Luận văn Biện pháp điều tra khám xét theo luật tố tụng hình sự Việt Nam

pdf 119 trang vuhoa 25/08/2022 8120
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Biện pháp điều tra khám xét theo luật tố tụng hình sự Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_bien_phap_dieu_tra_kham_xet_theo_luat_to_tung_hinh.pdf

Nội dung text: Luận văn Biện pháp điều tra khám xét theo luật tố tụng hình sự Việt Nam

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ NHÀN BIÖN PH¸P §IÒU TRA KH¸M XÐT THEO LUËT Tè TôNG H×NH Sù VIÖT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2015
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ NHÀN BIÖN PH¸P §IÒU TRA KH¸M XÐT THEO LUËT Tè TôNG H×NH Sù VIÖT NAM Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. LÊ LAN CHI HÀ NỘI - 2015
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố tại bất kỳ công trình khoa học nào khác. Các trích dẫn và ví dụ đưa ra đảm bảo chính xác, trung thực. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! Người cam đoan Nguyêñ Thi Ṇ hàn
  4. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các chữ viết tắt Danh mục các bảng MỞ ĐẦU 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BIỆN PHÁP ĐIỀU TRA KHÁM XÉT TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ 7 1.1. Khái niệm, đặc điểm của biện pháp điều tra khám xét 7 1.1.1. Khái niệm 7 1.1.2. Đặc điểm 10 1.2. Ý nghĩa của việc quy định biện pháp điều tra khám xét trong luật tố tụng hình sự 15 1.3. Lịch sử phát triển của các quy định về biện pháp điều tra khám xét từ năm 1945 đến trước ngày 01/07/2004 17 1.3.1. Từ năm 1945 đến trước năm 1975 17 1.3.2. Từ năm 1975 đến trước 01/07/2004 20 1.4. Các quy định về biện pháp điều tra khám xét trong luật tố tụng hình sự của một số quốc gia trên thế giới 23 1.4.1. Luật tố tụng hình sự của Nhật Bản 23 1.4.2. Luật Tố tụng hình sự của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ 25 1.4.3. Luật Tố tụng hình sự của Liên bang Nga 27 Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM NĂM 2003 VỀ BIỆN PHÁP ĐIỀU TRA KHÁM XÉT VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG 33
  5. 2.1. Các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 2003 về biện pháp điều tra khám xét 33 2.1.1. Căn cứ khám xét 33 2.1.2. Thẩm quyền ra lệnh và tiến hành khám xét 36 2.1.3. Các biện pháp khám xét cụ thể 40 2.2. Thực tiễn thực hiện hoạt động khám xét 49 2.2.1. Tình hình thực hiện hoạt động khám xét 49 2.2.2. Những kết quả đạt được 52 2.2.3. Những hạn chế và nguyên nhân 57 Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG BIỆN PHÁP ĐIỀU TRA KHÁM XÉT 66 3.1. Hoàn thiện các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 về biện pháp điều tra khám xét 67 3.2. Những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp điều tra khám xét 80 KẾT LUẬN 85 DANH MUC̣ TÀ I LIÊỤ THAM KHẢ O 87 PHỤ LỤC 91
  6. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự CQĐT: Cơ quan điều tra
  7. DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu bảng Tên bảng Trang Bảng 2.1. Số vụ án thực hiện hoạt động khám xét khẩn cấp 50 Bảng 2.2. Số lượng và tỷ lệ các loại vụ án thực hiện hoạt động khám xét 51 Bảng 2.3. Số lượng và tỷ lệ các hoạt động khám xét cụ thể được áp dụng 52
  8. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Luật tố tụng hình sự là ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật Việt Nam, điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình giải quyết vụ án hình sự; quyền - nghĩa vụ của các chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật tố tụng hình sự và trình tự, thủ tục thực hiện các hoạt động tố tụng hình sự cụ thể. Pháp luật tố tụng hình sự vừa là công cụ đấu tranh, phòng ngừa tội phạm vừa là cơ sở bảo vệ quyền con người, quyền công dân [23, tr.13]. Điều này được thể hiện qua nhiều quy định khác nhau của Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam (BLTTHS), trong đó có quy định về các biện pháp điều tra. Trong quá trình điều tra vụ án hình sự, những tài liệu, chứng cứ mà các cơ quan có thẩm quyền thu thập được như: công cụ, phương tiện phạm tội, đồ vật mang dấu vết tội phạm luôn có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định, chứng minh tội phạm và người phạm tội. Thực tế cho thấy, một phần đáng kể những tài liệu, chứng cứ này được thu thập thông qua hoạt động điều tra khám xét. Khám xét là một trong những biện pháp điều tra có tính chất cưỡng chế, tác động đến những quyền cơ bản của công dân được Hiến pháp và pháp luật ghi nhận. Các quy định về khám xét là cơ sở để các cơ quan có thẩm quyền tác động hợp pháp đến quyền cơ bản của công dân, phát hiện, thu thập chứng cứ, tài liệu có ý nghĩa chứng minh trong vụ án, từ đó xác định phương hướng điều tra và sớm hoàn thành nhiệm vụ làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án. Nghiên cứu sự phát triển của luật tố tụng hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến nay cho thấy các biện pháp điều tra hình sự nói chung và biện pháp khám xét nói riêng đã được quy định cụ thể, có sự kế thừa, bổ sung qua từng 1
  9. thời kỳ. Biện pháp khám xét được ghi nhận trong Chương XII BLTTHS năm 2003 là kết quả của nhiều lần sửa đổi, bổ sung trên cơ sở thực tiễn áp dụng và thi hành của các cơ quan có thẩm quyền tiến hành điều tra. Tuy nhiên, trước những diễn biến phức tạp của tình hình tội phạm hiện nay, một số quy định về biện pháp điều tra khám xét trong BLTTHS năm 2003 đã bộc lộ những bất cập, hạn chế nhất định như chưa quy định chặt chẽ về căn cứ khám xét, thẩm quyền ra lệnh và tiến hành khám xét, thời hạn tiến hành khám xét, quy định về những hoạt động khám xét cụ thể còn nhiều điểm chưa hợp lý, những hướng dẫn về việc tiến hành hoạt động khám xét trong một số trường hợp cụ thể cũng chưa được ghi nhận Những tồn tại và hạn chế nêu trên đã gây ra vướng mắc, lúng túng trong quá trình thực hiện hoạt động điều tra của các cơ quan chức năng. Mặt khác, trong thực tiễn áp dụng, hoạt động khám xét của các cơ quan này, đặc biệt là cơ quan điều tra (CQĐT) còn xảy ra một số vi phạm về trình tự, thủ tục, thẩm quyền, dẫn đến việc xâm phạm các quyền cơ bản của công dân, làm giảm hiệu quả của hoạt động khám xét nói riêng và hoạt động điều tra, giải quyết vụ án hình sự nói chung. Trong bối cảnh Việt Nam đang thực hiện công cuộc cải cách tư pháp theo tinh thần Nghị quyết số 08 ngày 02/01/2002 của Bộ chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới; Nghị quyết số 48- NQ/TW ngày 25/4/2005 của Bộ chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 và Nghị quyết số 49- NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, việc tiếp tục nghiên cứu các quy định của BLTTHS hiện hành về biện pháp điều tra khám xét và thực tiễn áp dụng để làm sáng tỏ về mặt khoa học, thực tiễn đồng thời đưa ra những giải pháp hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả áp dụng của những quy định đó có ý nghĩa lý luận, thực tiễn và pháp lý sâu sắc. 2
  10. Chính vì vậy, học viên quyết định lựa chọn đề tài: “Biện pháp điều tra khám xét theo luật tố tụng hình sự Việt Nam” làm luận văn thạc sĩ luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài Do khám xét có vị trí, vai trò quan trọng trong hoạt động điều tra nên đã có một số công trình nghiên cứu khoa học ở những mức độ, những phương diện khác nhau về biện pháp này. Trong đó, có một số công trình tiêu biểu như sau: Về giáo trình, sách chuyên khảo, bình luận có các công trình như: PGS.TS Nguyễn Ngọc Chí, “Chương 11 – Điều tra vụ án hình sự”, Giáo trình luật Tố tụng hình sự Việt Nam, NXB Đại học quốc gia Hà Nội, 2014; Phạm Thanh Bình, Một trăm lời giải đáp về bắt giữ, khám xét, NXB Công an nhân dân, Hà Nội 1992; Nguyễn Vạn Nguyên, Một trăm câu hỏi đáp về bắt, giam, giữ và khám xét đúng pháp luật, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 1995; Nguyễn Mai Bộ, Nguyễn Sĩ Đại, Biện pháp ngăn chặn và khám xét, thu giữ, tạm giữ và kê biên tài sản: tìm hiểu pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 2002; Nguyễn Mai Bộ, Biện pháp ngăn chặn khám xét và kê biên tài sản trong Bộ luật tố tụng hình sự, NXB Tư pháp, Hà Nội 2004; Dưới góc độ bài báo nghiên cứu khoa học, tác giả Nguyễn Thanh Bình, Ngô Văn Vịnh cũng có bài viết “Hoàn thiện quy định về khám xét trong bộ luật tố tụng hình sự năm 2003”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 6/2013. Trên cơ sở khảo sát nêu trên, có thể thấy, ở nước ta đã có một số công trình nghiên cứu về biện pháp điều tra khám xét. Tuy nhiên, những nghiên cứu về đề tài này chủ yếu là với tư cách một nội dung của sách chuyên khảo, tham khảo, giáo trình hay các và bài nghiên cứu mà chưa có các công trình chuyên sâu như luận văn, luận án. Mặt khác, những công trình nêu trên mới chỉ đề cập một cách tổng thể, khái quát những vấn đề lý luận chứ chưa nghiên 3
  11. cứu một cách toàn diện, sâu sắc, riêng biệt về biện pháp khám xét dưới cả hai góc độ lý luận và thực tiễn áp dụng. Như vậy, tình hình nghiên cứu trên đây đã lần nữa cho thấy việc nghiên cứu đề tài: “Biện pháp điều tra khám xét theo luật tố tụng hình sự Việt Nam” là đòi hỏi khách quan, mang tính lý luận và thực tiễn trong bối cảnh hiện nay. 3. Đối tượng, mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là biện pháp điều tra khám xét theo luật tố tụng hình sự Việt Nam. 3.2. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của luận văn là từ việc giải mã các vấn đề lý luận, đánh giá các quy định của pháp luật về biện pháp điều tra khám xét và thực tiễn áp dụng, luận văn đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định về khám xét trong luật Tố tụng hình sự Việt Nam, đồng thời đề xuất những giải pháp khác nâng cao hiệu quả của biện pháp điều tra này trong thực tiễn thực hiện. 3.3. Nhiệm vụ nghiên cứu Từ mục đích nghiên cứu trên, luận văn có những nhiệm vụ chủ yếu sau: - Giải quyết một số vấn đề lý luận về biện pháp điều tra khám xét như: khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa; - Khái quát sự phát triển của các quy định về khám xét trong lịch sử pháp luật tố tụng hình sự của nước ta để rút ra những nhận xét, đánh giá; - Trên cơ sở nghiên cứu các quy định về biện pháp điều tra khám xét trong pháp luật Tố tụng hình sự của một số quốc gia trên thế giới, đưa ra những đánh giá, nhận xét và từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm trong việc hoàn thiện các quy định của pháp luật Việt Nam về biện pháp điều tra này; 4
  12. - Phân tích những quy định của pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam về biện pháp điều tra khám xét, bao gồm: căn cứ, thẩm quyền, trình tự, thủ tục tiến hành khám xét; các biện pháp khám xét cụ thể từ đó rút ra những tồn tại, hạn chế của các quy định về khám xét trong luật thực định cần khắc phục; - Đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định về biện pháp điều tra khám xét, đồng thời phân tích, làm rõ những tồn tại, hạn chế xung quanh việc áp dụng và những nguyên nhân của nó; - Đề xuất những định hướng và giải pháp hoàn thiện các quy định về biện pháp khám xét trong Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành và nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp này trong thực tiễn. 3.4. Phạm vi nghiên cứu Luận văn nghiên cứu và giải quyết những vấn đề lý luận xung quanh biện pháp điều tra khám xét trong luật tố tụng hình sự Việt Nam; vấn đề thực tiễn được tiếp cận, khái quát và đánh giá dựa trên kết quả nghiên cứu với giới hạn về thời gian từ năm 2010 đến năm 2014. 4. Phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu Trên cơ sở phương pháp luận từ phép duy vật biện chứng, phép duy vật lịch sử, trong quá trình nghiên cứu đề tài, học viên đã sử dụng các phương pháp cụ thể như: phương pháp phân tích và tổng hợp; phương pháp so sánh và đối chiếu; phương pháp thống kê để tổng hợp các tri thức khoa học và luận chứng các vấn đề tương ứng được nghiên cứu trong luận văn. 5. Những điểm mới và đóng góp của Luận văn Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa quan trọng về phương diện lý luận và thực tiễn, vì đây là công trình nghiên cứu ở cấp độ luận văn thạc sĩ luật học về biện pháp điều tra khám xét, trong đó giải quyết nhiều vấn đề liên quan đến biện pháp điều tra này trong luật Tố tụng hình sự. Những điểm mới cơ bản của Luận văn, có thể đây là một trong những công trình nghiên cứu đầu tiên: - Xây dựng khái niệm biện pháp điều tra khám xét, xác định các đặc 5
  13. điểm cơ bản của biện pháp điều tra này cũng như ý nghĩa của việc quy định hoạt động điều tra khám xét trong luật tố tụng hình sự Việt Nam; - Chỉ ra những đặc điểm chủ yếu của quá trình hình thành và phát triển của biện pháp điều tra khám xét trong pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến nay; - Trình bày, đánh giá, nhận xét pháp luật Tố tụng hình sự của một số quốc gia trên thế giới về biện pháp điều tra khám xét; - Làm sáng tỏ tình hình thực hiện hoạt động khám xét của CQĐT các cấp và một số cơ quan khác có thẩm quyền điều tra; những tồn tại, hạn chế của thực tiễn pháp luật và thực tiễn thực hiện hoạt động khám xét cũng như những nguyên nhân của các tồn tại, hạn chế đó; - Đề xuất định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật thực định và nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp điều tra này ở Việt Nam trong thời gian tới. Luận văn sẽ là một tài liệu tham khảo cần thiết và bổ ích dành cho các nhà lập pháp, các nhà nghiên cứu, các cán bộ giảng dạy pháp luật, các nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh viên chuyên ngành Tư pháp hình sự tại các cơ sở đào tạo luật. Kết quả nghiên cứu của luận văn còn phục vụ cho việc trang bị những kiến thức chuyên sâu cho các cán bộ thực tiễn đang công tác tại các CQĐT, Viện kiểm sát, Tòa án trong quá trình giải quyết vụ án hình sự bảo đảm khách quan, có căn cứ và đúng pháp luật. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục, nội dung của Luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề chung về biện pháp điều tra khám xét trong tố tụng hình sự Chương 2: Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 2003 về biện pháp điều tra khám xét và thực tiễn áp dụng Chương 3: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp điều tra khám xét. 6
  14. Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BIỆN PHÁP ĐIỀU TRA KHÁM XÉT TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ 1.1. Khái niệm, đặc điểm của biện pháp điều tra khám xét 1.1.1. Khái niệm Khám xét là một trong những biện pháp điều tra được quy định trong pháp luật của nhiều nước trên thế giới nói chung và trong lịch sử Tố tụng hình sự Việt Nam nói riêng. Ở góc độ khoa học luật Tố tụng hình sự, biện pháp điều tra khám xét cũng là đề tài nghiên cứu của nhiều học giả. Xung quanh khái niệm khám xét tồn tại nhiều quan niệm, cách thức định nghĩa khác nhau: Theo Từ điển tiếng Việt năm 2003, “khám” dưới góc độ pháp lý được hiểu là: “Xét, lục soát để tìm tang chứng của tội lỗi, của hoạt động phạm pháp” [42, tr.230]. Từ điển Luật học của trường Đại học Luật Hà Nội năm 2000 đưa ra khái niệm khám xét là: Một hoạt động điều tra được tiến hành ngay sau khi khởi tố vụ án theo lệnh của người có thẩm quyền theo quy định tại điều 141- Bộ luật tố tụng hình sự, để tìm kiếm và thu hồi công cụ phạm tội, tiền bạc và đồ vật do phạm tội mà có, cũng như mọi đồ vật và tài liệu khác có thể có ý nghĩa đối với vụ án. Có thể tiến hành phát hiện những người đang bị truy nã và phát hiện tử thi [38, tr.92]. Có thể thấy, việc định nghĩa khám xét theo Từ điển nêu trên đã nêu lên được khám xét là hoạt động tố tụng hình sự đồng thời là biện pháp nghiệp vụ điều tra của các cơ quan có thẩm quyền, áp dụng đối với tội phạm nhằm phát hiện những người đang bị truy nã và phát hiện tử thi. Tuy nhiên, định nghĩa này lại chưa khẳng định được bản chất của khám xét là sự tìm tòi, lục soát, cưỡng chế của các cơ quan có thẩm quyền trên những đối tượng nhất định, 7
  15. cũng chưa thể hiện đầy đủ mục đích của khám xét là nhằm phát hiện những chứng cứ, tài liệu có liên quan đến vụ án, hoặc tìm kiếm người đang bỏ trốn, người bị bắt cóc, hoặc phát hiện các phần của tử thi dẫn đến việc hiểu không thật sự đầy đủ về bản chất, mục đích của hoạt động khám xét. Bên cạnh đó, việc quan niệm khám xét là một hoạt động điều tra được tiến hành ngay sau khi khởi tố vụ án là chưa phù hợp. Bởi lẽ, khám xét là một trong những biện pháp điều tra ban đầu nên biện pháp này hoàn toàn có thể được thực hiện trước hoặc sau khi khởi tố vụ án hình sự. Dưới góc độ khoa học luật Tố tụng hình sự, trong những cuốn sách chuyên khảo hoặc giáo trình luật tố tụng hình sự, các nhà nghiên cứu cũng đã đưa ra nhiều cách tiếp cận và định nghĩa khác nhau về biện pháp điều tra khám xét: Giáo trình Khoa học điều tra hình sự của trường Đại học Luật Hà Nội năm 2014 định nghĩa: Khám xét là biện pháp điều tra được tiến hành bằng cách tìm tòi, lục soát, cưỡng chế người, chỗ ở, địa điểm, thư tín, bưu kiện, bưu phẩm nhằm phát hiện, thu giữ công cụ, phương tiện phạm tội; đồ vật, tài sản do phạm tội mà có, đồ vật tài liệu khác có liên quan đến vụ án hoặc phát hiện xác chết hay người đang bị truy nã, người bị bắt cóc [39, tr.149]. Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam của Khoa luật Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2014 quan niệm: Khám xét là biện pháp điều tra bằng cách tìm tòi, lục soát có định hướng người, chỗ ở, địa điểm, đồ vật, thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm nhằm thu thập công cụ, phương tiện phạm tội, vật mang dấu vết của tội phạm hoặc những vật, tài liệu khác có liên quan đến vụ án đang giải quyết hoặc xác chết hay người bị truy nã [23, tr.341]. PGS.TS. Nguyễn Ngọc Anh trong Cuốn Sổ tay pháp luật của Điều tra 8
  16. viên lại định nghĩa: “Khám xét là hoạt động điều tra được quy định trong BLTTHS, do cơ quan điều tra tiến hành bằng cách lục soát người, chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm để tìm kiếm dấu vết tội phạm, thu thập tài liệu, vật chứng hoặc những đồ vật, tài liệu khác có liên quan đến vụ án” [2, tr.102]. Các định nghĩa về khám xét nêu trên đã khắc phục được hạn chế trong cách định nghĩa của Từ điển, đồng thời nhấn mạnh, làm sáng tỏ được những nội dung cơ bản của biện pháp khám xét như bản chất, mục đích và các hoạt động khám xét cụ thể. Theo đó, bản chất của biện pháp khám xét là sự tìm tòi, lục soát, cưỡng chế của các cơ quan có thẩm quyền trên những đối tượng nhất định. Mục đích của khám xét là nhằm thu thập những chứng cứ, tài liệu hoặc các đồ vật khác có liên quan đến vụ án, từ đó làm cơ sở để giải quyết vụ án hình sự. Các hoạt động khám xét rất đa dạng, bao gồm khám người, khám chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm, khám thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm Tuy nhiên, những định nghĩa trên nêu trên vẫn có hạn chế là chưa đề cập đến các nội dung về căn cứ, trình tự, thủ tục tiến hành khám xét, thậm chí, thẩm quyền tiến hành khám xét cũng chưa được thể hiện hoặc thể hiện không đầy đủ. Có định nghĩa không thể hiện nội dung thẩm quyền khám xét, có định nghĩa lại thể hiện nội dung này không đầy đủ khi chỉ quan niệm thẩm quyền tiến hành khám xét thuộc về CQĐT. Trên thực tế, khám xét là biện pháp điều tra được thực hiện trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự nên bên cạnh CQĐT, hàng loạt các cơ quan khác như Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển và các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra cũng có thẩm quyền tiến hành khám xét trong phạm vi quyền hạn của mình theo quy định của pháp luật. Theo chúng tôi, dưới góc độ khoa học luật tố tụng hình sự, khám xét cần được hiểu đầy đủ là: “một biện pháp điều tra được quy định trong luật tố 9
  17. tụng hình sự, do các cơ quan có thẩm quyền tiến hành bằng cách tìm tòi, lục soát, cưỡng chế người, chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm, thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm để tìm kiếm, thu thập dấu vết của tội phạm, tài liệu, vật chứng hoặc những đồ vật khác có liên quan đến vụ án theo các căn cứ, trình tự, thủ tục luật định”. Như vậy, theo khái niệm trên, biện pháp điều tra khám xét phải bao hàm những yếu tố sau: - Được thực hiện bởi các cơ quan có thẩm quyền khi có đủ căn cứ và theo một trình tự, thủ tục luật định. - Khám xét chủ yếu bao gồm các hoạt động: tìm tòi, lục soát, cưỡng chế. - Các biện pháp khám xét cụ thể bao gồm: khám người, chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm, thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm. - Mục đích chung của biện pháp khám xét là phát hiện, thu thập những chứng cứ, tài liệu hoặc đồ vật khác liên quan đến việc giải quyết vụ án hình sự. 1.1.2. Đặc điểm Biện pháp điều tra khám xét có một số đặc điểm cơ bản sau: Thứ nhất, khám xét là biện pháp điều tra trong tố tụng hình sự có mục đích là phát hiện, thu thập vật chứng có liên quan trong vụ án hình sự, từ đó làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án Như đã phân tích ở phần trên, trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, có nhiều biện pháp điều tra khác nhau được thực hiện và mỗi biện pháp mang lại những mục đích, hiệu quả riêng. Đối với biện pháp khám xét, khi thực hiện, các cơ quan có thẩm quyền sẽ phát hiện, thu thập được những chứng cứ, tài liệu có liên quan đến vụ án. Đó có thể là vũ khí, công cụ, phương tiện phạm tội, những tài sản bị tội phạm chiếm đoạt, những vật mang dấu vết tội phạm, những mẫu vật để nghiên cứu, so sánh hoặc những giấy tờ, tài liệu khác có liên quan đến vụ án. Trong một số trường hợp, khi hoạt động khám 10
  18. xét được tiến hành tại chỗ ở, địa điểm, chỗ làm việc của của chủ thể bị khám xét còn giúp phát hiện người đang bị truy nã, tử thi hoặc các phần của tử thi, người bị bắt cóc, người bị giam giữ Những tài liệu, chứng cứ này là cơ sở quan trọng để các cơ quan có thẩm quyền xác định có hay không có hành vi phạm tội xảy ra, nếu có căn cứ để xác định là đã xảy ra hành vi phạm tội thì lập kế hoạch, phương hướng điều tra và tổ chức thực hiện các hoạt động điều tra phù hợp, từ đó từng bước chứng minh tội phạm, nhanh chóng làm sáng tỏ sự thật khách quan trong vụ án hình sự. Thứ hai, khám xét là biện pháp điều tra mang tính cưỡng chế trong tố tụng hình sự Theo Từ điển tiếng Việt năm 2003, cưỡng chế là “buộc người khác phải làm theo những ý nghĩ hoặc hành động của mình” [42, tr.78], suy rộng ra, cưỡng chế trong tố tụng hình sự là việc căn cứ vào các quy định của pháp luật tố tụng hình sự để buộc các đối tượng bị áp dụng phải tuân theo những mệnh lệnh, yêu cầu nhất định. Trong tố tụng hình sự, có nhiều biện pháp cưỡng chế khác nhau được ghi nhận như các biện pháp ngăn chặn bắt bị can, bị cáo để tạm giam, bắt người trong trường hợp khẩn cấp, bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, đặt tiền để bảo đảm hoặc các biện pháp điều tra thể hiện tính cưỡng chế như khám xét, thu giữ, tạm giữ đồ vật là vật chứng và tài liệu có liên quan trực tiếp đến vụ án, xem xét dấu vết trên thân thể, áp giải, dẫn giải, kê biên tài sản Khi thực hiện những biện pháp này, các cơ quan có thẩm quyền phải căn cứ vào các quy định của luật tố tụng hình sự và những quy định liên quan khác để buộc các đối tượng bị áp dụng phải tuân thủ. Có thể thấy khám xét là biện pháp điều tra có tác động mạnh đến những quyền cơ bản của công dân đã được pháp luật Việt Nam bảo vệ. Đó là các quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở, an toàn và bí mật thư tín, điện thoại, điện tín của 11
  19. công dân được ghi nhận tại BLTTHS “Không ai được xâm phạm về chỗ ở, an toàn và bí mật thư tín, điện thoại, điện tín của công dân” [31, Điều 8]; quyền bảo hộ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của công dân ghi nhận tại BLTTHS “Công dân có quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản. Mọi hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản đều bị xử lý theo pháp luật” [31, Điều 7]. Tuy nhiên, để kịp thời ngăn chặn âm mưu, hành động phạm tội của tội phạm và thúc đẩy quá trình giải quyết vụ án hình sự, luật tố tụng hình sự vẫn ghi nhận quyền tiến hành khám xét của các cơ quan có thẩm quyền nếu những cơ quan này có đủ căn cứ để nhận định trong người, chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm của của một người có công cụ, phương tiện phạm tội, đồ vật, tài sản do phạm tội mà có, đồ vật, tài liệu khác có liên quan đến vụ án hoặc khi cần phát hiện người đang bị truy nã. Những đối tượng bị khám xét có nghĩa vụ phải chấp hành đầy đủ các yêu cầu của lực lượng tiến hành khám xét, nếu các đối tượng bi áp dụng có hành vi cản trở, chống đối hoặc không hợp tác thì tùy theo tính chất của hành vi, họ sẽ phải gánh chịu những hậu quả pháp lý nhất định. Thứ ba, khám xét là biện pháp điều tra có sự đa dạng về đối tượng, địa điểm thực hiện Trong quá trình thực hiện hành vi phạm tội, tội phạm hoặc người bị tình nghi là tội phạm hoặc những người có liên quan khác có thể che giấu những tài liệu, công cụ, phương tiện có liên quan đến vụ án ở nhiều địa điểm, trong nhiều đồ vật khác nhau, đó có thể là trên người, nơi ở, nơi làm việc hoặc trong bưu kiện, bưu phẩm Bởi vậy, với vai trò là một biện pháp điều tra giúp các cơ quan có thẩm quyền điều tra tìm kiếm, phát hiện những tài liệu, công cụ liên quan đến vụ án bị tội phạm che giấu, khám xét cũng có sự đa dạng về đối tượng. Theo đó, đối tượng của biện pháp khám xét bao gồm: người, chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm, thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm 12
  20. Mỗi đối tượng khám xét khác nhau sẽ giúp cơ quan có thẩm quyền thu thập những đồ vật, tài liệu khác nhau, từ đó tổng hợp, đánh giá chứng cứ. Sự đa dạng trong đối tượng của biện pháp điều tra khám xét vừa tạo sự khách quan trong hoạt động tìm kiếm, thu thập chứng cứ, vừa góp phần nâng cao hiệu quả cho hoạt động điều tra cũng như quá trình giải quyết vụ án hình sự. Thứ tư, khám xét phải được tiến hành theo những nguyên tắc nhất định Trước hết, hoạt động khám xét phải tiến hành theo quy định của pháp luật. Như đã phân tích, quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở, an toàn và bí mật thư tín, điện thoại, điện tín là những quyền quan trọng của công dân được pháp luật bảo hộ, ghi nhận. Trong khi đó, đối tượng của hoạt động khám xét lại là người, chỗ ở, địa điểm, thư tín, điện tín Bởi vậy, khi tiến hành những hoạt động này, các cơ quan có thẩm quyền cần triệt để tuân theo các quy định của pháp luật. Nội dung của nguyên tắc này được thể hiện ở chỗ: Mọi cuộc khám xét phải đảm bảo tính hợp pháp về căn cứ, trình tự, thủ tục, thẩm quyền khám xét và không được xâm phạm các quyền cơ bản của công dân. Cụ thể: - Chỉ được khám xét khi có các căn cứ nhận định những nơi định khám xét đang cất giấu các vật chứng, đồ vật, tài liệu có liên quan đến vụ án hoặc ở đó có đối tượng đang bị truy nã lẩn trốn, người bị bắt cóc, xác chết hoặc các phần của nó Nếu chưa có đủ căn cứ ra lệnh khám xét thì các cơ quan có thẩm quyền cần phải thu thập những tài liệu bổ sung, nếu việc thu thập tài liệu bổ sung vẫn chưa đủ căn cứ khám xét thì không được ra lệnh khám xét. - Phải tuân thủ những quy định của Luật tố tụng hình sự về thẩm quyền ra lệnh khám xét: Việc khám xét chỉ được tiến hành khi có lệnh của những người có thẩm quyền. Trừ trường hợp bắt người hoặc khi có căn cứ để khẳng định người có mặt tại nơi khám xét giấu trong người những đồ vật, tài liệu cần thu giữ thì việc khám người có thể được tiến hành mà không cần có lệnh. - Khi tiến hành khám xét, các cơ quan có thẩm quyền phải tuân những quy định về trình tự, thủ tục khám xét đối với các đối tượng khám xét cụ thể. 13
  21. - Trong quá trình khám xét, những người thi hành lệnh khám xét không được có những hành vi xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự, nhân phẩm của công dân. Để đảm bảo thực hiện nội dung này, lực lượng khám xét phải tiến hành khám xét nghiêm túc, đúng pháp luật. Trước khi tiến hành khám xét, các cơ quan thi hành lệnh phải lên kế hoạch chuẩn bị khám xét một cách kỹ lưỡng, chu toàn bao gồm: nghiên cứu hồ sơ vụ án, thu thập, phân tích, đánh giá những tài liệu liên quan đến cuộc khám xét, lập kế hoạch khám xét (xác định thời gian khám xét, thành phần lực lượng khám xét, dự kiến những tình huống xảy ra và các biện pháp giải quyết). Khi tiến hành khám xét, người chủ trì cần giải thích, phổ biến kế hoạch khám xét cho các thành viên trong đội khám xét, phân công nhiệm vụ cho từng người và kiểm tra việc chuẩn bị của họ. Trong quá trình khám, lực lượng khám xét phải chấp hành các nguyên tắc: khi khám người, nam khám nam, nữ khám nữ và phải có người cùng giới chứng kiến; khi khám chỗ ở, địa điểm phải có mặt người chủ hoặc người đã thành niên trong gia đình, có đại diện xã, phường, thị trấn và người láng giềng chứng kiến; khi khám chỗ làm việc của một người thì phải có mặt người đó (trừ trường hợp không thể trì hoãn) và đại diện cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc Hoạt động khám xét phải đảm bảo yêu cầu về nghiệp vụ là bí mật, bất ngờ, bảo đảm an toàn cho người thực hiện. Để đạt được yêu cầu trên, cơ quan thi hành lệnh khám xét phải giữ bí mật chủ trương, kế hoạch khám xét, việc chuẩn bị, triển khai các lực lượng bao vây, giám sát và tạo được yếu tố bất ngờ khi xuất hiện ở nơi cần khám xét. Ngoài ra, trong quá trình khám xét, các cơ quan này không được để lộ bí mật về những phương tiện hỗ trợ, cách thức thực hiện và các biện pháp nghiệp vụ đã được áp dụng, tạo điều kiện thuận lợi cho công tác đấu tranh phòng chống tội phạm trước mắt và lâu dài. Đây là nhân tố cơ bản để hoạt động khám xét đạt được mục 14
  22. đích. Khi yêu cầu này được thực hiện, tội phạm sẽ không có cơ hội che giấu, tiêu hủy chứng cứ hoặc chạy trốn. 1.2. Ý nghĩa của việc quy định biện pháp điều tra khám xét trong luật tố tụng hình sự Thứ nhất, đảm bảo tính hợp pháp của chứng cứ Chứng cứ là những gì có thật, được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định mà CQĐT, Viện kiểm sát và Tòa án dung làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội cũng như những tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ án [31, Điều 64, khoản 1]. Theo khái niệm này, chứng cứ chỉ được coi là hợp pháp và có giá trị chứng minh khi thỏa mãn đầy đủ các thuộc tính khách quan, tính liên quan và tính được thu thập hợp pháp. Nếu thiếu đi một trong các thuộc tính này, chứng cứ sẽ mất đi giá trị chứng minh, trong đó thuộc tính được thu thập hợp pháp là thuộc tính cần được chú trọng bởi nó dễ bị xâm phạm nhất. Khi thực hiện hoạt động khám xét, để đảm bảo thuộc tính được thu thập hợp pháp của chứng cứ, các cơ quan có thẩm quyền phải tránh việc xâm phạm các quyền cơ bản của công dân. Trong tất cả các bản Hiến pháp của nước ta, các quyền bảo đảm an toàn về sức khỏe, tính mạng, bất khả xâm phạm về chỗ ở, an toàn và bí mật thư tín, điện tín của công dân luôn được ghi nhận. Hiến pháp 2013 quy định: “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm ” [35, Điều 20]. Hiến pháp 2013 ghi nhận: “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình; có quyền bảo vệ danh dự, uy tín của mình” [35, Điều 21]. Bản Hiến pháp này cũng quy định: “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở. Không ai được tự ý vào chỗ ở của người khác nếu không được người đó đồng ý. Việc khám xét chỗ ở do luật định ” [35, Điều 22]. Nếu chỉ căn cứ theo những quy 15