Luận văn Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư trong công ty niêm yết ở Việt Nam

pdf 117 trang vuhoa 23/08/2022 10460
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư trong công ty niêm yết ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_bao_ve_quyen_va_loi_ich_hop_phap_cua_nha_dau_tu_tro.pdf

Nội dung text: Luận văn Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư trong công ty niêm yết ở Việt Nam

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ THU PHƯƠNG BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA NHÀ ĐẦU TƯ TRONG CÔNG TY NIÊM YẾT Ở VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI – 2012 1
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ THU PHƯƠNG BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA NHÀ ĐẦU TƯ TRONG CÔNG TY NIÊM YẾT Ở VIỆT NAM Chuyên ngành : Luật Kinh tế Mã số : 60 38 50 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS LÊ THỊ THU THỦY Hà nội – 2012 2
  3. MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1 Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT 11 BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA NHÀ ĐẦU TƢ TRONG CÔNG TY NIÊM YẾT 1.1 Tổng quan về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư 11 trong công ty niêm yết 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm công ty niêm yết và nhà đầu tư chứng 11 khoán trong công ty niêm yết 1.1.1.1. Khái niệm, đặc điểm công ty niêm yết 11 1.1.1.2. Khái niệm, đặc điểm nhà đầu tư chứng khoán trong công ty 16 niêm yết 1.1.2. Khái niệm, đặc điểm, phân loại các quyền và lợi ích hợp pháp 18 của nhà đầu tư trong công ty niêm yết 1.1.3. Cơ sở của việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu 21 tư trong công ty niêm yết 1.1.4. Ý nghĩa của việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu 22 tư trong công ty niêm yết 1.1.5. Các biện pháp bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư 23 trong công ty niêm yết 1.2. Khái quát về pháp luật bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của 25 nhà đầu tư trong công ty niêm yết 1.2.1. Quá trình hình thành và phát triển của pháp luật về bảo vệ 25 quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư trong công ty niêm yết 1.2.2. Nội dung pháp luật về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của 28 nhà đầu tư trong công ty niêm yết 1.2.2.1. Bảo vệ quyền tham gia thị trường, quyền thực hiện các giao 28 dịch chứng khoán của nhà đầu tư trong công ty niêm yết 1.2.2.2. Bảo vệ quyền sở hữu tài sản đầu tư của nhà đầu tư trong công 30 ty niêm yết 1.2.2.3. Bảo vệ quyền được cung cấp thông tin của nhà đầu tư trong 31 công ty niêm yết 1.2.2.4. Bảo vệ các quyền và lợi ích phát sinh từ quyền sở hữu đối với 36 tài sản của nhà đầu tư trong công ty niêm yết 3
  4. KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 41 Chƣơng 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ 42 QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA NHÀ ĐẦU TƢ TRONG CÔNG TY NIÊM YẾT Ở VIỆT NAM 2.1. Bảo vệ quyền tham gia thị trường, quyền thực hiện các giao dịch chứng khoán của nhà đầu tư trong công ty niêm yết 42 2.2. Bảo vệ quyền được cung cấp thông tin của nhà đầu tư trong 45 công ty niêm yết 2.3. Bảo vệ quyền sở hữu tài sản đầu tư của nhà đầu tư trong công 55 ty niêm yết 2.4. Bảo vệ các quyền và lợi ích phát sinh từ quyền sở hữu đối với 57 tài sản của nhà đầu tư trong công ty niêm yết 2.5. Nguyên nhân của những vướng mắc trong bảo vệ quyền và lợi 61 ích hợp pháp của nhà đầu tư trong công ty niêm yết 2.5.1. Quản trị công ty niêm yết ở mức sơ khai 61 2.5.1.1. Trách nhiệm của Hội đồng quản trị chưa tương xứng với quyền 62 hạn 2.5.1.2 Mức độ công khai và minh bạch hóa thông tin chưa đáp ứng 68 được yêu cầu 2.5.1.3. Chưa kiểm soát được các giao dịch của công ty niêm yết với 70 các bên có liên quan 2.5.1.4. Kiểm soát nội bộ còn hình thức và kém hiệu quả 72 2.5.2. Sự bất cập của pháp luật về một số vấn đề khác 74 2.5.3. Ủy ban chứng khoán Nhà nước chưa có đủ thẩm quyền để bảo 75 vệ nhà đầu tư 2.5.3.1. Vị thế của Ủy ban chứng khoán Nhà nước chưa tương xứng 76 với chức năng và nhiệm vụ của mình 2.5.3.2. Ủy ban chứng khoán Nhà nước không có thẩm quyền điều tra 77 đối với các vi phạm trên thị trường chứng khoán 2.5.4. Ý thức của cổ đông về quyền và lợi ích hợp pháp của mình 78 chưa cao và chưa đồng nhất 2.5.5. Yếu tố văn hóa – lịch sử 78 2.5.6. Chưa có khung pháp luật cho hoạt động của tổ chức xếp hạng 80 tính nhiệm các công ty niêm yết tại Việt Nam KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 82 4
  5. Chƣơng 3: NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN 83 PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA NHÀ ĐẦU TƢ TRONG CÔNG TY NIÊM YẾT Ở VIỆT NAM 3.1. Hoàn thiện pháp luật về quản trị công ty niêm yết 83 3.1.1. Nâng cao trách nhiệm của Hội đồng quản trị và thành viên Hội 83 đồng quản trị 3.1.2. Tăng cường công khai, minh bạch hóa thông tin 87 3.1.3. Tăng cường kiểm soát giao dịch của công ty niêm yết với các 89 bên có liên quan 3.1.4. Ban kiểm soát hoạt động độc lập 89 3.2. Hoàn thiện các quy định của pháp luật về bảo vệ quyền và lợi 91 ích của nhà đầu tư trong công ty niêm yết 3.3. Tăng cường thẩm quyền cho Ủy ban chứng khoán Nhà nước 95 3.4. Tuyên truyền và giáo dục nhằm nâng cao ý thức của nhà đầu tư 97 về quyền lợi của mình 3.5. Xây dựng khung pháp luật về tổ chức xếp hạng tín nhiệm đối 98 với các công ty niêm yết KẾT LUẬN 101 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 103 PHỤ LỤC 106 5
  6. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT Thị trường chứng khoán TTCK Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước UBCKNN Sở giao dịch chứng khoán SGDCK Hội đồng quản trị HĐQT Ban kiểm soát BKS 6
  7. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Thị trường chứng khoán là thị trường vốn bậc cao hoạt động với những thiết chế phức tạp và chặt chẽ. Thị trường chứng khoán (TTCK) ban đầu phát triển một cách rất tự phát và sơ khai, xuất phát từ nhu cầu đơn lẻ về trao đổi hàng hóa. Vào giữa thế kỷ XV, tại những thành phố trung tâm buôn bán ở Phương Tây, các thương gia thường tụ tập tại các quán cà phê để trao đổi, mua bán các vật phẩm hàng hoá Lúc đầu chỉ một nhóm nhỏ, sau đó tăng dần và hình thành một khu chợ riêng. Cuối thế kỷ XV, để thuận tiện cho việc làm ăn, khu chợ trở thành “thị trường” với việc thống nhất các quy ước và dần dần các quy ước này được sửa đổi và hoàn chỉnh thành những quy tắc có giá trị bắt buộc chung cho mọi thành viên tham gia “thị trường”. Phiên chợ đầu tiên diễn ra tại gia đình của Vanber ở Bruges (Bỉ), tại đó có một bảng hiệu hình ba túi da với một từ tiếng Pháp là “Bourse” tức là “Mậu dịch thị trường” hay còn gọi là “Sở giao dịch”, hình 3 túi da tượng trưng cho ba loại giao dịch là: giao dịch hàng hóa, giao dịch ngoại tệ và giao dịch chứng khoán động sản. Vào năm 1547, thành phố ở Bruges (Bỉ) mất đi sự phồn thịnh do eo biển Even bị lấp cát nên mậu dịch thị trường ở đây bị sụp đổ và được chuyển qua thị trấn Auvers (Bỉ). Ở đây, thị trường phát triển nhanh vào giữa thế kỷ XVI. Sau một thời gian hoạt động, thị trường không chứng tỏ khả năng đáp ứng được yêu cầu của ba loại giao dịch khác nhau. Vì vậy, theo tính chất tự nhiên nó lại được phân ra thành nhiều thị trường khác nhau như: thị trường giao dịch hàng hoá, thị trường giao dịch hối đoái, thị trường giao dịch các hợp đồng tương lai và thị trường chứng khoán Quá trình các giao dịch chứng khoán hình thành 7
  8. và diễn ra một cách tự phát như vậy cũng tương tự ở Pháp, Hà Lan, các nước Bắc Âu, Tây Âu và Bắc Mỹ [8, 65]. Các phương thức giao dịch ban đầu được diễn ra ngoài trời với những ký hiệu giao dịch bằng tay và có thư ký nhận lệnh của khách hàng. Cho đến năm 1921, ở Mỹ, khu chợ ngoài trời được chuyển vào trong nhà, Sở giao dịch chứng khoán (SGDCK) chính thức được thành lập. Với sự phát triển của khoa học công nghệ, các phương thức giao dịch tại các SGDCK cũng được cải tiến. Các Sở giao dịch dần sử dụng máy vi tính để truyền các lệnh đặt hàng và chuyển dần từ giao dịch thủ công kết hợp với máy vi tính sang sử dụng hoàn toàn hệ thống giao dịch điện tử. Giai đoạn thị trường phát triển một cách tự phát thì chỉ có các nhà đầu cơ tham gia, dần dần về sau mới có sự tham gia của công chúng đầu tư. Vào những năm 1875 – 1913, TTCK thế giới phát triển huy hoàng cùng với sự tăng trưởng của nền kinh tế thế giới lúc đó. Nhưng rồi đến “Ngày thứ năm đen tối”, tức ngày 29/10/1929, thị trường chứng khoán Tây Âu, Bắc Âu và Nhật Bản lâm vào khủng hoảng. Mãi cho tới khi Chiến tranh Thế giới thứ 2 kết thúc, các thị trường này mới dần hồi phục và phát triển mạnh. Cho tới năm 1987, một lần nữa các TTCK trên thế giới điên đảo với “Ngày thứ hai đen tối” do hệ thống thanh toán kém cỏi, không đảm đương được yêu cầu của giao dịch, giá chứng khoán giảm mạnh, gây mất lòng tin và phản ứng dây chuyền gây nên hậu quả còn nghiêm trọng hơn cuộc khủng hoảng năm 1929. Gần đây nhất, thị trường chứng khoán các nước Đông Á, Nga và một số thị trường ở Châu Mỹ cũng đã rơi vào vòng xoáy của cơn lốc khủng hoảng tài chính tiền tệ, có tính chất lây lan và tạo ra sự suy giảm ghê gớm của chỉ số giá chứng khoán. Cho đến nay, trên thế giới có khoảng trên 160 SGDCK phân tán trên khắp các châu lục. Mặc dù, thị trường chứng khoán được hình thành phát triển từ thế kỷ XV nhưng các đạo luật đầu tiên về chứng khoán và thị trường chứng khoán 8
  9. chỉ mới ra đời cách đây chưa đầy một trăm năm. Hai đạo luật về chứng khoán và giao dịch chứng khoán của Mỹ ra đời vào năm 1933 và 1934 là hai đạo luật đầu tiên trên thế giới về chứng khoán và TTCK. Cho đến nay thì hầu hết các nước trên thế giới kể cả các nước đang phát triển, các nước có nền kinh tế đang chuyển đổi cũng đã có Luật Chứng khoán và thị trường chứng khoán như: Nhật Bản, Úc, Thái Lan, Bungari Ba Lan, Belarus Ở Việt Nam, ý nghĩa thực sự của sự ra đời thị trường chứng khoán đã vượt ra ngoài khuôn khổ là kênh huy động vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế. Hơn thế nữa, nó còn là tiền đề cho quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước, cải cách chế độ doanh nghiệp theo hướng kinh tế thị trường. Dấu mốc đầu tiên đánh dấu sự hình thành thị trường chứng khoán nước ta là Luật Công ty ra đời năm 1990 với quy định cho phép các công ty cổ phần được phát hành cổ phiếu. Quy định này ra đời cùng với chương trình thí điểm cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước vào năm 1992. Tuy nhiên, do thiếu cơ sở pháp lý là các văn bản hướng dẫn thi hành nên hoạt động của thị trường giao dịch chứng khoán còn diễn ra một cách tự phát và chưa có sự quản lý của Nhà nước. Sau đó, phải đến ngày 20/7/2000, trường chứng khoán Việt Nam mới chính thức đi vào hoạt động được đánh dấu bằng sự đi vào hoạt động của Trung tâm Giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh (nay là Sở Giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh). Năm 2005, Trung tâm Giao dịch chứng khoán Hà Nội (nay là Sở Giao dịch chứng khoán Hà Nội) triển khai hoạt động. Để tạo cơ sở pháp lý cho tổ chức và hoạt động của thị trường chứng khoán, Chính phủ ban hành Nghị định 75/1996/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động của Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước, Nghị định 48/1998/NĐ-CP ngày 11/7/1998 về chứng khoán và thị trường chứng khoán, sau đó là Nghị 9
  10. định 144/2003/NĐ-CP ngày 28/11/2003 của Chính phủ về chứng khoán và thị trường chứng khoán (thay thế Nghị định 48). Các văn bản pháp luật này bước đầu đã tạo được một khuôn khổ pháp lý cho thị trường chứng khoán Việt Nam hình thành và phát triển dưới sự quản lý của Nhà nước. Tuy nhiên, sau một số năm hoạt động cho thấy quy mô của thị trường chứng khoán Việt Nam còn quá nhỏ bé so với tiềm năng phát triển của nền kinh tế và xu hướng hội nhập quốc tế, chưa đáp ứng được kỳ vọng của Chính phủ là trở thành một kênh huy động vốn trong nước hữu hiệu cho nền kinh tế bên cạnh thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Thực tế này xuất phát từ hệ thống pháp luật về chứng khoán còn thiếu đồng bộ, chưa có Luật Chứng khoán để tạo môi trường pháp lý thống nhất, đầy đủ, ổn định điều chỉnh mọi hoạt động diễn ra trên thị trường chứng khoán. Nhận thức được vấn đề đó, ngày 29/6/2006 Quốc hội đã thông qua Luật Chứng khoán, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2007. Sau gần 4 năm đi vào thực hiện, Luật Chứng khoán đã tạo ra khuôn khổ pháp lý cao, đảm bảo cho một thị trường hoạt động công bằng, công khai, minh bạch, giúp thị trường phát huy vai trò to lớn đối với nền kinh tế. Tuy nhiên, khi thị trường chứng khoán phát triển thì một số quy định của Luật Chứng khoán lại chưa phù hợp với hoạt động của thị trường như: phạm vi áp dụng còn hẹp, một số quy định chưa rõ ràng, các quy định về thẩm quyền của cơ quan quản lý còn thiếu linh hoạt. Để giải quyết những vướng mắc trên, ngày 24/11/2010 Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chứng khoán và có hiệu lực từ ngày 1/7/2011. Dựa trên cơ sở khuôn khổ pháp lý trên, thị trường chứng khoán nước ta đã có những bước phát triển đáng ghi nhận. Theo “Báo cáo việc tổng kết công tác chỉ đạo điều hành của Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước năm 2010 và chương trình công tác năm 2011” thì tính đến hết năm 2010, có 631 công ty đã niêm yết trên hai Sở; trong năm 2010, tổng mức huy động trên thị trường chứng khoán thông qua phát hành cổ 10
  11. phiếu, đấu giá cổ phần hóa và đấu thầu trái phiếu chính phủ đạt 109 nghìn tỷ đồng (tăng gấp 3 lần so với năm 2009). Bên cạnh sự phát triển nhanh của thị trường chứng khoán nước ta, yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các nhà đầu tư trên thị trường trong đó có các nhà đầu tư trong công ty niêm yết luôn được đặt ra đối với các cơ quan quản lý nhà nước. Đây cũng là mục tiêu quản lý thị trường chứng khoán do Tổ chức quốc tế các Uỷ ban chứng khoán (IOSCO) khuyến nghị. Bảo vệ tốt nhà đầu tư giúp nhà đầu tư an tâm hơn khi bỏ vốn để mua chứng khoán và dành sự ủng hộ cho các kế hoạch kinh doanh của các công ty niêm yết, ngược lại các công ty niêm yết thu hút được nhiều vốn, tăng tiềm lực kinh tế, gia tăng giá trị cổ phiếu và khuyếch trương danh tiếng của mình trên thương trường. Ở phạm vi toàn thị trường, bảo vệ tốt nhà đầu tư giúp thị trường phát triển ổn định, an toàn, giảm thiểu được những rủi ro vốn có của thị trường chứng khoán. Do đó, không chỉ ở thị trường chứng khoán mới nổi như Việt Nam mà cả các thị trường chứng khoán phát triển khác, các nhà lập pháp luôn dành sự quan tâm thích đáng tới tiêu chí bảo vệ quyền lợi của các nhà đầu tư khi đưa ra chính sách phát triển thị trường này. Để cụ thể hoá Luật Chứng khoán; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chứng khoán; Luật Doanh nghiệp, Bộ Tài chính đã ban hành Điều lệ mẫu áp dụng cho các công ty niêm yết (kèm theo Quyết định 15/2007/QĐ- BTC ngày 19/3/2007 của Bộ trưởng Bộ Tài chính) và Quy chế quản trị công ty áp dụng cho các công ty niêm yết trên Sở Giao dịch chứng khoán/Trung tâm giao dịch chứng khoán – sau đây gọi tắt là Quy chế quản trị công ty niêm yết (kèm theo Quyết định 12/2007/QĐ-BTC ngày 13/3/2007 của Bộ trưởng Bộ Tài chính). Tuy nhiên, thực tế bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư trong các công ty niêm yết vẫn chưa thực sự hiệu quả. Quyền của cổ đông thiểu số bị lạm dụng, các nhóm cổ đông có sự phân hoá quyền lực và lợi ích rất sâu sắc, 11
  12. chưa kiểm soát được các giao dịch tư lợi của thành viên quản lý công ty niêm yết gây thiệt hại cho các nhà đầu tư khác Ngày 09/9/2010, Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) công bố “Báo cáo năng lực cạnh tranh toàn cầu 2010 – 2011”, trong đó Việt Nam được thăng hạng 16 bậc từ vị trí 75/133 lên vị trí 59/139. Mặc dù vậy, có nhiều yếu tố mà Việt Nam đứng ở gần cuối bảng xếp hạng của WEF trong đó mức độ bảo vệ nhà đầu tư đứng thứ 133/139 [4]. Chính mức độ bảo vệ nhà đầu thấp cũng là một yếu tố khiến Việt Nam bị giảm điểm trong xếp hạng môi trường kinh doanh do Tạp chí Forber công bố mới đây. Ở yếu tố này trong xếp hạng của Tạp chí Forber, Việt Nam xếp 125/128 nền kinh tế được đưa vào báo cáo [9]. Trong các “Báo cáo Môi trường kinh doanh” do Ngân hàng Thế giới và Quỹ tiền tệ Quốc tế công bố năm 2009 và năm 2010, Việt Nam thường xuyên đứng cuối bảng về mức độ bảo vệ nhà đầu tư, đứng thứ 171/183 năm 2009 [10] và 172/183 năm 2010 [11]. Rõ ràng, vấn đề bảo vệ nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán là vô cùng cấp thiết để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của chính các nhà đầu tư - một chủ thể quan trọng và không thể thiếu của thị trường chứng khoán, đồng thời đảm bảo sự vận hành thị trường chứng khoán một cách công bằng, hiệu quả; nâng cao thứ hạng quốc tế và cải thiện hình ảnh của Việt Nam trước con mắt của các nhà đầu tư nước ngoài. Xuất phát từ thực tiễn nêu trên, tác giả đã chọn đề tài “Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư trong công ty niêm yết ở Việt Nam” để làm luận văn thạc sỹ luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Vấn đề bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán nói chung trong thời gian gần đây đã được quan nghiên cứu bởi một số tổ chức quốc tế. Trong số đó, phải kể đến “Báo cáo năng lực cạnh 12
  13. tranh toàn cầu năm 2010 – 2011” của Diễn đàn Kinh tế Thế giới và “Báo cáo về môi trường kinh doanh” được Ngân hàng Thế giới và Quỹ Tiền tệ Quốc tế công bố năm 2010. Những nghiên cứu này đánh giá và xếp hạng mức độ bảo vệ nhà đầu tư dựa trên một số tiêu chí nhất định mà không đi sâu phân tích về vấn đề bảo vệ nhà đầu tư nói chung và bảo vệ nhà đầu tư trong công ty niêm yết nói riêng. Bên cạnh đó, nhiều nhà khoa học trong nước thuộc các lĩnh vực khác nhau đã dành sự quan tâm nhất định tới vấn đề bảo vệ nhà đầu tư. Đáng chú ý là công trình nghiên cứu: luận án tiến sỹ: “Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán tập trung ở Việt Nam” của Hoàng Thị Quỳnh Chi. Trong công trình nghiên cứu này, tác giả đã tập trung luận giải một số vấn đề lý luận và thực tiễn xung quanh yêu cầu bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư. Tuy nhiên, các công trình này mới chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu khung pháp lý điều chỉnh hoạt động bảo vệ nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán một cách bao quát, tổng thể. Ngoài ra, một số bài báo và ấn phẩm đã bắt đầu nghiên cứu về mối quan hệ giữa nhà đầu tư và công ty niêm yết trong việc bảo vệ nhà đầu tư như: “Bảo vệ nhà đầu tư nhỏ trên thị trường chứng khoán Việt Nam” của PGS.TS Lê Hoàng Nga, “Bảo vệ quyền lợi của cổ đông nhỏ: Biết bệnh nhưng chưa tìm thấy thuốc?” của tác giả Hà Minh Nhưng các bài báo, ấn phẩm này cũng mới chỉ đề cập đến hoặc nghiên cứu một số khía cạnh của vấn đề này. Cho đến nay, ở Việt Nam chưa có một công trình nghiên cứu nào đề cập, đánh giá một cách có hệ thống và đầy đủ nhất về vấn đề bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư trong các công ty niêm yết. Vì vậy, tác giả đã chọn đề tài này để nghiên cứu nhằm mục đích góp một tiếng nói vào vấn đề bảo vệ nhà đầu tư xét trong các công ty niêm yết - các tổ chức phát hành cổ phiếu ra công chúng. 3. Phƣơng pháp nghiên cứu 13
  14. Luận văn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cơ bản như sau: 3.1. Phương pháp phân tích, tổng hợp Phương pháp phân tích được sử dụng để làm rõ các quy định của pháp luật về quyền và lợi ích của nhà đầu tư trong công ty niêm yết. Trong đó, tập trung vào các quy định tại Luật Doanh nghiệp; Luật Chứng khoán; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chứng khoán; Quy chế quản trị công ty niêm yết; Điều lệ mẫu áp dụng cho công ty niêm yết. Ngoài ra, các số liệu thống kê, một số tình huống nghiên cứu cũng được phân tích trên cơ sở quy định của pháp luật. Từ sự phân tích này, tác giả sẽ tổng hợp vấn đề để đưa ra ý kiến, nhận định cho vấn đề được xem xét. 3.2. Phương pháp so sánh Khi xem xét các quy định của pháp luật về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư trong công ty niêm yết, tác giả có so sánh với pháp luật của một số nước để thấy được những điểm hợp lý hoặc còn bất cập trong việc điều chỉnh cơ chế bảo vệ nhà đầu tư do các công ty niêm yết thực hiện. Từ đó, có thể đề ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của các quy định đối với vấn đề này. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng phương pháp thống kê, chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ duy vật lịch sử. 4. Mục đích và phạm vi nghiên cứu 4.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích của luận văn là nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn của các quy định pháp lý điều chỉnh hoạt động bảo vệ nhà đầu tư trong các công ty niêm yết. Trên cơ sở đó, luận văn đề xuất các phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo vệ nhà đầu tư trong công ty 14
  15. niêm yết, góp phần vào việc đáp ứng tốt hơn yêu cầu hoàn thiện khung pháp lý về chứng khoán và thị trường chứng khoán tại Việt Nam. Để đạt được mục đích trên, luận án tập trung giải quyết những nhiệm vụ cụ thể sau đây: - Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận về pháp luật điều chỉnh các hoạt động bảo vệ nhà đầu tư trong các công ty niêm yết, phân tích những nội dung cơ bản của pháp luật Việt Nam hiện hành về bảo vệ nhà đầu tư trong mối quan hệ với công ty niêm yết. - Phân tích thực tiễn áp dụng pháp luật về bảo vệ nhà đầu tư trong công ty niêm yết. Phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến thực trạng trên. Đánh giá những ưu điểm và nhược điểm của pháp luật Việt Nam hiện hành về vấn đề này, từ đó rút ra những vấn đề cần phải tiếp tục xây dựng và hoàn thiện. - Đề xuất các quan điểm, phương hướng và những giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư trong công ty niêm yết ở Việt Nam. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu của luận văn chỉ tập trung vào mối quan hệ giữa nhà đầu tư và công ty niêm yết trong việc bảo vệ nhà đầu tư theo quy định của Luật Doanh nghiệp; Luật Chứng khoán; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chứng khoán; Quy chế quản trị công ty niêm yết; Điều lệ mẫu áp dụng cho công ty niêm yết. Luận văn không đề cập đến vấn đề này trong mối quan hệ giữa nhà đầu tư với các cơ quan quản lý Nhà nước về chứng khoán và thị trường chứng khoán hoặc giữa nhà đầu tư với các tổ chức kinh doanh dịch vụ chứng khoán như: công ty chứng khoán, quỹ đầu tư chứng khoán, công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán. Bên cạnh đó, khái niệm nhà đầu tư được đề cập trong luận văn chỉ đề cập đến những người sở hữu cổ phiếu của công ty 15
  16. niêm yết (gắn với quyền sở hữu cổ phiếu là quyền mua cổ phần và chứng quyền) hay cổ đông công ty; không bao gồm những nhà đầu tư sở hữu trái phiếu, chứng chỉ quỹ, quyền chọn mua, quyền chọn bán, hợp đồng tương lai, chỉ số chứng khoán. Do đó, chứng khoán được đề cập đến chỉ là cổ phiếu, không bao gồm những loại chứng khoán khác. 5. Giới hạn thời điểm nghiên cứu Các số liệu và quy định của pháp luật về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư trong luận văn được cập nhật đến 30/01/2012. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của luận văn gồm 3 chương được kết cấu như sau: Chƣơng 1: Những vấn đề lý luận về pháp luật bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư trong công ty niêm yết Chƣơng 2: Thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư trong công ty niêm yết ở Việt Nam Chƣơng 3: Giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư trong công ty niêm yết ở Việt Nam 16
  17. Chƣơng 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA NHÀ ĐẦU TƢ TRONG CÔNG TY NIÊM YẾT 1.1. Tổng quan về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tƣ trong công ty niêm yết 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm công ty niêm yết và nhà đầu tƣ chứng khoán trong công ty niêm yết 1.1.1.1. Khái niệm, đặc điểm công ty niêm yết * Khái niệm công ty niêm yết Quy chế quản trị công ty niêm yết cho rằng: “Công ty niêm yết được hiểu là công ty cổ phần được chấp thuận niêm yết cổ phiếu trên Sở giao dịch chứng khoán/Trung tâm giao dịch chứng khoán trên lãnh thổ Việt Nam” [2, 1]. Theo khái niệm này, công ty niêm yết chỉ là các công ty cổ phần. Trong khi đó, niêm yết chứng khoán là thủ tục cho phép một chứng khoán nhất định được phép giao dịch trên Sở giao dịch chứng khoán [8, 151]. Từ khái niệm này cho thấy hai vấn đề: Thứ nhất, chứng khoán được niêm yết bao gồm: cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ, quyền mua cổ phần, chứng quyền, quyền chọn mua, quyền chọn bán, hợp đồng tương lai, nhóm chứng khoán hoặc chỉ số chứng khoán. Thứ hai, công ty niêm yết là công ty cổ phần và công ty trách nhiệm hữu hạn. Dù có nhiều cách hiểu khác nhau nhưng tựu chung lại, công ty niêm yết cần được hiểu theo nghĩa rộng. Nó không chỉ là công ty cổ phần (có các loại chứng khoán được niêm yết) mà còn có thể là công ty trách nhiệm hữu hạn (có trái phiếu niêm yết) trên Sở giao dịch chứng khoán. 17
  18. * Đặc điểm của công ty niêm yết Xuất phát từ khái niệm trên, công ty niêm yết có những đặc điểm như sau: Thứ nhất, công ty niêm yết là loại hình công ty cổ phần hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn Nếu công ty niêm yết là công ty cổ phần thì các loại chứng khoán đều có thể được đưa vào niêm yết tại Sở giao dịch chứng khoán khi có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật. Đối với công ty niêm yết là công ty trách nhiệm hữu hạn thì loại chứng khoán niêm yết tại Sở giao dịch chỉ là trái phiếu. Thứ hai, công ty niêm yết có cổ phiếu được chấp thuận niêm yết, giao dịch tại Sở giao dịch chứng khoán trên lãnh thổ Việt Nam. Để được Sở giao dịch chứng khoán chấp thuận niêm yết thì doanh nghiệp phải đáp ứng được điều kiện niêm yết về vốn, tình hình hoạt động kinh doanh và được thể hiện trong hồ sơ đăng ký niêm yết. Sau khi được Sở giao dịch chứng khoán chấp thuận niêm yết, cổ phiếu của doanh nghiệp mới có thể được tiếp tục mua, bán trên Sở giao dịch theo quy định của pháp luật. Hoạt động giao dịch cổ phiếu tạo ra nhiều thuận lợi cho doanh nghiệp niêm yết như: tăng cơ hội thu hút nguồn vốn để đầu tư vào sản xuất, kinh doanh đồng thời công chúng đầu tư có thêm một kênh đầu tư mới để không ngừng sinh lời cho đồng vốn của mình. Từ đặc điểm thứ nhất và thứ hai của công ty niêm yết cho thấy công ty niêm yết (loại hình công ty cổ phần) thực chất là công ty đại chúng. Hai loại hình khác của công ty đại chúng là: - Công ty cổ phần đã thực hiện chào bán cổ phiếu ra công chúng; 18
  19. - Công ty cổ phần có cổ phiếu được ít nhất một trăm nhà đầu tư sở hữu, không kể nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp và có vốn điều lệ đã góp từ mười tỷ đồng Việt Nam trở lên [14, 12]. Có thể thấy, tính đại chúng đã làm cho công ty niêm yết dễ dàng tiếp cận được nguồn vốn lớn để thực hiện các kế hoạch sản xuất, kinh doanh. Thứ ba, công ty niêm yết có quyền và nghĩa vụ theo quy định của Luật Doanh nghiệp và Luật Chứng khoán. - Quyền của công ty niêm yết: Với tư cách là một tổ chức kinh tế, công ty niêm yết được trao rất nhiều quyền như: Tự chủ kinh doanh; chủ động lựa chọn ngành nghề, địa bàn, hình thức kinh doanh, đầu tư; lựa chọn hình thức, phương thức huy động, phân bổ và sử dụng vốn; tự chủ quyết định quan hệ nội bộ [16, 10]. Ngoài những quyền trên, công ty niêm yết còn được pháp luật cho phép mua lại cổ phiếu của chính mình [14, 13] và thu hồi lợi nhuận đối với các giao dịch không công bằng [14, 14]. Quy định này là cần thiết nhằm hạn chế các giao dịch tư lợi của người điều hành, quản lý công ty có khả năng ảnh hưởng đến các cổ đông khác đặc biệt là cổ đông nhỏ. - Nghĩa vụ của công ty niêm yết: Do cổ phiếu được niêm yết và giao dịch tại thị trường tập trung, do vậy, công ty niêm yết phải tuân thủ nghiêm túc các nghĩa vụ: Công bố thông tin; tuân thủ các nguyên tắc quản trị công ty theo quy định của Luật Doanh nghiệp và Quy chế quản trị công ty niêm yết, Điều lệ mẫu áp dụng cho công ty niêm yết; thực hiện đăng ký, lưu ký chứng khoán tập trung tại Trung tâm lưu ký chứng khoán [14, 12]. Việc yêu cầu công ty niêm yết tuân thủ các nghĩa vụ này hướng tới mục tiêu quan trọng là minh bạch hóa thông tin, bảo vệ quyền lợi nhà đầu tư. 19
  20. Bên cạnh đó, một số nghĩa vụ khác mà công ty cũng phải thực hiện trong hoạt động kinh doanh của mình như: Hoạt động kinh doanh theo đúng ngành, nghề; tuân thủ quy định về kế toán, báo cáo tài chính; bảo đảm quyền lợi của người lao động trong đơn vị Để đảm bảo công ty được thực hiện các quyền và đặc biệt là tuân thủ đúng các nghĩa vụ như trên, nhiều quy định của Luật Doanh nghiệp; Luật Chứng khoán; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chứng khoán, Quy chế quản trị công ty niêm yết và Điều lệ mẫu áp dụng cho công ty niêm yết đồng thời điều chỉnh đối với hoạt động của công ty niêm yết. Thứ tư, cơ cấu tổ chức nội bộ của công ty niêm yết phức tạp hơn so với công ty cổ phần Công ty niêm yết có cơ cấu tổ chức nội bộ giống với công ty cổ phần ở chỗ công ty có Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị, Giám đốc (Tổng Giám đốc), Ban kiểm soát. Ngoài ra, theo Quy chế quản trị công ty niêm yết và Điều lệ mẫu thì công ty niêm yết còn có Thư ký công ty, cán bộ chuyên trách công bố thông tin và các tiểu ban của Hội đồng quản trị. Cụ thể là: - Thư ký công ty: Để hỗ trợ cho hoạt động quản trị công ty được tiến hành một cách có hiệu quả, Hội đồng quản trị phải chỉ định ít nhất một người làm thư ký công ty. Nhiệm kỳ của thư ký công ty do Hội đồng quản trị quyết định. Thư ký công ty phải là người có hiểu biết về pháp luật. Thư ký công ty không được đồng thời làm việc cho công ty kiểm toán hiện đang kiểm toán công ty. Hội đồng quản trị có thể bãi nhiệm Thư ký công ty khi cần nhưng không được trái với các quy định pháp luật hiện hành về lao động. Hội đồng quản trị cũng có thể bổ nhiệm một hoặc nhiều Trợ lý thư ký công ty tuỳ vào từng thời điểm. 20
  21. - Cán bộ chuyên trách công bố thông tin: Hội đồng quản trị bổ nhiệm ít nhất một cán bộ chuyên trách công bố thông tin. Cán bộ chuyên trách công bố thông tin có thể là Thư ký công ty hoặc một cán bộ quản lý kiêm nhiệm. - Các tiểu ban: Các tiểu ban do Hội đồng quản trị lập ra để hỗ trợ hoạt động của Hội đồng quản trị bao gồm: tiểu ban chính sách phát triển, tiểu ban lương thưởng, tiểu ban kiểm toán nội bộ, tiểu ban nhân sự và các tiểu ban đặc biệt khác theo Nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông. Đối với tiểu ban kiểm toán phải có ít nhất một thành viên là người có chuyên môn về kế toán và không phải là người làm việc trong bộ phận kế toán tài chính của công ty (Phụ lục 3). Thứ năm, công ty niêm yết chịu sự quản lý chủ yếu của Uỷ ban chứng khoán Nhà nước. Theo quy định của Luật Doanh nghiệp thì các công ty niêm yết chịu sự quản lý của Sở Kế hoạch và Đầu tư (thuộc Bộ kế hoạch và Đầu tư). Sở Kế hoạch và Đầu tư có nhiệm vụ cấp Giấy phép thành lập và hoạt động đồng thời thực hiện quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp trong suốt quá trình hoạt động cho đến khi phá sản hoặc giải thể theo quy định của Luật Doanh nghiệp. Nhưng do tính chất đặc biệt của công ty niêm yết là có chứng khoán được niêm yết và giao dịch trên Sở giao dịch chứng khoán nên các doanh nghiệp phải chịu sự quản lý của cơ quan chuyên môn – đó là Uỷ ban chứng khoán Nhà nước (UBCKNN). Cơ quan này thực hiện chức năng, nhiệm vụ cấp phép đối với hoạt động chào bán chứng khoán; quản lý, giám sát các giao dịch. Để thực hiện được nhiệm vụ trên, UBCKNN có hệ thống các cơ quan giúp việc như Sở Giao dịch chứng khoán Hà Nội và Sở Giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh, Trung tâm lưu ký chứng khoán Việt Nam. Trong đó, hai Sở giao dịch chứng khoán có chức năng tổ chức và giám sát 21