9
  15. khái niệm đầy đủ, khoa học chứa đựng tất cả các yếu tố cấu thành của BPNC thể hiện ở các dấu hiệu đặc trưng như căn cứ áp dụng, mục đích, thẩm quyền áp dụng và đối tượng bị áp dụng BPCN. Vì vậy, chúng tôi cho rằng, một khái niệm hoàn chỉnh, chính xác về các BPCN thì trong khái niệm đó còn phải bao hàm tất cả các đấu hiệu đặc trưng của các BPCN như: căn cứ áp dụng, mục đích áp dụng, thẩm quyền áp dụng và đối tượng áp dụng BPNC. Từ những phan tích khái quát trên đây có thể nêu ra khái niệm BPNC, theo đó: BPNC là những biện pháp cưỡng chế TTHS do cơ quan hoặc người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật áp dụng đối với bị can, bị cáo hoặc đối với người chưa bị khởi tố, khi có căn cứ do BLTTHS quy định, nhằm kịp thời ngăn chặn tội phạm, ngăn chặn việc bị can, bị cáo gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hoặc ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội. BPNC gồm: bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm. Trên thực tế đấu tranh phòng, chống tội phạm, người thực hiện tội phạm nói chung luôn mong muốn trốn tránh khỏi sự trừng phạt của pháp luật nên yêu cầu của cuộc đấu tranh chống tội phạm là buộc áp dụng các BPNC trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, phục vụ cho mục đích của TTHS. Cho nên việc áp dụng BPNC bao giờ cũng có ý nghĩa sâu sắc, có thể nói lý do áp dụng BPNC là: Thứ nhất, cho phép loại bỏ những trở ngại trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ của TTHS như không cho tội phạm cản trở hoạt động điều tra, truy tố, xét xử; đảm bảo việc thi hành án đối với người phạm tội, buộc họ phải chịu hình phạt của pháp luật. Đây là một trong những mục đích quan trọng của TTHS cần đạt được. Việc điều tra, truy tố, xét xử sẽ trở nên vô nghĩa khi người phạm tội tránh được hình phạt của pháp luật. Vì vậy, một trong những yêu cầu đặt ra cho TTHS, như quy định tại Điều 13 BLTTHS năm 2003 phải là: “khi phát hiện có đấu hiệu tội phạm thì CQĐT, VKSND và Toà án trong phạm vi quyền hạn của 10
  16. mình có trách nhiệm khởi tố vụ án và áp dụng các biện pháp của Bộ luật này quy định để xác định tội phạm và xử lý người phạm tội” [17]. Thứ hai, góp phần bảo vệ có hiệu quả quyền lợi của nhà nước, xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Thực tế chỉ ra nếu không áp dụng BPNC đối với những người cần áp dụng thì họ vẫn tiếp tục thực hiện tội phạm, tiếp tục có hành vi gây nguy hiểm cho xã hội. Thứ ba, góp phần tăng cường pháp chế và củng cố trật tự pháp luật ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Muốn xây dựng xã hội mới, đòi hỏi mọi công dân sống trong xã hội phải tuyệt đối tuân thủ pháp luật. Tuy nhiên, pháp luật sẽ không được tuân thủ khi các công dân tỏng xã hội không nắm được những điều mà pháp luật quy định. Chính vì vậy, một trong những yêu cầu đặt ra trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền là giáo dục công dân nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật và tôn trọng những quy tắc của cuộc sống XHCN. Việc áp dụng BPNC trong TTHS cũng góp phần đạt được điều này. 1.2. Các yếu tố tác động đến việc quy định và áp dụng các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự 1.2.1. Các yếu tố tác động đến quy định các biện pháp ngăn chặn trong luật tố tụng hình sự Trong hoạt động lập pháp, các quy định về các BPNC được quy định trong khá nhiều văn bản khác nhau của Nhà nước ta. Đây là một vấn đề lớn, rất quan trọng nhưng cũng rất phức tạp bởi vì nó liên quan trực tiếp đến sinh mạng chính trị của con người. Có nhiều yếu tố tác động đến việc quy định các BPNC trong luật TTHS Việt Nam, đầu tiên là sự dựa trên pháp luật Việt Nam, đến thực trạng và sự cần thiết phải áp dụng các BPNC trên thực tế và trình độ, năng lực của nhà làm luật nước ta. Thứ nhất, pháp luật nước Cộng hòa XHCN Việt Nam tác động rất lớn đến việc quy định các BPNC trong luật TTHS Việt Nam. 11
  17. Đầu tiên là Hiến pháp, theo đó Điều 14 của Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 2013 khẳng định: “1. Ở nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật. 2. Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”.[19] Tiếp theo, Điều 20 Hiến pháp năm 2013 cũng quy định: “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nàokhác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm. [19]” Xuất phát từ các quy định của Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam qua các năm (1946, 1959, 1980, 1992 và 2013) đã quy định những nền tảng cơ bản cho việc quy định và áp dụng các BPNC mà các BLTTHS năm 1988, 2003 cũng như một số văn bản pháp luật khác đã chi tiết hoá các quy định của Hiến pháp thành các điều luật cụ thể cũng như các hướng dẫn thực hiện các quy định của luật về các BPNC. Bên cạnh đó, Luật hình sự là luật nội dung, luôn đi kèm với nó là luật hình thức. Sự ra đời của BLHS 1999, với rất nhiều sự thay đổi trong các quy định ở phần chung và phần riêng, đòi hỏi các quy phạm của pháp luật TTHS cũng phải thay đổi cho phù hợp. Chính vì vậy, BLTTHS 2003 đã được ra đời với rất nhiều sự sửa đổi, bổ sung mới trong quy định về trình tự, thủ tục của việc khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự nói chung và về các BPNC nói riêng. Thứ hai, từ yêu cầu thực tế của công tác đấu tranh phòng chống tội phạm nước ta cũng tác động rất lớn đến việc quy định các BPNC trong TTHS. 12
  18. Trong thực tiễn hoạt động TTHS, đã có những thời điểm mà việc áp dụng BPNC này hay BPNC khác đã trở thành những vấn đề nổi cộm, ví dụ như việc áp dụng biện pháp bắt trong trường hợp khẩn cấp. Đã có thời điểm vì việc bắt khẩn cấp tràn lan, bắt không đúng đối tượng, không đúng thủ tục, không đúng thẩm quyền, lấy việc bắt thay cho điều tra, dẫn đến việc bắt oan, bắt sai xảy ra nhiều, vì vậy có quan điểm cho rằng cần phải bỏ biện pháp bắt khẩn cấp. Tuy nhiên, bắt người trong trường hợp khẩn cấp là biện pháp cần thiết dùng để ngăn chặn ngay người có hành vi chuẩn bị thực hiện tội phạm đặc biệt nghiêm trọng hoặc rất nghiêm trọng, cũng như khi xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người phạm tội trốn hoặc tiêu huỷ chứng cứ của vụ án. Bắt khẩn cấp giữ vị trí quan trọng như vậy nên không thể nào loại bỏ nó trong quy định về các trường hợp của BPNC bắt. Thứ ba, trình độ năng lực của các nhà làm luật cũng ảnh hưởng đến việc quy định các BPNC trong TTHS. Việc quy định, sắp xếp các điều luật nói chung cũng như các BPNC nói riêng một cách đầy đủ, khoa học, dễ hiểu, mang tính ổn định, kỹ thuật lập pháp cao sẽ đem lại hiệu quả phòng ngừa và đấu tranh loại bỏ với tội phạm. Ngược lại, việc quy định các quy phạm pháp luật chồng chéo, không đầy đủ, khó hiểu, mang tính tức thời, sẽ dẫn đến việc áp dụng sai các BPNC, gây lung túng, khó khăn cho cơ quan, người áp dụng, và nhất là ảnh hưởng đến công tác điều tra, tìm ra sự thật của vụ án hình sự. 1.2.2. Các yếu tố tác động đến việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong luật tố tụng hình sự Việt Nam Việc áp dụng các BPNC trong vụ án hình sự là hoạt động tố tụng vô cùng phức tạp, bởi nó ảnh hưởng trực tiếp đến những quyền cơ bản của con người. Vì thế, khi áp dụng BPNC đòi hỏi phải hết sức thận trọng, phải đúng với những quy định của pháp luật TTHS. Với tính chất quan trọng như vậy, việc áp dụng các BPNC đòi hỏi phải dựa trên rất nhiều yếu tố sau đây: 13
  19. - Chất lượng của các quy phạm pháp luật TTHS về các BPNC trong TTHS Các quy phạm pháp luật về các BPNC được quy định tại Chương VI của Bộ luật TTHS Việt Nam. Chất lượng của những quy phạm này ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả của việc áp dụng các BPNC trong từng vụ án hình sự cụ thể. BLTTHS năm 2003 đã sửa đổi, bổ sung thêm rất nhiều quy định về thẩm quyền, trình tự, thủ tục của việc áp dụng các BPNC, điều này dẫn đến góp phần làm cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử được nhanh chóng, chính xác hơn. Tuy nhiên, vẫn còn một số quy định, giải thích và hướng dẫn quy phạm pháp luật về các BPNC còn có những nội dung chưa hợp lý làm cho việc áp dụng trong trường hợp cụ thể trở nên khó khăn, không đúng dễ đẫn đến oan, sai. - Chất lượng của các quy phạm pháp luật TTHS về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, cá nhân có thẩm quyền áp dụng các BPNC; mối quan hệ tố tụng liên quan đến thẩm quyền quản lý hành chính với trách nhiệm, quyền hạn TTHS trong các cơ quan tiến hành TTHS. Những chủ thể nào có thẩm quyền áp dụng các BPNC đối với bị can, bị cáo trong từng vụ án hình sự là điều vô cùng quan trọng. Bởi việc quy định cá nhân, tổ chức nào có thể áp dụng BPNC ảnh hưởng rất lớn đến quy trình, thủ tục, tiến độ cũng như sự công tư, minh bạch để tìm ra sự thật của vụ án. - Năng lực, trách nhiệm, ý thức của người áp dụng các BPNC TTHS là một lĩnh vực ảnh hưởng trực tiếp đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, những quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Do đó, người được lựa chọn làm công tác điều tra phải là những con người đảm bảo về năng lực và phẩm chất theo quy định, nhằm mang lại hiệu quả cao nhất cho hoạt động điều tra không để xảy ra oan, sai. Việc áp dụng các BPNC trong từng vụ án hình sự chịu tác động không nhỏ bởi yếu tố năng lực, trách nhiệm, ý thức của người áp dụng các BPNC đó. Điều tra viên là những người trực tiếp tiến hành tố tụng được quy định trong 14
  20. pháp luật TTHS nhưng họ không có quyền áp dụng BPNC mà chỉ có trách nhiệm, nghĩa vụ tham mưu cho Thủ trưởng, Phó thủ trưởng CQĐT các cấp trong việc áp dụng các BPNC. Nếu điều tra viên nắm vững pháp luật TTHS, có năng lực chuyên môn cũng như kinh nghiệm cao sẽ giúp Thủ trưởng, Phó thủ trưởng hạn chế thấp nhất những sai lầm, thiếu sót trong quá trình áp dụng các BPNC bắt người, tạm giữ, tạm giam, Ngược lại nếu Điều tra viên chưa nắm vững các quy định của pháp luật TTHS về đối tượng áp dụng, căn cứ áp dụng, thẩm quyền, thủ tục và thời hạn áp dụng các BPNC, cũng như các văn bản hướng dẫn thi hành, hoặc sự hiểu biết còn hạn chế thì rất dễ dẫn đến việc áp dụng các BPNC một cách tuỳ tiện, không đầy đủ và thiếu chính xác. 1.3. Khái quát lập pháp tố tụng hình sự Việt Nam về các biện pháp ngăn chặn đến trước khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 Cũng như các biện pháp cưỡng chế nhà nước khác, BPNC trong TTHS của Nhà nước CHXHCN Việt Nam cũng có quá trình phát triển qua từng giai đoạn, gắn liền với lịch sử hình thành của cách mạng Việt Nam. Ngày 2/9/1945 nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời. Ngay từ những ngày đầu tiên, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của chủ tịch Hồ Chí Minh, Nhà nước Việt Nam cùng với việc củng cố chính quyền cách mạng đã quan tâm đặc biệt đến việc xây dựng hệ thống pháp luật, trong đó có các văn bản pháp luật TTHS. Mặc dù kinh nghiệm xây dựng pháp luật còn non trẻ, nhưng những quy định về bắt giữ hoặc giam người lại được xây dựng ngay nhằm tránh những sai lầm có thể xảy ra trong quá trình thực hiện thủ tục TTHS. Trong sắc lệnh số 33A và sắc lệnh số 33B ngày 13/9/1945 định thể lệ cho Ty liêm phóng và Sở cảnh sát tuân theo mỗi khi bắt một người nào đó đã quy định: “khi Ty liêm phóng và Sở cảnh sát bắt một người nào thì tỏng vòng 24h phải lập biên bản để hoặc thả ngay, hoặc đưa sang Toà án quân sự, hoặc đưa sang Ông Biện lý Toà án tư pháp. Nếu ông Chánh liêm phóng hay Cảnh sát trưởng tha bị cáo, thì biên bản phải nói rõ những lý do” [24, tr.39]. Như vậy, việc bắt hay tha một người không thể tiến 15
  21. hành một cách tuỳ tiện, mà chỉ những người có thẩm quyền mới được bắt, giam hoặc tha người [24, tr.162]. Nhiều thông tư quy định về BPNC như Thông tư số 27-NV/CA ngày 2/5/1946 của Bộ Nội vụ về việc đảm bảo quyền tự do cá nhân; Thông tư số 208- NV/PC ngày 27/5/1946 của Liên Bộ nội vụ - Tư pháp về trách nhiệm của hành chính tư pháp trong việc bắt giam, Như vậy, những biện pháp tương tự như BPNC hiện nay như bắt người, tạm giam, cấm lưu trú, di cư bắt buộc, đặt tiền hoặc tài sản để đảm bảo đã thể hiện sự quan tâm và bảo vệ triệt để quyền tự do cá nhân của công dân đã được quy định ngày từ đầu những năm đầu tiên của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Việc bắt hay giam người không thể được tiến hành một cách tuỳ tiện, ngay trong Hiến pháp năm 1946, Điều 11 đã quy định rất rõ ràng: “Tư pháp chưa quyết định thì không được bắt bớ và giam cầm người công dân Việt Nam. Nhà ở và thư tín của công dân Việt Nam không ai được xâm phạm một cách trái pháp luật” [24, tr.155]. Giai đoạn từ 1947 đến 1954 là giai đoạn của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, cho nên việc điều tra những người phạm pháp có những khó khăn nhất định, giao thông đi lại khó khăn, việc xác minh lại các vùng địch chiếm đóng không được thuận lợi. Đối với những người có biểu hiện nghi vấn cần phải có thời gian để làm rõ mới có thể quyết định được việc giam cứu. Khắc phục tình trạng này, một loạt các văn bản TTHS đã quy định về việc tạm giữ người bị tình nghi phạm pháp như Thông tư số 102-NV/TP/CP ngày 25/12/1947 của Liên Bộ nội vụ - Tư pháp về việc Uỷ ban kháng chiến kiêm hành chính tỉnh có thể uỷ nhiệm cho Uỷ ban kháng chiến kiêm hành chính huyện để ra lệnh tạm giữ những người bị tình nghi về tội chính trị [24, tr.173]. Sau năm 1954 để đảm bảo cho hoạt động TTHS được thuận lợi, một số văn bản pháp luật quy định việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế trên cơ sở bảo vệ quyền tự do thân thể và quyền bất khả xâm phạm đối với nhà ở, đồ vật, thư tín của nhận dân được ban hành như: Luật số 103/SL-L005 ngày 20/5/1957 về 16