Luận văn Bồi thường thiệt hại trong pháp luật lao động Việt Nam và thực tiễn áp dụng trên địa bàn Thành phố Đà Nẵng

pdf 78 trang vuhoa 23/08/2022 9860
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Bồi thường thiệt hại trong pháp luật lao động Việt Nam và thực tiễn áp dụng trên địa bàn Thành phố Đà Nẵng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_boi_thuong_thiet_hai_trong_phap_luat_lao_dong_viet.pdf

Nội dung text: Luận văn Bồi thường thiệt hại trong pháp luật lao động Việt Nam và thực tiễn áp dụng trên địa bàn Thành phố Đà Nẵng

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ BÍCH NGA BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI TRONG PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG VIỆT NAM VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Hà Nội – 2014
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ BÍCH NGA BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI TRONG PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG VIỆT NAM VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG Chuyên ngành: Luật kinh tế Mã số: 60.38.01.07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. BÙI NGỌC CƯỜNG Hà Nội – 2014
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu do chính tôi thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của Tiến sỹ Bùi Ngọc Cường. Luận văn có kế thừa các tư tưởng, kết quả nghiên cứu của những người đi trước. Mọi thông tin, số liệu được sử dụng trong Luận văn là trung thực và có trích dẫn nguồn đầy đủ. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! Tác giả luận văn Nguyễn Thị Bích Nga
  4. MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN MỤC LỤC DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT MỞ ĐẦU 1 1. Đặt vấn đề 1 2. Nội dung, địa điểm và phương pháp nghiên cứu 6 3. Bố cục luận văn 7 Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI TRONG PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG VÀ SỰ ĐIỀU CHỈNH PHÁP LUẬT 8 1.1 Khái quát chung về bồi thường thiệt hại trong pháp luật lao động 8 1.1.1. Quan niệm về bồi thường thiệt hại trong pháp luật lao động 8 1.1.1.1. Định nghĩa 8 1.1.1.2. Ý nghĩa, vai trò của bồi thường thiệt hại trong pháp luật lao động 9 1.2. Điều chỉnh pháp luật lao động về bồi thường thiệt hại 10 1.2.1. Khái niệm pháp luật về bồi thường thiệt hại 10 1.2.2. Nguyên tắc thực hiện bồi thường thiệt hại 15 1.2.3. Nội dung thực hiện bồi thường thiệt hại 18 Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG VIỆT NAM VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI, THỰC TIỄN THỰC HIỆN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG 22 2.1. Lược sử quá trình hình thành và phát triển của các quy định pháp luật lao động Việt Nam về bồi thường thiệt hại 22
  5. 2.2. Thực trạng các quy định pháp luật về bồi thường thiệt hại trong luật lao động Việt Nam 24 2.2.1. Bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng lao động 24 2.2.1.1 Bồi thường thiệt hại cho người lao động bị chấm dứt hợp đồng lao động vì lý do kinh tế 25 2.2.1.2 Bồi thường thiệt hại do bị đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật 28 2.2.2. Bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khỏe 35 2.2.3. Bồi thường thiệt hại về tài sản 39 2.3. Thực tiễn bồi thường thiệt hại trên địa bàn Thành phố Đà Nẵng 43 Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI TRONG PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG VIỆT NAM 54 3.1. Những yêu cầu đặt ra cần phải nâng cao hiệu quả bồi thường thiệt hại trong pháp luật lao động Việt Nam 54 3.1.1 Sự cần thiết và yêu cầu của việc hoàn thiện pháp luật về bồi thường thiệt hại trong pháp luật lao động ở Việt Nam 54 3.1.2 Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về bồi thường thiệt hại trong pháp luật lao động ở Việt Nam 57 3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định về bồi thường thiệt hại trong pháp luật lao độngViệt Nam 60 3.3. Một số kiến nghị rút ra từ thực tiễn tại địa bàn Thành phố Đà Nẵng 62 3.3.1. Về các quy định pháp luật 62 3.3.2. Về tổ chức thực hiện 63 KẾT LUẬN 66 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 68
  6. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLDS : Bộ luật dân sự BLLĐ : Bộ luật lao động BCHCĐ : Ban chấp hành Công đoàn NLĐ : Người lao động NSDLĐ : Người sử dụng lao động QHLĐ : Quan hệ lao động BHXH : Bảo hiểm xã hội TAND : Tòa án nhân dân
  7. MỞ ĐẦU 1. Đặt vấn đề 1.1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Trong quan hệ lao động, có sự phụ thuộc pháp lý giữa người lao động và người sử dụng lao động, biểu hiện ở chỗ mối quan hệ không bình đẳng giữa người lao động và người sử dụng lao động trong khi làm việc. Xuất phát từ sự yếu thế hơn của người lao động trong quan hệ lao động, nhất là trong điều kiện nền kinh tế thế giới lâm vào khủng hoảng như hiện nay, dẫn đến áp lực trong tìm việc làm ngày một tăng, làm cho người lao động dễ dàng chấp nhận các điều kiện do người sử dụng lao động đặt ra, nên vấn đề bảo vệ người lao động càng cần được quan tâm. Từ đó dẫn đến vấn đề bồi thường thiệt hại trong lao động càng trở nên cần thiết. Bồi thường thiệt hại không phải là vấn đề riêng có của pháp luật dân sự. Trong pháp luật lao động, vấn đề bồi thường thiệt hại cũng được quan tâm và được thể hiện thông qua chương quy định về trách nhiệm vật chất áp dụng đối với người lao động. Đất nước đang bước vào thời kì hội nhập mạnh mẽ, thực tế cho thấy, nước ta không chỉ hội nhập kinh tế mà còn hội nhập văn hoá, đặc biệt là sự hội nhập của người lao động Việt Nam về tác phong công nghiệp, về tính tự chủ sáng tạo cũng là vấn đề được lưu ý. Chỉ khi người lao động tự giác tuân thủ kỷ luật lao động, tuân thủ sự điều hành quản lý của người sử dụng lao động, thì lúc ấy tác phong công nghiệp, tính sáng tạo trong công việc mới biểu hiện, giúp cho quan hệ lao động ổn định, và phát triển. Tuy nhiên, xuất phát điểm của người lao động Việt Nam hiện nay rất thấp, do học vấn thấp dẫn đến văn hoá ứng xử, ý thức chấp hành kỷ luật không cao, hiện tượng vi phạm kỷ luật lao động dễ xảy ra. Từ đó nảy sinh trách nhiệm bồi 1
  8. thường thiệt hại giữa hai bên không chỉ nhằm bảo đảm việc đền bù tổn thất đã gây ra mà còn giáo dục mọi người về ý thức tuân thủ pháp luật, đặc biệt là pháp luật lao động, tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động và người sử dụng lao động cũng như quyền lợi của Nhà nước. Nhà nước ta đã ghi nhận quyền quản lý của người sử dụng lao động bằng công cụ kỷ luật lao động, đã trao quyền cho người sử dụng lao động được xử lý các hành vi vi phạm kỷ luật lao động, đồng thời Nhà nước cũng đặt ra giới hạn của quyền này bằng các nguyên tắc mà người sử dụng lao động phải tuân thủ khi tiến hành xử lý kỷ luật lao động. Tuy nhiên, thực tế việc xử lý bồi thường thiệt hại của các doanh nghiệp vẫn có những biểu hiện cố tình sai sót, không đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động như đuổi người lao động rồi mới ra quyết định kỷ luật, lập biên bản xử lý không có mặt người lao động, không có đại diện công đoàn, mời cả những người không liên quan xét kỷ luật lao động.v.v[40]. Bộ luật lao động năm 1994, có hiệu lực ngày 01/01/1995, đã được sửa đổi, bổ sung vào các năm 2002, 2006 và 2007[2] (sau đây viết tắt là BLLĐ); cùng các văn bản hướng đã có quy định về xử lý kỷ luật lao động, trong đó có quy định về một số trường hợp bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên, sau hơn 15 năm thi hành, một số quy định của Bộ luật này đã bộ lộ những hạn chế, trong khi một số quy định trong các văn bản hướng dẫn lại tỏ ra phù hợp và hiệu quả. Thực tiễn giải quyết các tranh chấp lao động những năm qua cho thấy việc giải quyết các vụ án tranh chấp về “xử lý bồi thường thiệt hại” khá phức tạp, các quy định của pháp luật lao động về vấn đề này chưa đầy đủ, chưa rõ ràng, nhiều quy định khi áp dụng trong thực tiễn còn vướng mắc. Điều này đã dẫn đến thực tiễn khi giải quyết một số tranh chấp về xử lý bồi thường thiệt hại còn nhiều lúng túng khi áp dụng pháp luật. 2
  9. Chính bởi lẽ đó, Bộ luật lao động 2012 [1] ra đời, sửa đổi một số quy định so với bộ luật cũ và chính thức bổ sung, ghi nhận thêm một số quy định hợp lý trong các văn bản hướng dẫn, với mục đích mang lại sự tương xứng với sự phát triển của xã hội, đi trước đón đầu để tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các bên trong quan hệ lao động, khuyến khích phát triển tối đa và lâu dài nguồn lực sức lao động. Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động, đồng thời bảo đảm được quyền của người sử dụng lao động trong quản lý duy trì kỷ luật lao động và hiệu quả sản xuất; nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả việc giải quyết các vụ án tranh chấp lao động nói chung và về tranh chấp bồi thường thiệt hại nói riêng đòi hỏi việc giải quyết tranh chấp phải khách quan, chính xác và đúng pháp luật. Việc xem xét, đánh giá một cách toàn diện về các quy định của pháp luật, cũng như thực trạng về việc giải quyết các tranh chấp về bồi thường thiệt hại, chỉ ra những bất cập và vướng mắc trong thực tiễn áp dụng; đồng thời đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện quy định pháp luật và nâng cao hiệu quả giải quyết các tranh chấp về bồi thường thiệt hại là đều rất cần thiết. Chính vì những lý do và yêu cầu cấp bách của xã hội trong việc hoàn thiện các quy định của pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại nên tác giả đã chọn đề tài “Bồi thường thiệt hại trong pháp luật lao động Việt Nam và thực tiễn áp dụng trên địa bàn Thành phố Đà Nẵng” làm luận văn tốt nghiệp Thạc sỹ Luật Kinh tế của mình. 1.2. Mục tiêu nghiên cứu đề tài Mục tiêu nghiên cứu của Luận văn là làm sáng tỏ cơ sở lý luận, chỉ ra những biểu hiện của trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong luật lao động và thực tiễn thực hiện, làm cơ sở để đề xuất các kiến nghị hoàn thiện. 3
  10. 1.3. Tính mới và những đóng góp của đề tài Một là, luận văn góp phần nghiên cứu một cách hệ thống các quy định của pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong luật lao động, qua đó làm rõ quan điểm coi mục tiêu và động lực chính của sự phát triển là vì con người của Đảng, Nhà nước ta. Hai là, những đề xuất được tác giả trình bày là kết quả của việc nghiên cứu một cách cụ thể, chi tiết sẽ góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật về bồi thường thiệt hại trong luật. Bên cạnh đó, các kiến nghị hoàn thiện sẽ giúp hạn chế tình trạng người sử dụng lao động lợi dụng, chèn ép người lao động, giúp bảo vệ người lao động tốt hơn. Tác động tích cực đến việc duy trì và làm ổn định các quan hệ lao động, cải thiện mối quan hệ giữa người lao động và người sử dụng lao động. Ba là, thông qua việc nghiên cứu đề tài này, tác giả mong muốn góp phần cho các chủ thể áp dụng pháp luật về vấn đề này thuận lợi hơn trong việc tìm hiểu và vận dụng pháp luật trong thực tiễn, đặc biệt là những người trực tiếp thực hiện công tác giải quyết xét xử các vụ án lao động. Ngoài ra, luận văn này còn là tài liệu tham khảo đối với việc học tập, giảng dạy và nghiên cứu của sinh viên các chuyên ngành Luật, Quản trị nhân sự 1.4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn này là các quy định của pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong luật lao động; thực tiễn áp dụng cũng như những điểm hạn chế của các quy định đó. Phạm vi nghiên cứu của đề tài tập trung vào phân tích chi tiết, cụ thể những trường hợp bồi thường thiệt hại trong luật lao động nói chung và thực tiễn về bồi thường thiệt hại trên địa bàn Thành phố Đà Nẵng để từ đó đề 4
  11. xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về bồi thường thiệt hại trong pháp luật lao động Việt Nam nói chung và tại Thành phố Đà Nẵng nói riêng. 1.5. Tình hình nghiên cứu đề tài Thời gian qua, với phạm vi và mức độ nghiên cứu khác nhau, có nhiều tác giả có bài viết, công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề bồi thường thiệt hại trong luật lao động như: Sách tham khảo của TS Nguyễn Hữu Chí, Ths Đỗ Gia Thắng, Chế độ bồi thường trong Luật lao động Việt Nam(2006), luận văn tốt nghiệp cao học luật “Vấn đề bồi thường thiệt hại theo lao động Việt Nam” (2005) của tác giả Nguyễn Ngọc Lan; luận văn tốt nghiệp cao học luật “Tranh chấp lao động và giải quyết tranh chấp lao động theo pháp luật lao động hiện hành” (2008) của tác giả Nguyễn Thị Bích tại Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh. Luận văn tốt nghiệp cao học luật năm 2009 tại Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh của tác giả Đinh Bá Trung “Pháp luật về kỷ luật lao động qua thực tiễn áp dụng tại các doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh”. Khóa luận tốt nghiệp 2011: “Pháp luật về bồi thường thiệt hại cho người lao động trong quan hệ lao động ở Việt Nam- thực trạng và kiến nghị” của tác giả Hà Thị Lan, Đại học Luật Hà Nội. Một số bài viết trên các tạp chí, sách báo như: “Giải quyết tranh chấp lao động tại Toà án nhân dân-Từ pháp luật đến thực tiễn và một số kiến nghị” của tác giả Phạm Công Bảy, đăng trên tạp chí Luật học số 9/2009. Tuy nhiên, các công trình trên chủ yếu nghiên cứu dưới góc độ về kỷ luật lao động và trách nhiệm vật chất theo quy định của pháp luật nói chung mà không đặt trọng tâm việc áp dụng pháp luật để giải quyết về bồi thường thiệt hại trên thực tế cũng như trong giải quyết tranh chấp về xử lý kỷ luật lao động. Vì vậy, có thể nói, việc nghiên cứu một cách tập trung 5
  12. và hệ thống những quy định pháp luật về bồi thường thiệt hại thực tiễn của việc giải quyết bồi thường thiệt hại ở một số địa phương; từ đó chỉ ra những bất cập, vướng mắc và đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả giải quyết bồi thường thiệt hại trong điều kiện hiện nay là một nội dung cần thiết. 2. Nội dung, địa điểm và phương pháp nghiên cứu 2.1. Nội dung nghiên cứu Qua phân tích các quy định của pháp luật cũng như thực tiễn áp dụng pháp luật về bồi thường thiệt hại trong luật lao động, tác giả muốn làm rõ những nội dung sau: - Phân tích những vấn đề lý luận về bồi thường trong pháp luật lao động. - Nghiên cứu, làm rõ thực trạng các quy định của pháp luật về bồi thường thiệt hại cũng như việc áp dụng các quy định đó trên thực tế tại địa bàn thành phố Đà Nẵng. - Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật về bồi thường thiệt hại trong luật lao động, tác giả sẽ đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định này. 2.2. Phương pháp nghiên cứu Trong luận văn, tác giả sử dụng phương pháp nghiên cứu duy vật biện chứng đi từ việc tìm hiểu lịch sử phát triển, khái niệm của các quy định về bồi thường thiệt hại đến tìm hiểu các biểu hiện của các quy định này trong luật lao động. Việc phân tích các luận điểm trong luận văn được thực hiện dựa trên các quy định của Bộ luật lao động, các văn bản hướng dẫn thi hành và thực tiễn áp dụng các quy định đó. Trên cơ sở tìm hiểu các quy định của pháp luật, tác giả đi vào phân tích thực tiễn áp dụng các quy 6
  13. định của pháp luật về bồi thường thiệt hại. Đồng thời, tác giả cũng sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh để nghiên cứu các vấn đề thuộc phạm vi nghiên cứu của luận văn theo nguyên tắc lý luận gắn liền với thực tiễn. 3. Bố cục luận văn Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được chia làm ba chương: Chương 1: Khái quát chung về bồi thường thiệt hại trong pháp luật lao động và sự điều chỉnh pháp luật Chương 2: Thực trạng pháp luật lao động Việt Nam về bồi thường thiệt hại, thực tiễn thực hiện trên địa bàn Thành phố Đà Nẵng. Chương 3: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả bồi thường thiệt hại trong pháp luật lao động Việt Nam 7
  14. Chương 1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI TRONG PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG VÀ SỰ ĐIỀU CHỈNH PHÁP LUẬT 1.1 Khái quát chung về bồi thường thiệt hại trong pháp luật lao động 1.1.1. Quan niệm về bồi thường thiệt hại trong pháp luật lao động 1.1.1.1. Định nghĩa Trong thực tiễn hình thành và phát triển của xã hội, hành vi gây thiệt hại thì phải bồi thường là chân lý cốt yếu nếu bên bị xâm phạm và bị thiệt hại là lợi ích được cộng đồng, nhà nước bảo vệ. Do vậy, bồi thường (hay bồi thường thiệt hại) là một trong những chế định pháp lý xuất hiện sớm trong lịch sử pháp luật. Trải qua các thời kỳ lịch sử khác nhau, ở những quốc gia khác nhau thì việc bồi thường thiệt hại được quy định khác nhau về chủ thể, điều kiện, mức, hình thức và phương thức bồi thường. Nhưng pháp luật cũng như tập quán đều ghi nhận một nguyên tắc chung nhất là: “Người gây ra thiệt hại phải bồi thường thiệt hại cho người bị thiệt hại”.[21,tr.440] Xem xét vấn đề dưới góc độ pháp lý có thể nhận thấy, mỗi một cá nhân tồn tại trong xã hội đều phải tôn trọng quy tắc chung của xã hội, không thể vì lợi ích của mình mà xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Khi một người vi phạm nghĩa vụ pháp lý của mình gây tổn hại cho người khác thì chính người đó phải chịu bất lợi do hành vi của mình gây ra. Sự gánh chịu một hậu quả bất lợi bằng việc bù đắp tổn thất cho người khác được hiểu là bồi thường thiệt hại (BTTH). 8
  15. Do vậy, trách nhiệm bồi thường thiệt hại nói chung, trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong lao động nói riêng là một quan hệ pháp luật lao động, theo đó người gây ra thiệt hại trong những điều kiện mà pháp luật quy định phải bồi thường toàn bộ thiệt hại do hành vi trái pháp luật của họ gây ra. Trong quan hệ nghĩa vụ này bên bị thiệt hại được coi là người có quyền và có quyền yêu cầu bên gây thiệt hại là người có nghĩa vụ phải bồi thường những thiệt hại đã xảy ra. 1.1.1.2. Ý nghĩa, vai trò của bồi thường thiệt hại trong luật lao động Trách nhiệm bồi thường thiệt hại không chỉ nhằm bảo đảm việc đền bù tổn thất đã gây ra mà còn giáo dục mọi người về ý thức tuân thủ pháp luật, bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa, tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Hậu quả của việc áp dụng trách nhiệm này luôn mang đến những bất lợi về tài sản mà người gây ra thiệt hại để bù đắp những thiệt hại mà họ gây ra cho chủ thể khác.[21, tr.442] Việc quy định chế độ bồi thường thiệt hại trong luật lao động là sự cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp nhằm góp phần đảm bảo quyền hiến định của người sử dụng lao động. Đồng thời đây cũng là việc hiện thực hóa một trong các nguyên tắc cơ bản của luật lao động, đó là nguyên tắc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng lao động. Hơn nữa, việc bồi thường thiệt hại còn đảm bảo cho sự đền bù lại toàn bộ hoặc một phần thiệt hại cho người bị thiệt hại, góp phần vào việc đảm bảo và tăng cường kỷ luật, nâng cao ý thức của người lao động trong việc chấp hành kỷ luật lao động ở đơn vị, bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa, tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của người khác [20, tr.318]. Khi người lao động gây thiệt hại cho người sử dụng lao động thì áp dụng cơ chế bồi thường riêng, chủ yếu là bồi thường do vi phạm gây nên. 9
  16. Ngược lại, nếu NSDLĐ gây thiệt hại cho người lao động thì áp dụng cơ chế bồi thường khác, trong đó có những khoản bồi thường thuộc phạm vi điều chỉnh của chế định hợp đồng lao động, có loại thuộc phạm vi của chế định bảo hộ lao động. Bên bị thiệt hại có quyền đòi bồi thường trực tiếp hoặc nhờ các cơ quan nhà nước có thẩm quyền can thiệp giúp đỡ để buộc bên đã gây ra thiệt hại phải bồi thường. Tuy nhiên, trong trường hợp NLĐ gây thiệt hại về tài sản của NSDLĐ thì NSDLĐ có quyền buộc NLĐ gây thiệt hại phải bồi thường dưới hình thức quyết định và quyết định đó có giá trị pháp lý. Các bên trong quan hệ bồi thường thiệt hại trong quá trình lao động luôn hướng tới mục tiêu là hành vi thực hiện việc bồi thường, chính vì vậy, đối tượng của quan hệ được xác định là khoản bồi thường hay giá trị của khoản bồi thường đó tính bằng tiền [19]. 1.2. Điều chỉnh pháp luật về bồi thường thiệt hại trong pháp luật lao động 1.2.1. Khái niệm pháp luật về bồi thường thiệt hại trong pháp luật lao động Trong lao động, quan hệ về bồi thường thiệt hại là một dạng trách nhiệm pháp lý. Trách nhiệm pháp lý là trách nhiệm gánh chịu những hậu quả bất lợi của chủ thể vi phạm các quy định của pháp luật. [22, tr.22] Trong luật dân sự, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại là một loại quan hệ dân sự trong đó người xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp của người khác mà gây thiệt hại phải bồi thường những thiệt hại do mình gây ra.[21,tr.441]. Luật Thương mại thì ghi nhận thiệt hại là những tổn thất về tài sản, chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế khắc phục thiệt hại, thu nhập thực tế 10
  17. bị mất hoặc giảm sút một bên phải gánh chịu khi bên kia không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ hợp đồng [23, tr.51]. Về mặt lý luận nhà nước và pháp luật, khi một quan hệ xã hội được pháp luật điều chỉnh thì trở thành quan hệ pháp luật. Tuy nhiên, không phải quan hệ xã hội nào cũng đều được quy phạm của tất cả các ngành luật điều chỉnh mà mỗi ngành luật có đối tượng riêng của nó. Đối tượng điều chỉnh của pháp luật lao động cũng như vậy. Trong số các quan hệ lao động trong đời sống xã hội, Luật lao động chủ yếu điều chỉnh quan hệ lao động làm công ăn lương, quan hệ lao động phát sinh trên cơ sở hợp đồng lao động giữa NLĐ làm công ăn lương với NSDLĐ [20,tr.18]. Theo pháp luật lao động hiện hành ở nước ta, QHLĐ do pháp luật lao động điều chỉnh khác với QHLĐ giữa cán bộ, công chức, viên chức với thủ trưởng cơ quan nhà nước được điều chỉnh bởi pháp luật hành chính. Sự khác biệt này xuất phát từ bản chất của hai loại QHLĐ này, nếu nhóm thứ nhất dựa trên sự bình đẳng, thỏa thuận giữa các chủ thể trong quan hệ lao động thì QHLĐ thuộc nhóm thứ hai mang nặng tính mệnh lệnh hành chính, nhất là trong quá trình quản lý lao động của thủ trưởng cơ quan nhà nước.[22,tr 19]. Như vậy, quan hệ lao động thuộc đối tượng điều chỉnh của pháp luật lao động là quan hệ lao động giữa người lao động làm công ăn lương và người sử dụng lao động được xác lập trên cơ sở hợp đồng lao động. Khi tham gia quan hệ lao động, người lao động được người sử dụng lao động giao quản lý, sử dụng tài sản phù hợp với trình độ, khả năng của họ nhằm mang lại hiệu quả cao trong quá trình sản xuất, công tác. Người lao động phải có nghĩa vụ bảo quản, sử dụng tốt các tài sản đó. Nếu làm hư hỏng hay mất mát thì người lao động không những bị xử lý kỷ luật mà còn phải bồi thường cho người sử dụng lao động những thiệt hại mà mình đã 11
  18. gây ra. Như vậy, bồi thường thiệt hại về vật chất trong quan hệ lao động là nghĩa vụ của NLĐ phải bồi thường những thiệt hại về tài sản cho NSDLĐ do hành vi vi phạm kỉ luật lao động, vi phạm hợp đồng trách nhiệm gây ra.[21, tr.318] Theo Luật lao động Việt Nam, trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong quan hệ lao động chỉ phát sinh khi có đủ các điều kiện: Thứ nhất, có hành vi trái kỷ luật lao động hoặc các cam kết, thỏa thuận trong quan hệ lao động. Hành vi này thể hiện ở việc NLĐ không thực hiện, thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ chấp hành kỷ luật lao động. Về mặt hình thức, hành vi trái kỷ luật lao động thể hiện ở hành vi trái với nội quy lao động. Hành vi của NLĐ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường cũng có thể là hành vi trái với các cam kết, thỏa thuận giữa các bên trong quan hệ lao động.[21,tr.418] Thứ hai, có thiệt hại về tài sản cho người sử dụng lao động. Thiệt hại về tài sản cho NSDLĐ là điều kiện bắt buộc cho việc áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại.[21,tr.419] Thứ ba, có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái kỷ luật lao động hoặc hợp đồng trách nhiệm và thiệt hại xảy ra. Xác định mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái kỷ luật hoặc hợp đồng trách nhiệm với thiệt hại xảy ra là chứng minh rằng thiệt hại đó là do hành vi trái kỷ luật hoặc hợp đồng trách nhiệm gây ra. Nói cách khác, nguyên nhân của thiệt hại chính là hành vi trái kỷ luật hoặc hợp đồng trách nhiệm của NLĐ. Đây cũng là một trong những điều kiện bắt buộc cho việc áp dụng trách nhiệm vật chất. NLĐ không phải bồi thường cho NSDLĐ nếu không có mối quan hệ nhân quả 12
  19. giữa hành vi trái kỷ luật hoặc hợp đồng trách nhiệm với thiệt hại xảy ra. [21,tr.420] Thứ tư, có lỗi của người vi phạm. Lỗi là trạng thái tâm lý của một người đối với hành vi của mình và hậu quả của hành vi đó gây ra. NLĐ bị coi là có lỗi khi họ có thể lựa chọn hành vi xử sự khác phù hợp nhưng vẫn thực hiện hành vi trái với kỷ luật lao động hoặc hợp đồng trách nhiệm, gây thiệt hại cho NSDLĐ. NLĐ được coi là không có lỗi, và do đó không phải bồi thường cho NSDLĐ nếu gây thiệt hại trong trường hợp bất khả kháng. [21,tr.421]. Ví dụ: Trong trường hợp người lao động phải ngừng việc vì sự cố điện nước mà không do lỗi của người sử dụng lao động, người lao động hoặc vì những nguyên nhân khách quan khác như thiên tai, hỏa hoạn, dịch bệnh nguy hiểm, địch họa, di dời địa điểm hoạt động theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc vì lý do kinh tế thì tiền lương ngừng việc do hai bên thỏa thuận nhưng không được thấp hơn mức lương tối thiểu vùng do Chính phủ quy định. (Khoản 3 Điều 98 Bộ luật lao động 2012). Ngoài bốn căn cứ trên, để giúp cho việc bồi thường thiệt hại này được chính xác, hiệu quả, cũng như tính đến điều kiện thực tế của NLĐ, NSDLĐ còn phải xem xét các yếu tố khác như: khả năng, kinh nghiệm làm việc, hoàn cảnh gia đình, tài sản cũng như ý thức kỷ luật, thái độ của NLĐ trước, trong và sau khi vi phạm để quyết định áp dụng trách nhiệm vật chất và xác định mức bồi thường hợp lý để vừa đảm bảo quyền lợi người sử dụng lao động vừa đảm bảo cho người lao động ổn định cuộc sống sau khi thực hiện nghĩa vụ bồi thường thiệt hại. Đó cũng là cách để răn đe, giáo dục người lao động, tăng cường kỷ luật lao động trong doanh nghiệp.[21,tr.323] 13
  20. Vấn đề bồi thường được pháp luật ghi nhận bằng những ngành luật khác nhau như Luật hình sự, Luật dân sự, Luật thương mại, Luật lao động, Những quy định này nhằm buộc những chủ thể có hành vi gây thiệt hại khắc phục hậu quả do hành vi của mình gây ra cho một hoặc nhiều chủ thể khác nhau. Từ sự phân tích trên, có thể hiểu bồi thường là đền bù những tổn hại đã gây ra, đền bù đối với những thiệt hại về vật chất và tinh thần mà người gây ra thiệt hại phải gánh chịu nhằm bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng cho bên bị thiệt hại. Điều 32 Hiến pháp 2013 ghi nhận những quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể được pháp luật bảo vệ có thể là quyền bất khả xâm phạm về thân thể, bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hay quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, vốn và các tài sản khác. Khi thực hiện chúng, nếu một trong các chủ thể gây thiệt hại về sức khỏe, tính mạng, tài sản, lợi ích cho bên kia thì giữa họ phát sinh quan hệ bồi thường thiệt hại. Trong quan hệ lao động, các chủ thể khi tham gia quan hệ lao động có các quyền và nghĩa vụ pháp lý nhất định và chủ yếu là những quyền và nghĩa vụ trong lao động.Như vậy, những quan hệ về bồi thường này do các chủ thể của quan hệ lao động gây thiệt hại cho nhau khi thực hiện quyền và nghĩa vụ lao động. [20,tr.69] Thiệt hại được hiểu là sự biến đổi theo chiều hướng xấu đi trong tài sản thể hiện ở những tổn thất thực tế được tính bằng tiền. Thiệt hại gồm có thiệt hại trực tiếp và thiệt hại gián tiếp. Thiệt hại trực tiếp được hiểu là thiệt hại do chính hành vi vi phạm kỷ luật lao động của NLĐ gây ra sự giảm sút về giá trị hoặc mất mát tài sản của NSDLĐ. Còn thiệt hại gián tiếp là thiệt hại phát sinh như phần lợi nhuận bị bỏ lỡ, phần thu nhập bị mất, bị giảm 14
  21. sút mà lẽ ra đơn vị có thể có được. Đó là thiệt hại có tính dự báo, phải dựa trên sự suy đoán khoa học mới chính xác được. Việc bồi thường thiệt hại vật chất trong luật lao động chỉ căn cứ vào những thiệt hại trực tiếp mà không phải bồi thường những thiệt hại gián tiếp. Đây là điểm khác nhau cơ bản giữa trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong luật lao động với trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong luật dân sự. [21, tr.321] Xét về mục đích, trách nhiệm BTTH trong pháp luật lao động có sự khác biệt so với trách nhiệm BTTH của pháp luật dân sự. Nếu trong luật Dân sự, trách nhiệm BTTH chỉ nhằm khôi phục những thiệt hại mà các bên đã gây ra cho nhau (trách nhiệm đó xuất phát từ lẽ công bằng), thì trong Luật Lao động, trách nhiệm BTTH còn nhằm góp phần tăng cường kỷ luật lao động, nâng cao tinh thần trách nhiệm của các bên và đồng thời bảo vệ NLĐ. Điều này thể hiện rõ nét trong việc quy định mức và cách thức bồi thường của NLĐ cho NSDLĐ trong pháp luật nước ta [22,tr.23]. 1.2.2. Nguyên tắc thực hiện bồi thường thiệt hại Theo khoản 2 Điều 131 BLLĐ, các quy định pháp luật về nguyên tắc, thời hiệu và thủ tục xử lý vi phạm kỷ luật lao động cũng được áp dụng cho việc xử lý bồi thường thiệt hại. [22, tr.423]. Cụ thể: “Việc xem xét, quyết định mức bồi thường thiệt hại phải căn cứ vào lỗi, mức độ thiệt hại thực tế và hoàn cảnh thực tế gia đình, nhân thân và tài sản của người lao động”. Mức bồi thường là khấu trừ tiền lương hằng tháng không được quá 30% tiền lương hàng tháng của NLĐ sau khi trích nộp các khoản bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, thuế thu nhập (khoản 3 Điều 101 BLLĐ). Đây là mức quy định áp dụng đối với NLĐ. Còn đối với NSDLĐ, pháp luật lao động không quy định việc bồi thường về tính mạng, sức khỏe cho NSDLĐ trong quan hệ lao động. Lý do chính đó là 15
  22. NSDLĐ không trực tiếp tham gia vào quá trình lao động mà chỉ là người quản lý, điều hành quá trình lao động. Nếu NSDLĐ bị thiệt hại về tính mạng, sức khỏe trong quá trình quản lý lao động thì việc xem xét trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho NSDLĐ sẽ được dựa trên các quy định của pháp luật về dân sự, hình sự ở những mức độ khác nhau. Và điều này tạo nên sự khác biệt cơ bản giữa vấn đề bồi thường thiệt hại cho NLĐ và NSDLĐ trong quan hệ lao động. Về nguyên tắc bồi thường thiệt hại cho người lao động, lẽ thông thường, người gây ra thiệt hại thì phải bồi thường cho người bị thiệt hại, thiệt hại bao nhiêu bồi thường bấy nhiêu. Tuy nhiên trong pháp luật lao động Việt Nam, trách nhiệm bồi thường có nhiều điểm khác biệt so với lẽ thông thường đó. Theo điều 130 Bộ luật lao động 2012, người lao động làm hư hỏng, mất dụng cụ, thiết bị, làm mất các tài sản khác do doanh nghiệp giao, tiêu hao vật tư quá định mức cho phép hoặc có hành vi khác gây thiệt hại cho tài sản của doanh nghiệp thì phải bồi thường. Quy định tại điều 130 không chỉ rõ loại thiệt hại phải bồi thường. Theo quan điểm của tác giả, người lao động chỉ phải bồi thường những thiệt hại trực tiếp. Nếu vì hành vi của người lao động làm máy móc hư hỏng thì người lao động cũng chỉ bồi thường thiệt hại đối với máy, những thiệt hại kéo theo do máy hỏng như công nhân phải ngừng sản xuất do đó người sử dụng lao động phải trả lương ngừng việc, hay vì máy hỏng không sản xuất được nên giao hàng trễ hạn bị phạt hợp đồng thì không có nghĩa vụ bồi thường. Trong khi đó, bồi thường theo pháp luật dân sự thì ngoài việc phải bồi thường những thiệt hại trực tiếp, bên gây thiệt hại còn phải bồi thường cả những thiệt hại gián tiếp, có nghĩa là bồi thường theo thiệt hại thực tế. Đó chính là một trong những điểm khác biệt giữa bồi thường theo pháp luật lao động 16