Luận văn Bồi thường thiệt hại theo pháp luật lao động Việt Nam

pdf 103 trang vuhoa 23/08/2022 9940
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Bồi thường thiệt hại theo pháp luật lao động Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_boi_thuong_thiet_hai_theo_phap_luat_lao_dong_viet_n.pdf

Nội dung text: Luận văn Bồi thường thiệt hại theo pháp luật lao động Việt Nam

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ LAN PHƢƠNG BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI THEO PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2015
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ LAN PHƢƠNG BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI THEO PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG VIỆT NAM Chuyên ngành: Luật kinh tế Mã số: 60 38 01 07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. LÊ THỊ HOÀI THU HÀ NỘI - 2015
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! TÁC GIẢ LUẬN VĂN Nguyễn Thị Lan Phƣơng
  4. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt MỞ ĐẦU 1 Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI VÀ SỰ ĐIỀU CHỈNH CỦA PHÁP LUẬT 5 1.1. Khái niệm, ý nghĩa của bồi thƣờng thiệt hại 5 1.1.1. Khái niệm bồi thường thiệt hại 5 1.1.2. Ý nghĩa của bồi thường thiệt hại 8 1.2. Điều chỉnh pháp luật về bồi thƣờng thiệt hại 10 1.2.1. Khái niệm bồi thường thiệt hại trong pháp luật lao động 10 1.2.2. Căn cứ áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong lao động 13 1.2.3. Nguyên tắc bồi thường thiệt hại trong pháp luật lao động 18 1.2.4. Nội dung bồi thường thiệt hại trong pháp luật lao động 23 1.3. Bồi thƣờng thiệt hại trong pháp luật lao động của một số nƣớc trên thế giới và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam 25 1.4. Sự khác biệt giữa chế độ bồi thƣờng thiệt hại trong luật lao động với chế độ bồi thƣờng thiệt hại trong luật dân sự 32 1.4.1. Phạm vi điều chỉnh 32 1.4.2. Đối tượng điều chỉnh 33 1.4.3. Chế độ bồi thường thiệt hại 33 Kết luận Chƣơng 1 36 Chƣơng 2: THỰC TRẠNG BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI TRONG PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG VIỆT NAM 37 2.1. Lịch sử hình thành và phát triển pháp luật về bồi thƣờng thiệt hại trong lao động 37
  5. 2.1.1. Giai đoạn 1945 - 1954 37 2.1.2. Giai đoạn từ 1955 đến 1985 37 2.1.3. Giai đoạn từ 1986 đến trước khi ban hành BLLĐ 1994 39 2.1.4. Giai đoạn từ 1994 đến nay 39 2.2. Thực trạng các quy định về bồi thƣờng thiệt hại và thực tiễn áp dụng 41 2.2.1. Bồi thường thiệt hại về tài sản và thực tiễn áp dụng 41 2.2.2. Bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng và thực tiễn áp dụng 51 2.2.3. Bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khỏe và thực tiễn áp dụng 64 2.2.4. Bồi thường thiệt hại về thu nhập 72 2.3. Một số nhận xét về bồi thƣờng thiệt hại trong pháp luật lao động Việt Nam 76 Kết luận Chƣơng 2 79 Chƣơng 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI TRONG PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG VIỆT NAM 80 3.1. Những yêu cầu đặt ra cho việc hoàn thiện các quy định pháp luật về bồi thƣờng thiệt hại 80 3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định về pháp luật bồi thƣờng thiệt hại trong lao động 82 3.3. Một số kiến nghị về tổ chức thực hiện nhằm tăng cƣờng hiệu quả áp dụng các quy định về bồi thƣờng thiệt hại theo luật lao động Việt Nam 87 Kết luận Chƣơng 3 93 KẾT LUẬN 94 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 95
  6. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT Chữ viết tắt Chữ viết đầy đủ BLLĐ: Bô ̣luâṭ Lao đôṇ g HĐLĐ: Hợp đồng lao động ILO: Tổ chứ c lao đôṇ g quốc tế LĐ-TB&XH: Lao đôṇ g - Thương binh và Xa ̃ hôị NLĐ: Người lao động NSDLĐ: Ngườ i sử duṇ g lao đôṇ g QHLĐ: Quan hệ lao động
  7. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Quan hệ pháp luật lao động là một trong những loại quan hệ pháp luật cơ bản và quan trọng nhất, sự bền vững của quan hệ pháp luật lao động là nền tảng cho nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay. Các chủ thể khi tham gia vào quan hệ lao động có thể gặp phải những thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tinh thần, những thiệt hại ấy có thể do những nguyên nhân bất khả kháng, do lỗi của bản thân chủ thể, hoặc do lỗi của chủ thể khác gây ra. Để đảm bảo quyền lợi cho chủ thể bị thiệt hại, luật lao động quy định rải rác các trường hợp về bồi thường thiệt hại trong luật lao động, nhìn chung, gồm có các trường hợp sau: Bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng lao động; Bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng đào tạo, học nghề; bồi thường thiệt hại cho người lao động (NLĐ) bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; Bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng đưa NLĐ đi làm việc ở nước ngoài; Bồi thường thiệt hại liên quan đến tài sản, Ở Việt Nam hiện nay, do tính chất phức tạp của quan hệ lao động, nên các tranh chấp lao động phát sinh ngày càng nhiều, gây ảnh hưởng đến đời sống của NLĐ, cũng như uy tín, danh dự của NSDLĐ (NSDLĐ). Để xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định, tiến bộ, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các bên trong quan hệ lao động, thì việc xây dựng các chế định về bồi thường thiệt hại có ý nghĩa hết sức quan trọng. Bộ luật lao động năm 2012 đã ghi nhận một số thay đổi về nguyên tắc xử lý bồi thường thiệt hại, quy định trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho NLĐ bị tai nạn lao động theo tỷ lệ thương tật, thay đổi mức tính bồi thường thiệt hại theo lương tối thiểu vùng, Tuy nhiên, việc quy định rải rác các trường hợp bồi thường thiệt hại cũng như chưa có đầy đủ các văn bản hướng dẫn thi hành về vấn đề này, nên 1
  8. vấn đề bồi thường thiệt hại trong lao động vẫn còn cả những vướng mắc cả về lý luận và thực tiễn. Vì vậy, yêu cầu đặt ra là phải hệ thống hóa được các trường hợp bồi thường thiệt hại hiện nay theo luật lao động, quy định chặt chẽ về cơ sở bồi thường, mức bồi thường, đảm bảo sự tuân thủ pháp luật của các chủ thể. Việc lựa chọn đề tài “Bồi thường thiệt hại theo pháp luật lao động Việt Nam” sẽ góp phần nâng cao hiểu biết về các trường hợp bồi thường thiệt hại trong lao động, và đưa ra một số kiến nghị nâng cao hiệu quả của các chế định này trong thực tế. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài Bồi thường thiệt hại trong lĩnh vực lao động là một vấn đề có ý nghĩa quan trọng trong việc đảm bảo quan hệ lao động hài hòa, ổn định, tiến bộ, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể trong quan hệ lao động. Trước khi Bộ luật lao động 2012 ra đời, các công trình trước đây thường chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu một số khía cạnh của bồi thường thiệt hại trong lao động, ví dụ như: bồi thường thiệt hại cho NLĐ bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp được đề cập trong luận văn “Pháp luật về an toàn - vệ sinh lao động, một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của Thạc sĩ Đỗ Ngân Bình; hay bồi thường thiệt hại do đơn phương chấm dứt Hợp đồng lao động trong một số luận văn khác, Kể từ khi có Bộ luật lao động 2012, thực tiễn cũng chưa ghi nhận một công trình nghiên cứu nào bao quát toàn bộ vấn đề bồi thường thiệt hại trong lao động. Do vậy, luận văn này, hi vọng có thể đưa ra một góc nhìn tổng quát, chuyên sâu toàn bộ các trường hợp bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật hiện hành, đánh giá thực trạng thực hiện chế định bồi thường thiệt hại trong thời gian gần đây, và đưa ra một số giải pháp hoàn thiện pháp luật bồi thường thiệt hại trong lao động. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài Mục đích nghiên cứu của luận văn là nghiên cứu những vấn đề lý luận 2
  9. về bồi thường thiệt hại trong lĩnh vực lao động, đánh giá thực trạng về bồi thường thiệt hại trong lao động ở nước ta hiện nay từ đó đưa ra những biện pháp hoàn thiện cả về cơ sở pháp lý và thực tiễn áp dụng pháp luật. Để đạt được mục đích nêu trên, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn cần phải làm rõ một số vấn đề như sau: - Nghiên cứu nội hàm của khái niệm bồi thường thiệt hại trong lĩnh vực lao động, xem xét quá trình phát triển của chế định này trong luật lao động Việt Nam, tham khảo một số quy định của pháp luật quốc tế về bồi thường thiệt hại trong lao động. - Hệ thống hóa, phân tích, đánh giá ưu nhược điểm các quy định về bồi thường thiệt hại trong luật lao động, bao gồm nhưng không giới hạn các trường hợp: bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng lao động; bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng đào tạo, học nghề; bồi thường thiệt hại cho NLĐ bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng đưa NLĐ đi làm việc ở nước ngoài; bồi thường thiệt hại liên quan đến tài sản. - Đánh giá quá trình thực thi các chế định về bồi thường thiệt hại trong lĩnh vực lao động. - Đưa ra một số giải pháp hoàn thiện về pháp luật, đảm bảo quá trình thực thi các chế định về bồi thường thiệt hại trong lĩnh vực lao động. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu luận văn Đề tài được thực hiện trên cơ sở kết hợp các phương pháp nghiên cứ u chủ yếu và phổ biến như phương pháp biện chứ ng duy v ật, phương pháp luật học so sánh, phương pháp đối chiếu, phương pháp phân tích kết hợp giải thích, tổng hợp và khái quát hóa. 5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận và thực tiễn về bồi thường thiệt hại trong pháp luật lao động Việt Nam hiện nay. 3
  10. Phạm vi nghiên cứu của luận văn bao gồm các văn bản quy phạm pháp luật lao động Việt Nam kể từ khi Bộ luật lao động đầu tiên ra đời năm 1994 cho đến nay, đồng thời, luận văn cũng nghiên cứu thực tế công tác bồi thường thiệt hại trong quan hệ lao động ở nước ta trong thời gian này. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài lờ i mở đầu , kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn bao gồm ba chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về bồi thường thiệt hại và sự điều chỉnh của pháp luật. Chương 2: Thực trạng bồi thường thiệt hại trong pháp luật lao động Việt Nam. Chương 3: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả bồi thường thiệt hại trong pháp luật lao động Việt Nam. 4
  11. Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI VÀ SỰ ĐIỀU CHỈNH CỦA PHÁP LUẬT 1.1. Khái niệm, ý nghĩa của bồi thƣờng thiệt hại 1.1.1. Khái niệm bồi thường thiệt hại Trong quá trình tồn tại, mỗi cá nhân nói riêng và các chủ thể khác của quan hệ xã hội nói chung đều có thể gặp phải những rủi ro, thiệt hại về vật chất, tinh thần, thậm chí là thiệt hại về sức khỏe, tính mạng. Những thiệt hại này có thể do yếu tố khách quan gây ra nhưng cũng có thể do hành vi của chính người bị thiệt hại, hay do chủ thể khác gây ra. Thiệt hại thường được hiểu là việc một chủ thể bị mất hoặc giảm sút những lợi ích vật chất hoặc tinh thần do những nguyên nhân chủ quan hoặc khách quan. Thông thường, khi xảy ra thiệt hại, vấn đề bồi thường sẽ được đặt ra như: chủ thể bị thiệt hại có được bồi thường không, chủ thể nào có trách nhiệm bồi thường, mức bồi thường, cách thức bồi thường, Về mặt khái niệm, bồi thường được hiểu là sự đền bù bằng tiền đối với những thiệt hại về vật chất và tinh thần mà người gây thiệt hại phải chịu trách nhiệm [9]. Qua đó, chủ thể bị thiệt hại được bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp. Những quyền và lợi ích hợp pháp này có thể bao gồm quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, vốn góp trong doanh nghiệp, Quyền và lợi ích hợp pháp cũng có thể bao gồm quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự. Những quyền này được bảo vệ thông qua các quy định của nhiều ngành luật khác nhau như: luật dân sự, luật hình sự, luật lao động, luật thương mại, Thông qua các quy định này, nhà nước đảm bảo rằng các chủ thể có hành vi gây thiệt hại có nghĩa vụ bồi 5
  12. thường, khắc phục hậu quả của những hành vi mình gây ra đối với các chủ thể bị thiệt hại. Tiếp cận dưới góc độ pháp luật dân sự, có thể nói, mỗi người sống trong xã hội đều phải tôn trọng quy tắc chung của xã hội, không thể vì lợi ích của mình mà xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Khi một người vi phạm nghĩa vụ pháp lý của mình gây tổn hại cho người khác thì chính người đó phải chịu bất lợi do hành vi của mình gây ra. Sự gánh chịu một hậu quả bất lợi bằng việc bù đắp tổn thất cho người khác được hiểu là bồi thường thiệt hại. Như vậy, theo dân sự, có thể hiểu trách nhiệm bồi thường thiệt hại là một loại trách nhiệm dân sự mà theo đó thì khi một người vi phạm nghĩa vụ pháp lý của mình gây tổn hại cho người khác phải bồi thường những tổn thất mà mình gây ra [13]. Trong luật kinh doanh thương mại, bồi thường thiệt hại là một chế tài tiền tệ dùng để bù đắp những thiệt hại thực tế cho bên bị thiệt hại trong quan hệ pháp luật được các quy phạm pháp luật kinh doanh điều chỉnh [19]. Bên cạnh các ngành luật nói trên, vấn đề bồi thường thiệt hại còn được quy định khá đa dạng trong luật lao động, chẳng hạn như bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng lao động, bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khỏe; bồi thường thiệt hại do gây thiệt hại về tài sản trong quan hệ lao động, Điểm chung của các quan hệ bồi thường thiệt hại do luật lao động điều chỉnh là: Chủ thể bị thiệt hại và chủ thể gây thiệt hại là các bên trong quan hệ xã hội thuộc phạm vi điều chỉnh của luật lao động; Hành vi gây thiệt hại và hậu quả pháp lý có liên quan đến quyền và nghĩa vụ của NLĐ hoặc NSDLĐ theo quy định của pháp luật lao động. Trong giáo trình Luật lao động của ĐH Luật Hà Nội không đưa ra một định nghĩa toàn diện về bồi thường thiệt hại trong pháp luật lao động mà chỉ đưa ra định nghĩa về bồi thường thiệt hại về vật chất trong QHLĐ, một trường 6
  13. hợp của bồi thường thiệt hại trong lao động như sau: “Bồi thường thiệt hại về vật chất trong quan hệ lao động là nghĩa vụ của NLĐ phải bồi thường những thiệt hại về tài sản cho NSDLĐ do hành vi vi phạm kỉ luật lao động, vi phạm hợp đồng trách nhiệm gây ra” [20, tr. 336]. Tương tự như vậy, trong giáo trình Luật lao động của Viện ĐH Mở cũng không đưa ra định nghĩa về bồi thường thiệt hại trong pháp luật lao động mà chỉ đưa ra định nghĩa về trách nhiệm vật chất: Trách nhiệm vật chất là một loại trách nhiệm pháp lý do người sử dụng lao động áp dụng đối với người lao động bằng cách buộc người lao động phải bồi thường những thiệt hại về vật chất cho người sử dụng lao động do hành vi vi phạm kỷ luật lao động, vi phạm hợp đồng trách nhiệm gây ra [22, tr. 298]. Theo PGS.TS. Nguyễn Hữu Chí: Bồi thường thiệt hại trong luật lao động là một loại trách nhiệm pháp lý phát sinh khi một bên trong quan hệ lao động có hành vi vi phạm nghĩa vụ, gây thiệt hại cho bên kia nhằm khôi phục tình trạng tài sản, bù đắp tổn thất về tinh thần, sức khỏe cho người bị thiệt hại [4, tr. 45]. Tóm lại, nghiên cứu về bồi thường thiệt hại từ những góc độ pháp luật khác nhau,có thể đưa ra một khái niệm chung nhất về bồi thường thiệt hại như sau: Bồi thường thiệt hại có thể hiểu là một loại trách nhiệm dân sự mà theo đó thì khi một người vi phạm nghĩa vụ pháp lý của mình gây tổn hại cho người khác phải bồi thường những tổn thất mà mình gây ra. Thông thường, bồi thường thiệt hại chỉ đặt ra khi thoả mãn các điều kiện nhất định đó là: Có thiệt hại xảy ra, có hành vi vi trái pháp luật, có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi gây thiệt hại với thiệt hại xảy ra, có lỗi của người gây thiệt hại. Đây là những điều kiện chung nhất để xác định trách 7
  14. nhiệm của một người phải bồi thường những thiệt hại do mình gây ra. Tuy nhiên, trong một số trường hợp đặc biệt trách nhiệm bồi thường thiệt hại có thể phát sinh khi không có đủ các điều kiện trên. Bồi thường thiệt hại luôn mang đến một hậu quả bất lợi về tài sản cho người gây thiệt hại. Bởi lẽ, khi một người gây ra tổn thất cho người khác thì tổn thất đó phải tính toán được bằng tiền hoặc phải được pháp luật quy định là một đại lượng vật chất nhất định nếu không sẽ không thể thực hiện được việc bồi thường. Do đó, những thiệt hại về tinh thần mặc dù không thể tính toán được nhưng cũng sẽ được xác định theo quy định của pháp luật để bù đắp lại tổn thất cho người bị thiệt hại. Và cũng chính vì vậy, thực hiện trách nhiệm bồi thường sẽ giúp khôi phục lại thiệt hại cho người bị thiệt hại. Chủ thể bị áp dụng bồi thường thiệt hại: bên cạnh người trực tiếp có hành vi gây thiệt hại thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại còn có thể được áp dụng cả đối với những chủ thể khác đó là cha, mẹ của người chưa thành niên, người giám hộ của người được giám hộ, pháp nhân đối với người của pháp nhân gây ra thiệt hại, trường học, bệnh viện trong trường hợp người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại hoặc tổ chức khác như cơ sở dạy nghề 1.1.2. Ý nghĩa của bồi thường thiệt hại Thứ nhất, chế định bồi thường thiệt hại góp phần tích cực trong việc bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của chủ thể bị thiệt hại và chủ thể gây thiệt hại. Chính nhờ có những quy định về bồi thường thiệt hại như: căn cứ bồi thường, mức bồi thường, mà các chủ thể nắm bắt quyền và nghĩa vụ của mình khi tham gia vào quan hệ pháp luật. Bồi thường thiệt hại rất đa dạng, có thể chia thành bồi thường thiệt hại theo hợp đồng, bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, hoặc cũng có thể chia thành bồi thường thiệt hại về vật chất và bồi 8
  15. thường thiệt hại về tinh thần, Hiểu được bản chất của chế độ bồi thường thiệt hại, các điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại sẽ giúp cho các chủ thể trong quan hệ pháp luật, chủ thể nhà nước, và các chủ thể liên quan có cách hành động phù hợp với quy định của pháp luật, quy chuẩn đạo đức xã hội. Chẳng hạn như, đối với vấn đề bồi thường thiệt hại trong lao động, NLĐ là người trực tiếp tham gia vào việc vận hành máy móc, thiết bị trong quá trình lao động. Đồng thời, họ cũng là người phải thường xuyên đối mặt với những nguy cơ gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe dẫn đến tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp. Nếu được bồi thường những lợi ích hợp pháp và chính đáng khi thiệt hại xảy ra, người lao động mới có điều kiện để hồi phục sức khỏe, tiếp tục tham gia quan hệ lao động hoặc khắc phục những khó khăn trong cuộc sống. Việc pháp luật lao động quan tâm bảo vệ những lợi ích vật chất và tinh thần của người lao động, không để NSDLĐ vi phạm hoặc buộc NSDLĐ phải bồi thường nhanh chóng, đầy đủ và kịp thời đối với những thiệt hại mà người lao động gặp phải trong quá trình lao động như thiệt hại về tiền lương, thiệt hại về sức khỏe, thiệt hại do chấm dứt hợp đồng lao động đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng để bảo vệ tốt hơn quyền lợi của người lao động. Thứ hai, chế định bồi thường thiệt hại góp phần giáo dục và nâng cao ý thức pháp luật của các chủ thể khi tham gia vào quan hệ pháp luật. Ý thức pháp luật ở đây là ý thức chấp hành quy định của pháp luật, chẳng hạn như trong lao động thì đó là kỷ luật lao động, tuân thủ nội quy lao động của người lao động, hay an toàn, vệ sinh lao động của NSDLĐ. Các quy định về bồi thường thiệt hại cũng nâng cao ý thức pháp luật của các chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật, từ đó hạn chế được những thiệt hại đáng tiếc có thể xảy ra. Việc thực thi các quy định về bồi thường thiệt hại của các chủ thể cũng góp phần giáo dục pháp luật, răn đe với đối tượng tuân thủ các quy tắc xử sự khi tham gia vào các quan hệ xã hội. 9
  16. Nhìn chung, các quy định về bồi thường thiệt hại nói chung và luật lao động nói riêng đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng để giải quyết các tranh chấp liên quan đến thiệt hại của các chủ thể trong xã hội, từ đó, quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể bị thiệt hại được khôi phục, bảo đảm. 1.2. Điều chỉnh pháp luật về bồi thƣờng thiệt hại 1.2.1. Khái niệm bồi thường thiệt hại trong pháp luật lao động Bồi thường thiệt hại theo nghĩa chung nhất có thể được hiểu là một loại trách nhiệm dân sự mà theo đó thì khi một người vi phạm nghĩa vụ pháp lý của mình gây tổn hại cho người khác phải bồi thường những tổn thất mà mình gây ra. Còn bồi thường thiệt hại trong pháp luật lao động, nhìn chung, phải gắn liền với những quy định của pháp luật lao động và quan hệ lao động theo nghĩa rộng, trong đó chủ yếu là quan hệ lao động cá nhân giữa NLĐ và NSDLĐ. Những thiệt hại diễn ra trong quá trình lao động của NLĐ hoặc NSDLĐ, gắn liền với quan hệ lao động sẽ là cơ sở phát sinh nghĩ vụ bồi thường thiệt hại giữa các chủ thể của quan hệ này. Trong luận văn “Bồi thường thiệt hại trong pháp luật lao động Việt Nam và thực tiễn áp dụng trên địa bàn thành phố Đà Nẵng”, tác giả Nguyễn Thị Bích Nga cũng đưa ra định nghĩa về bồi thường thiệt hại trong QHLĐ là “là một loại trách nhiệm pháp lý phát sinh khi một bên trong quan hệ lao động có hành vi vi phạm pháp luật lao động, gây thiệt hại cho bên kia nhằm khôi phục tình trạng tài sản, bù đắp tổn thất về tinh thần, sức khỏe cho người bị thiệt hại” [11, tr. 16]. Cách định nghĩa này có nhiều điểm tương đồng với định nghĩa về bồi thường thiệt hại trong QHLĐ của PGS.TS. Nguyễn Hữu Chí, tuy nhiên, ở đây tác giả Nguyễn Thị Bích Nga đưa ra quan điểm bồi thường thiệt hại trong QHLĐ chỉ phát sinh khi có vi phạm pháp luật lao động. Theo cách hiểu trên, bồi thường thiệt hại theo luật lao động là một loại trách nhiệm pháp lý được quy định trong các văn bản pháp luật lao động và 10
  17. được đảm bảo thực hiện bằng các biện pháp cưỡng chế nhà nước. Việc bồi thường thiệt hại theo luật lao động có thể phát sinh khi một chủ thể trong quan hệ pháp luật lao động có hành vi trực tiếp hay gián tiếp gây thiệt hại cho chủ thể phía bên kia. Tuy nhiên, cách hiểu này chưa bao hàm được hết các trường hợp bồi thường thiệt hại trong luật lao động trên thực tế, bởi trách nhiệm bồi thường thiệt hại, không phải chỉ xuất phát từ các chủ thể trong quan hệ lao động, mà trong một số trường hợp còn xuất phát từ các chủ thể của quan hệ liên quan đến quan hệ lao động, chẳng hạn như quan hệ pháp luật về học nghề, việc làm, hay quan hệ pháp luật về đưa NLĐ Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng. Trong luận văn “Vấn đề bồi thường thiệt hại theo Luật lao động Việt Nam”của tác giả Nguyễn Ngọc Lan [9, tr. 9], khái niệm về bồi thường thiệt hại trong pháp luật lao động cũng tương tự như của tác giả Nguyễn Thị Bích Nga, tuy nhiên, nội hàm bồi thường thiệt hại trong luật lao động trong luận văn này lại được xác định rộng hơn, không chỉ bao gồm nội dung bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khỏe; bồi thường thiệt hại về tài sản; bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng; bồi thường thiệt hại về tiền lương mà còn bao gồm cả trường hợp bồi thường thiệt hại do NLĐ, tập thể NLĐ đình công; bồi thường thiệt hại trong lĩnh vực xuất khẩu lao động. Qua nghiên cứu, đánh giá định nghĩa về bồi thường thiệt hại trong QHLĐ trong một vài tác phẩm nêu trên, tác giả xin đưa ra một định nghĩa về bồi thường thiệt hại trong pháp luật lao động như sau: Bồi thường thiệt hại trong pháp luật lao động là trách nhiệm pháp lý phát sinh khi một bên chủ thể trong quan hệ lao động hoặc quan hệ liên quan đến quan hệ lao động, có hành vi trực tiếp hay gián tiếp gây thiệt hại cho chủ thể bên kia, nhằm bù đắp những tổn thất về vật chất, sức khỏe, tinh thần cho bên bị thiệt hại. 11
  18. Mục đích của việc bồi thường thiệt hại là nhằm bù đắp những tổn thất về vật chất, tinh thần hay tính mạng, sức khỏe do hành vi gây thiệt hại gây ra. Việc xác định mức bồi thường thường căn cứ vào mức độ thiệt hại, hình thức lỗi của người gây thiệt hại trong từng trường hợp cụ thể và được trả bằng tiền để bên bị thiệt hại dễ dàng sử dụng nhằm bù đắp những thiệt hại xảy ra. Chế định bồi thường thiệt hại trong luật lao động có vai trò quan trọng trong việc đảm bảo củng cố kỷ luật lao động, cũng như đảm bảo lợi ích của các bên tham gia vào quan hệ lao động và quan hệ liên quan đến quan hệ lao động. Xuất phát từ những đặc trưng của các quan hệ xã hội được luật lao động điều chỉnh như: người lao động là người trực tiếp tiến hành các hoạt động sản xuất, kinh doanh trong quá trình lao động, NSDLĐ là người có tài sản khi tham gia quan hệ lao động, hoặc tập thể lao động có quyền ngừng việc gây thiệt hại về vật chất cho người sử dụng trong những trường hợp nhất định nên vấn đề bồi thường thiệt hại theo luật lao động trong từng trường hợp cụ thể cần được xác định linh hoạt. Cụ thể là: i) Đối với việc bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khỏe trong quan hệ lao động, đối tượng được bồi thường là người lao động vì họ là người trực tiếp thực hiện các thao tác nghiệp vụ trong dây chuyền sản xuất và sự cố tai nạn lao động sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến tính mạng, sức khỏe người lao động. Trong trường hợp tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp xảy đến đối với người lao động, trách nhiệm bồi thường trước hết thuộc về NSDLĐ nếu họ có lỗi để xảy ra tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp. Bên cạnh đó, một phần trách nhiệm bồi thường thiệt hại cũng sẽ thuộc về cơ quan bảo hiểm xã hội. Đây được xem là quy định đặc thù của luật lao động, khác hẳn so với trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm tính mạng, sức khỏe của người khác trong quan hệ dân sự; ii) Đối với việc bồi thường những thiệt hại về tài sản trong quá trình 12
  19. lao động, người bị thiệt hại thường là NSDLĐ do họ là chủ sở hữu đối với tư liệu sản xuất. Người có trách nhiệm bồi thường thông thường là người lao động khi có hành vi gây thiệt hại về tài sản khi tham gia quan hệ lao động. Cá biệt cũng có những trường hợp người bị thiệt hại là người lao động như trong quan hệ việc làm hoặc học nghề. Ngoài ra, trong một số trường hợp, trách nhiệm bồi thường không chỉ thuộc về NLĐ mà còn thuộc về chủ thể liên quan đến quan hệ lao động; iii) Đối với những quan hệ bồi thường do vi phạm hợp đồng lao động, hợp đồng thử việc, hợp đồng học nghề hay hợp đồng đưa người lao động ra nước ngoài làm việc là những quan hệ hợp đồng được luật lao động điều chỉnh, người có trách nhiệm bồi thường lại có thể là bất cứ chủ thể nào tham gia quan hệ pháp luật lao động đã có hành vi gây thiệt hại về hợp đồng đối với chủ thể phía bên kia. iv) Đối với trường hợp bồi thường thiệt hại về tiền lương do NSDLĐ trả lương không đúng kỳ hạn, trách nhiệm bồi thường thiệt hại đương nhiên thuộc về phía NSDLĐ. 1.2.2. Căn cứ áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong lao động Một là, có hành vi vi phạm gây thiệt hại: Từ góc độ pháp lý, một hành vi không thể bị coi là trái pháp luật và chủ thể thực hiện hành vi đó không phải gánh chịu trách nhiệm nếu có thiệt hại xảy ra khi hành vi đó không bị pháp luật cấm, cho dù nó có trái đạo đức hay bị dư luận xã hội lên án. Hành vi vi phạm pháp luật thường được biểu hiện ở hành động vi phạm những quy định của pháp luật hoặc cũng có thể được biểu hiện dưới dạng không hành động (không thực hiện nghĩa vụ mà pháp luật quy định phải thực hiện hoặc thực hiện không đúng với yêu cầu của pháp luật) nên gây thiệt hại cho xã hội. 13
  20. Khoản 1 Điều 604 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định hành vi vi phạm gây thiệt hại là hành vi “do lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc chủ thể khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường”. Hành vi vi phạm pháp luật lao động là hành vi trái pháp luật lao động do chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp luật lao động thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý xâm phạm tới quan hệ lao động và các quan hệ liên quan đến quan hệ lao động được pháp luật bảo vệ và phải chịu trách nhiệm pháp lý thích hợp. Đối với người lao động thì hành vi vi phạm được thể hiện bằng hành vi vi phạm kỷ luật lao động không hoàn thành nghĩa vụ lao động được giao hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đó, vi phạm hợp đồng lao động. Đối với người sử dụng lao động là hành vi vi phạm các quy định về an toàn, vệ sinh lao động, vi phạm hợp đồng lao động. Vi phạm pháp luật lao động được thể hiện ở dạng không hành động hoặc hành động. Vi phạm pháp luật lao động có thể chia thành hai loại là vi phạm trực tiếp và vi phạm gián tiếp. Vi phạm trực tiếp pháp luật lao động là những hành vi trái với quy định của Nhà nước về quan hệ lao động, về an toàn, vệ sinh lao động và những quy định trong lĩnh vực quản lý lao động. Vi phạm gián tiếp các quy định của pháp luật lao động là những hành vi vi phạm các quy định khác có tính chất thỏa thuận trong quan hệ lao động như vi phạm thỏa ước lao động tập thể, vi phạm hợp đồng lao động, vi phạm nội quy lao động. Tuy có sự khác biệt này, song xét đến cùng thì những vi phạm trên đều là vi phạm quy định của luật lao động, vì mặc dù vi phạm gián tiếp chỉ là vi phạm sự thỏa thuận những các thỏa thuận đó vẫn phải dựa trên cơ sở các quy 14
  21. định của BLLĐ và các văn bản hướng dân thi hành về các vấn đề như tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hộ lao động, thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi, kỷ luật lao động và khi có sự vi phạm sẽ xử lý bằng pháp luật. Hai là, có thiệt hại xảy ra Là một yếu tố cấu thành cơ bản của trách nhiệm bồi thường thiệt hại, đây là một điều kiện được coi là bắt buộc và quyết định việc có phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại hay không. Thiệt hại xảy ra trong quan hệ pháp luật lao động khác với thiệt hại trong quan hệ pháp luật hình sự vì trách nhiệm hình sự được đặt ra do tính chất nguy hiểm của hành vi gây ra hoặc có khả năng gây ra hậu quả mà phải chịu trách nhiệm hình sự, còn đối với trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong quan hệ lao động phải phát sinh thiệt hại dù là thiệt hại không nghiêm trọng thì người gây thiệt hại mới phải bồi thường, Thông thường, thiệt hại được hiểu là sự suy giảm lợi ích vật chất hoặc tinh thần của một người di có sự kiện gây thiệt hại của người khác được xác định bằng một khoản tiền cụ thể. Dưới góc độ xã hội, thiệt hại động chạm và làm ảnh hưởng đến những quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ. Còn dưới góc độ pháp luật lao động thì thiệt hại tự nó đã nói lên một điều rằng hành vi vi phạm đã xâm phạm đến những quyền, lợi ích hợp pháp khác của các bên trong quan hệ lao động. Người lao động khi tham gia vào quan hệ lao động cần được bảo đảm về tính mạng, sức khỏe, cần được bảo đảm nguồn thu nhập ổn định do bán sức lao động. Còn người sử dụng lao động khi bỏ vốn ra đầu tư không những mong muốn bảo toàn tài sản mà còn muốn thu được lợi nhuận. Do đó, thiệt hại trong quan hệ lao động chính là sự giảm sút về số lượng cũng như chất lượng của hàng hóa sức lao động, là thiệt hại về tài sản và thu nhập đáng lẽ ra các bên có được hoặc là những thiệt hại về danh dự, uy tín của các bên. Tuy nhiên, tính chất của thiệt hại phải như thế nào mới đặt ra vẫn đề bồi thường thiệt hại. Yêu cầu đối với những nhà làm luật và những người áp dụng 15