Luận văn Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư không chuyên nghiệp trên thị trường chứng khoán tập trung theo pháp luật Việt Nam

pdf 136 trang vuhoa 23/08/2022 7020
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư không chuyên nghiệp trên thị trường chứng khoán tập trung theo pháp luật Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_bao_ve_quyen_va_loi_ich_hop_phap_cua_nha_dau_tu_kho.pdf

Nội dung text: Luận văn Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư không chuyên nghiệp trên thị trường chứng khoán tập trung theo pháp luật Việt Nam

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT VŨ THỊ HUYỀN NGỌC B¶O VÖ QUYÒN Vµ LîI ÝCH HîP PH¸P CñA NHµ §ÇU T¦ KH¤NG CHUY£N NGHIÖP TR£N THÞ TR¦êNG CHøNG KHO¸N TËP TRUNG THEO PH¸P LUËT VIÖT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2014
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT VŨ THỊ HUYỀN NGỌC B¶O VÖ QUYÒN Vµ LîI ÝCH HîP PH¸P CñA NHµ §ÇU T¦ KH¤NG CHUY£N NGHIÖP TR£N THÞ TR¦êNG CHøNG KHO¸N TËP TRUNG THEO PH¸P LUËT VIÖT NAM Chuyên ngành: Luật Kinh tế Mã số: 60 38 01 07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN THỊ THUẬN HÀ NỘI - 2014
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Vũ Thị Huyền Ngọc
  4. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt MỞ ĐẦU 1 Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN TẬP TRUNG VÀ PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH CỦA NHÀ ĐẦU TƯ KHÔNG CHUYÊN NGHIỆP TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN TẬP TRUNG 6 1.1. Khái niệm, đặc điểm, bản chất của thị trường chứng khoán tập trung 6 1.2. Các chủ thể trên thị trường chứng khoán tập trung 9 1.3. Khái niệm, phân loại nhà đầu tư chứng khoán 11 1.3.1. Khái niệm nhà đầu tư chứng khoán 11 1.3.2. Phân loại 13 1.3.3. Khái niệm, đặc điểm nhà đầu tư chứng khoán không chuyên nghiệp 15 1.4. Pháp luật về bảo vệ quyền và lợi ích của nhà đầu tư không chuyên nghiệp trên thị trường chứng khoán tập trung 19 1.4.1. Khái niệm 19 1.4.2. Nội dung pháp luật về việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư không chuyên nghiệp trên thị trường chứng khoán tập trung 21 Chương 2: THỰC TRẠNG VỀ BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA NHÀ ĐẦU TƯ KHÔNG CHUYÊN NGHIỆP TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN TẬP TRUNG TRONG PHÁP LUẬT CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM 40 2.1. Quy định của pháp luật về bảo vệ nhà đầu tư không chuyên nghiệp trên thị trường chứng khoán tập trung 40
  5. 2.1.1. Các quy định công nhận quyền của nhà đầu tư không chuyên nghiệp 41 2.1.2. Các quy định về quản lý và xử lý vi phạm 50 2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật trong việc bảo vệ nhà đầu tư không chuyên nghiệp trên thị trường chứng khoán tập trung 61 2.2.1. Thành quả đạt được 61 2.2.2. Một số vấn đề còn tồn tại 64 Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT CHỨNG KHOÁN TRONG VIỆC BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA NHÀ ĐẦU TƯ KHÔNG CHUYÊN NGHIỆP TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN TẬP TRUNG 89 3.1. Sự cần thiết hoàn thiện pháp luật chứng khoán trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư không chuyên nghiệp trên thị trường chứng khoán 89 3.1.1. Xuất phát từ yêu cầu hội nhập quốc tế 89 3.1.2. Xuất phát từ yêu cầu phát triển thị trường chứng khoán 90 3.2. Các đề xuất cụ thể. 91 3.2.1. Hoàn thiện các quy định của pháp luật về bảo vệ nhà đầu tư không chuyên nghiệp trên TTCKTT 91 3.2.2. Các đề xuất nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật trong việc bảo vệ nhà đầu tư không chuyên nghiệp trên TTCKTT 102 KẾT LUẬN 118 TÀI LIỆU THAM KHẢO 119 PHỤ LỤC 124
  6. DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT CTCK: Công ty chứng khoán IFC: Tổ chức tài chính quốc tế NĐT: Nhà đầu tư TTCKTT: Thị trường chứng khoán tập trung UBCKNN: Ủy ban chứng khoán Nhà nước VSD: Trung tâm lưu ký chứng khoán Việt Nam. WB: Ngân hàng thế giới
  7. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Thị trường chứng khoán ra đời như một tất yếu khách quan của nền kinh tế thị trường và giữ vai trò đặc biệt quan trọng với nền kinh tế. Phát triển và đảm bảo sự ổn định của thị trường chứng khoán luôn là mối quan tâm hàng đầu của các quốc gia trên thế giới bởi thị trường chứng khoán giúp khơi thông các nguồn vốn trong xã hội và phân bổ có hiệu quả các nguồn vốn này vào những dự án đầu tư mang lại hiệu quả kinh tế cao. Hiện nay trên thế giới các học giả cũng như các nhà quản lý kinh tế có những quan điểm rất khác nhau về việc làm thế nào để tổ chức và quản lý thị trường chứng khoán một cách tối ưu, tuy nhiên họ đều thống nhất nhau ở một điểm là các nhà đầu tư luôn phải được coi là trọng tâm của thị trường. Một thị trường chứng khoán không thể là kênh huy động và phân bổ vốn có hiệu quả khi mà các nhà đầu tư không có niềm tin vào thị trường này, hay nói cách khác là khi quyền và lợi ích hợp pháp của họ không được bảo vệ. Tại Việt nam, thị trường chứng khoán tập trung được chính thức đi vào hoạt động bằng hoạt động tại hai trung tâm giao dịch chứng khoán: TTGDCK Hồ Chí Minh (2000) và TTGDCK Hà nội (2005). Tuy đã có 14 năm phát triển, song đây vẫn là một thị trường chứng khoán non trẻ, các định chế hỗ trợ cho sự phát triển của thị trường vẫn chưa được hình thành một cách đầy đủ và toàn diện, nhiều vấn đề vẫn còn tồn tại, trong đó có vấn đề bảo vệ quyền lợi nhà đầu tư. Theo đánh giá của WB trong Báo cáo Doing Business hàng năm, thì Việt Nam luôn bị xếp hạng khá thấp so với các nước trong khu vực và trên thế giới về môi trường kinh doanh. Báo cáo năm 2012, Việt Nam đứng thứ 98/185 quốc gia, nền kinh tế. Báo cáo năm 2013 Việt nam đứng thứ 99/183 quốc gia, nền kinh tế [Xem thêm phụ lục 1]. Thứ hạng thấp này một phần lớn là do mức độ bảo vệ nhà đầu tư của chúng ta, tuy đã có ít nhiều nỗ lực trong việc hoàn thiện chính sách, luật pháp liên quan, nhưng về cơ bản, vẫn đứng ở vị trí rất thấp trên thế giới. Báo cáo năm 2012, Việt nam đứng thứ 1
  8. 169/185 quốc gia, nền kinh tế về bảo vệ nhà đầu tư; báo cáo năm 2014, Việt nam đứng thứ 160/189 quốc gia, nền kinh tế [Xem thêm Phụ lục 2] Điều đó cho thấy pháp luật Việt Nam đã có nhiều nỗ lực trong việc bảo vệ nhà đầu tư, tuy nhiên các quyền và lợi ích của nhóm đối tượng này vẫn chưa thật sự được đảm bảo. Đặc biệt trên thị trường chứng khoán hiện nay chiếm một bộ phận không nhỏ là các nhà đầu tư không chuyên nghiệp, thiếu hiểu biết đầy đủ về chứng khoán và thị trường chứng khoán, quyền lợi dễ bị xâm phạm. Thực tế, qua 14 năm phát triển của thị trường chứng khoán Việt nam cho thấy vấn đề quyền và lợi ích của những nhà đầu tư này chưa được coi trọng đúng mức ở nhiều phương diện, trong đó pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán còn nhiều bất cập, tạo lỗ hổng nảy sinh những hành vi xâm phạm đến quyền và lợi ích của những nhà đầu tư. Vì vậy, vấn đề bảo vệ nhà đầu tư không chuyên nghiệp trên thị trường chứng khoán tập trung ở nước ta là vô cùng cấp thiết để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của chính các nhà đầu tư - một chủ thể quan trọng, song yếu thế trên thị trường, tạo được niềm tin trên thị trường, đồng thời đảm bảo sự vận hành thị trường chứng khoán một cách công bằng, hiệu quả; nâng cao thứ hạng quốc tế và cải thiện hình ảnh của Việt Nam trước con mắt của các nhà đầu tư nước ngoài. Xuất phát từ thực tiễn nêu trên, học viên đã chọn đề tài “Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư không chuyên nghiệp trên thị trường chứng khoán tập trung theo pháp luật Việt Nam” để làm luận văn thạc sỹ luật học của mình. 2. Tính hình nghiên cứu đề tài Vấn đề bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư nói chung là vấn đề được nhiều học giả quan tâm và nghiên cứu như “Báo cáo về môi trường kinh doanh” ra hàng năm của Ngân hàng Thế giới, luận văn thạc sĩ luật học của Phạm Thanh Tú về "Bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán tập trung theo pháp luật Việt Nam" (Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2006); Luận văn “Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán tập trung theo quy định của pháp luật chứng khoán” của Trần Thị Hà Trang (Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà nội, 2008), bài nghiên cứu của tác 2
  9. giả Hoàng Thị Quỳnh Chi về "Hoàn thiện các biện pháp bảo vệ nhà đầu tư chứng khoán", đăng trên Tạp chí Kiểm sát, số 19 năm 2006, bài nghiên cứu của tác giả Phạm Thị Giang Thu về “Bàn về bảo vệ nhà đầu tư theo Luật chứng khoán và vấn đề bảo đảm thực hiện” trên Tạp chí Luật học, số 8/2006 và nhiều bài viết khác trên các báo, tạp chí. Phần lớn các bài nghiên cứu trên các tạp chí khoa học về bảo vệ nhà đầu tư trong đó có nhà đầu tư không chuyên nghiệp liên quan đến việc bảo vệ nhà đầu tư trên thị trường phi tập trung. Một số bài viết liên quan đến nhà đầu tư trên thị trường tập trung nhưng các bài viết nói trên mới dừng ở mức độ nêu ra tình huống nhà đầu tư bị thiệt hại và dẫn chiếu lại các quy định của pháp luật Việt Nam để xác định trong những tình huống đó thì nhà đầu tư nên làm gì để bảo vệ quyền lợi cho mình và trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước cần làm đến đâu để bảo vệ quyền lợi cho nhà đầu tư. Cũng có một số công trình nghiên cứu về bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư trên TTCKTT, song cách tiếp cận của các công trình nghiên cứu này chủ yếu tập trung vào các quyền của nhà đầu tư với tư cách là cổ đông của tổ chức phát hành, tổ chức niêm yết, quyền lợi của tất cả các nhà đầu tư nói chung, hoặc tập trung vào đối tượng nhà đầu tư chứng khoán cá nhân theo pháp luật chứng khoán 2006 và các văn bản hướng dẫn thời điểm đó. Luận văn tiếp cận theo hướng khác, nghiên cứu về việc bảo vệ quyền và lợi ích của đối tượng là nhà đầu tư không chuyên nghiệp trên thị trường chứng khoán tập trung qua các quy định của pháp luật chứng khoán hiện hành, phân tích đánh giá các quy định đó để tìm ra những kết quả đã đạt được và những tồn tại cần hoàn thiện, qua đó đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư không chuyên nghiệp. 3. Phương pháp nghiên cứu Luận văn dùng phương pháp phân tích hệ thống, phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh và phương pháp phân tích từ các quy định của pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán Việt nam trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư không chuyên nghiệp, đánh giá việc áp dụng các quy định đó qua thực tiễn. 3
  10. Luận văn sử dụng phương pháp so sánh để đối chiếu với pháp luật của một số nước, từ đó thấy được những điểm hợp lý hoặc còn bất cập trong việc điều chỉnh cơ chế bảo vệ nhà đầu tư không chuyên nghiệp trên thị trường chứng khoán. Từ đó, có thể đề ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của các quy định đối với vấn đề này. Ngoài ra, Luận văn còn sử dụng phương pháp thống kê, tư duy khoa học, khách quan và thực tiễn để thu thập thông tin tư liệu, tài liệu tham khảo nghiên cứu chọn lọc kinh nghiệm các nước với đề xuất những định hướng nhằm bảo vệ tốt hơn các quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư chứng khoán không chuyên nghiệp 4. Mục đích và phạm vi nghiên cứu 4.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích của luận văn là nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn của các quy định pháp lý điều chỉnh hoạt động bảo vệ nhà đầu tư không chuyên nghiệp trên thị trường chứng khoán tập trung. Trên cơ sở đó, luận văn đề xuất các phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo vệ nhà đầu tư không chuyên nghiệp trên thị trường chứng khoán tập trung, góp phần vào việc đáp ứng tốt hơn yêu cầu hoàn thiện khung pháp lý về chứng khoán và thị trường chứng khoán tại Việt Nam. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Luận văn chỉ giới hạn nghiên cứu những quy định pháp lý và thực tiễn việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các nhà đầu tư không chuyên nghiệp trên thị trường chứng khoán tập trung ở Việt nam theo quy định tại Luật Chứng khoán số 70/QH11 năm 2006, sửa đổi bổ sung năm 2010 và các văn bản hướng dẫn thi hành hiện nay, trong đó tập trung chủ yếu vào nghiên cứu các quy định công nhận quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư không chuyên nghiệp. Các quyền của nhà đầu tư với tư cách là cổ đông của công ty cổ phần theo quy định của Luật Doanh nghiệp và các văn bản hướng dẫn thi hành không thuộc phạm vi nghiên cứu của luận văn này. 5. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là vấn đề bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư không chuyên nghiệp trên thị trường chứng khoán tập trung. 4
  11. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài lời mở đầu và kết luận, luận văn bao gồm 3 chương Chương 1: Khái quát chung về thị trường chứng khoán tập trung và bảo vệ quyền nhà đầu tư không chuyên nghiệp trên thị trường chứng khoán tập trung Chương 2: Thực trạng bảo vệ quyền và lợi ích của nhà đầu tư chứng khoán không chuyên nghiệp trên thị trường chứng khoán tập trung trong pháp luật chứng khoán Việt nam Chương 3: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả pháp luật chứng khoán trong việc bảo vệ quyền và lợi ích của nhà đầu tư chứng khoán không chuyên nghiệp trên thị trường chứng khoán tập trung. 5
  12. Chương 1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN TẬP TRUNG VÀ PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH CỦA NHÀ ĐẦU TƯ KHÔNG CHUYÊN NGHIỆP TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN TẬP TRUNG 1.1 . Khái niệm, đặc điểm, bản chất của thị trường chứng khoán tập trung Thị trường chứng khoán tập trung có thể được hiểu một cách chung nhất là: một thị trường mà trong đó việc giao dịch mua bán chứng khoán được thực hiện tại địa điểm cố định về mặt địa lý. Địa điểm này được gọi là sàn giao dịch chứng khoán, là nơi mà các thành viên thị trường tiến hành các giao dịch với chứng khoán được phép niêm yết và giao dịch tại thị trường [35, tr.125]. TTCKTT được tổ chức bởi sở giao dịch hoặc trung tâm giao dịch chứng khoán. Các tổ chức này không sở hữu chứng khoán, không mua bán các loại chứng khoán mà chỉ cung cấp các dịch vụ kỹ thuật, tạo điều kiện cho hoạt động mua bán chứng khoán, giám sát các hoạt động giao dịch để bảo đảm các hoạt động mua bán chứng khoán diễn ra trong khuôn khổ pháp luật. Ở Việt nam thời kỳ đầu của sự phát triển TTCK, khái niệm thị trường chứng khoán tập trung hầu như được đồng nhất với khái niệm thị trường chứng khoán. Nghị định số 48/1998/NĐ-CP quy định về chứng khoán và TTCK định nghĩa “giao dịch chứng khoán là việc mua bán chứng khoán trên thị trường giao dịch tập trung” [13, Điều 2]. Điều này không đúng về bản chất vì việc giao dịch chứng khoán bất kể nó được diễn ra tại một địa điểm hay hệ thống thông tin tập trung hay không thì đó vẫn là giao dịch chứng khoán. Ở đây đã có sự nhầm lẫn giữa hành vi giao dịch chứng khoán và phương thức tổ chức cho việc diễn ra hành vi đó. Luật chứng khoán hiện hành không đưa ra định nghĩa thị trường chứng khoán tập trung mà chỉ có khái niệm thị trường giao dịch chứng khoán, theo đó “Thị trường giao dịch chứng khoán là địa điểm hoặc hình thức trao đổi thông tin để tập hợp lệnh mua bán và giao dịch chúng khoán” [29, Điều 18]. Theo định nghĩa này thị trường 6
  13. giao dịch chứng khoán bao gồm thị trường tập trung và phi tập trung. Xét về mặt hình thức khái niệm này có thể đúng, tuy nhiên xét về mặt bản chất thì chưa hoàn toàn chính xác. Thị trường giao dịch chứng khoán có thể là thị trường tập trung hoặc phi tập trung. Khi các lệnh giao dịch (lệnh mua và lệnh bán) được tập trung tại địa điểm nhất định thì đó chính là dấu hiệu đặc thù của thị trường giao dịch tập trung. Ở thị trường giao dịch phi tập trung (thị trường OTC) thì ngược lại, các lệnh giao dịch không được tập trung và không được thực hiện tại địa điểm nhất định mà thông qua hệ thống trao đổi thông tin do nhà tổ chức thị trường tạo lập ra. Điều đó có nghĩa thị trường giao dịch có thể được tổ chức tại địa điểm giao dịch nhất định hoặc không tại địa điểm giao dịch nhất định (thông qua hệ thống trao đổi thông tin chứ không phải bản thân thị trường giao dịch là địa điểm hay hình thức trao đổi thông tin). Đây chỉ là những cách thức tổ chức của thị trường mà thôi. Như vậy, có thể hiểu một cách chung nhất, thị trường chứng khoán tập trung là một thị trường mà trong đó việc giao dịch mua bán chứng khoán được thực hiện tại địa điểm cố định về mặt địa lý. Thị trường chứng khoán tập trung có một số đặc điểm chính sau: Một là: là thị trường có địa điểm giao dịch cố định. Địa điểm giao dịch cố định ở đây là sở giao dịch chứng khoán hoặc trung tâm giao dịch chứng khoán. Hai là: phương thức giao dịch chủ yếu là đấu giá hoặc ghép lệnh để hình thành nên giá cả cạnh tranh tốt nhất trong các phiên giao dịch. Ba là: Hàng hóa giao dịch tại thị trường là những hàng hóa có chất lượng cao. Đây là những chứng khoán đã được kiểm định, đủ điều kiện niêm yết và giao dịch, thường là chứng khoán của những công ty lớn, có danh tiếng, và đã qua thử thách của thị trường. Các điều kiện về niêm yết do sở giao dịch chứng khoán, trung tâm giao dịch chứng khoán ban hành này được coi như bộ lọc để lọc những chứng khoán kém chất lượng, thông qua đó bảo vệ quyền lợi nhà đầu tư và góp phần giúp thị trường hoạt động hiệu quả, phát triển bền vững. Các tiêu chuẩn niêm yết thường chú trọng đến thâm niên hoạt động, thành tích lợi nhuận, quy mô cổ phần, và lượng cổ đông. Người đầu tư chứng khoán, dù mạo hiểm vì tính rủi ro vốn có của thị 7
  14. trường chứng khoán, nhưng khi mua chứng khoán trên TTCKTT đã được xem như là họ được bảo vệ tối đa so với mua ở các thị trường chứng khoán khác, vì chứng khoán ở đây đã được sàng lọc Bốn là: là thị trường có tính tổ chức cao. Thành viên tham gia thị trường có giới hạn, bao gồm các chủ thể tham gia quản lý, điều hành và các định chế trung gian, đây đều là những tổ chức chuyên nghiệp và phải đạt đủ năng lực, điều kiện, được cơ quan quản lý nhà nước về lĩnh vực chứng khoán và TTCKTT cấp phép thành viên mới được tham gia thị trường. Các chủ thể khi tham gia thị trường đều phải đảm bảo tuân thủ những quy định và nguyên tắc nhất định và đều được điều chỉnh thống nhất bằng hệ thống các quy định pháp luật, quy chế của Sở giao dịch chứng khoán nhằm tạo nên một quá trình hợp tác hiệu quả, thông suốt. Năm là: là thị trường được điều chỉnh bởi các quy định pháp luật chặt chẽ. Với tính chất là một thị trường nhạy cảm, nhiều rủi ro và có khả năng tác động, ảnh hưởng lớn đến toàn bộ nền kinh tế-xã hội của mọi quốc gia, TTCKTT đòi hỏi phải có sự quản lý chặt chẽ và minh bạch. Vì vậy để điều hành quản lý TTCKTT Nhà nước đã ban hành một hệ thống đầy đủ các văn bản pháp luật mà tất cả các chủ thể tham gia thị trường đều phải tuân thủ nghiêm chỉnh. Mọi hành vi vi phạm đều có những chế tài thích hợp. Đó là sự điều chỉnh của pháp luật đặc thù –pháp luật chứng khoán, sự điều chỉnh của luật doanh nghiệp về các vấn đề tổ chức và phân chia lợi nhuận, sự điều chỉnh của pháp luật khác về các vấn đề có liên quan. Ngoài ra TTCKTT còn chịu sự quản lý và giám sát chặt chẽ của UBCKNN với tư cách cơ quan quản lý nhà nước về chuyên ngành. Sáu là: là thị trường hoạt động dựa trên nguyên tắc trung gian. Đây là đặc điểm nổi bật của TTCKTT so với các thị trường khác. Nguyên tắc trung gian nhằm đảm bảo các loại chứng khoán được giao dịch là chứng khoán thực, đảm bảo lợi ích nhà đầu tư, và để TTCKTT hoạt động lành mạnh, liên tục, hợp pháp và phát triển. Theo nguyên tắc này thì mọi giao dịch tên thị trường đều phải được thực hiện qua trung gian là các thành viên thị trường. Các nhà đầu tư không được đặt lệnh mua, bán trực tiếp mà phải gián tiếp thông qua các trung gian là thành viên của thị trường này. 8
  15. Thị trường chứng khoán tập trung hoạt động theo nguyên tắc công bằng, minh bạch, công khai thông tin, tôn trọng quyền tự do mua, bán, kinh doanh dịch vụ chứng khoán của tổ chức, cá nhận, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư. 1.2 . Các chủ thể trên thị trường chứng khoán tập trung Chủ thể phát hành: Chủ thể phát hành là các tổ chức thực hiện huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán. Nhà phát hành có thể là Chính phủ, chính quyền địa phương, các doanh nghiệp và một số tổ chức khác như quỹ đầu tư, tổ chức tài chính trung gian Chính phủ và chính quyền địa phương là chủ thể phát hành các loại chứng khoán: trái phiếu Chính phủ, trái phiếu địa phương, trái phiếu công trình, tín phiếu kho bạc; nhằm huy động tiền bù đắp thâm hụt ngân sách, thực hiện những công trình quốc gia lớn, hoặc để huy động tiền đầu tư cho các công trình hay chương trình kinh tế, xã hội của địa phương. Các công ty là chủ thể phát hành trái phiếu hoặc cổ phiếu công ty để huy động vốn đầu tư phát triển sản xuất Các tổ chức tài chính là chủ thể phát hành các công cụ tài chính như các trái phiếu, chứng chỉ hưởng thụ phục vụ cho mục tiêu huy động vốn và phù hợp với đặc thù hoạt động của họ theo Luật định [36, tr.24] Nhà đầu tư: Chủ thể đầu tư là những tổ chức, cá nhân có tiền, thực hiện việc mua bán chứng khoán trên thị trường chứng khoán để tìm kiếm lợi nhuận. Các tổ chức kinh doanh chứng khoán: là các định chế tài chính trung gian làm nhiệm vụ thực hiện các giao dịch chứng khoán, là cầu nối giữa tổ chức phát hành và nhà đầu tư, bao gồm công ty chứng khoán, các ngân hàng thương mại. Công ty chứng khoán: Các công ty này hoạt động với nghiệp vụ chính là bảo lãnh phát hành, tự doanh, môi giới, quản lý danh mục đầu tư và tư vấn đầu tư chứng khoán. Các ngân hàng thương mại: Các ngân hàng thương mại có thể sử dụng vốn để đầu tư chứng khoán nhưng chỉ được trong giới hạn rất định và phải thành lập công ty chuyên biệt kinh doanh chứng khoán để bảo vệ ngân hàng trước những biến động của giá chứng khoán. 9
  16. Các tổ chức có liên quan đến thị trường chứng khoán: bao gồm cơ quan quản lý nhà nước, sở giao dịch chứng khoán, hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán. Cơ quan quản lý nhà nước: Cơ quan này được thành lập để thực hiện chức năng quản lý, giám sát của nhà nước đối với thị trường chứng khoán. Cơ quan quản lý, giám sát thị trường chứng khoán được hình thành dưới nhiều mô hình, hoạt động khác nhau, có nước do các tổ chức tự quản thành lập, có nước cơ quan này trực thuộc chính phủ, nhưng có nước lại kết hợp quản lý giữa các tổ chức tự quản và nhà nước. Nhưng nhìn chung, cơ quan quản lý này do Chính phủ của các nước thành lập nhằm mục đích bảo vệ lợi ích của người đầu tư và bảo đảm cho thị trường chứng khoán hoạt động lành mạnh, suôn sẻ và phát triển vững chắc. Cơ quan này có những tên gọi khác nhau, tuỳ từng nước. Tại Trung Quốc có Cơ quan Giám quản chứng khoán của Quốc vụ viện Trung Quốc [53]. Tại Anh có Uỷ ban đầu tư chứng khoán (SIB- Securities Investment Board). Ủy ban này là một tổ chức được thừa nhận trong đạo luật về các dịch vụ tài chính ban hành năm 1986. Tại Mỹ, Uỷ ban chứng khoán và Giao dịch chứng khoán (SEC - Securities And Exchange Comission) là một cơ quan của liên bang có tư cách pháp lý thực hiện việc kiểm soát thị trường chứng khoán. Ở Nhật Bản có Uỷ ban giám sát chứng khoán và Giao dịch chứng khoán (ESC - Exchange Surveillance Comission) được thành lập vào năm 1992 và đến năm 1998 đổi tên thành FSA - Financial Supervision Agency, có chức năng cơ bản là tiến hành điều tra và xử lý các giao dịch gian lận trên thị trường chứng khoán, do Bộ tài chính Nhật Bản đảm nhiệm. Tại Hàn Quốc có Ủy ban chứng khoán và giao dịch chứng khoán (ESC-Securities and Exchange Commission) và Ban Giám sát chứng khoán (SSB – Securities Supervise Board) được đặt dưới sự giám sát của Bộ Kinh tế- Tài chính. Và ở Việt Nam có Uỷ ban chứng khoán nhà nước được thành lập theo Nghị định số 75/CP ngày 28/11/1996. Sở giao dịch chứng khoán: Sở giao dịch chứng khoán thực hiện việc vận hành thị trường thông qua bộ máy tổ chức bao gồm nhiều bộ phận khác nhau phục vụ các hoạt động trên sở giao dịch. Ngoài ra Sở cũng ban hành những quy định điều chỉnh các hoạt động giao dịch chứng khoán trên sở, phù hợp các quy định của luật 10
  17. pháp và Ủy ban chứng khoán. Xét về hình thức sở hữu, hiện nay trên thế giới sở giao dịch chứng khoán có thể có các hình thức sở hữu sau đây: Hình thức sở hữu nhà nước (ví dụ:Sở giao dịch chứng khoán Warsaw, Istanbul ), hình thức sở hữu cổ phần, có cổ đông là công ty chứng khoán thành viên, ngân hàng thương mại, công ty bảo hiểm và các tổ chức khác (ví dụ: Sở giao dịch chứng khoán Australia), hình thức sở hữu thành viên, do thành viên là các công ty chứng khoán sở hữu (ví dụ: Sở giao dịch chứng khoán Hàn Quốc, New York, Tokyo, Thái Lan, ) [35, tr.128]. Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán: Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán là tổ chức của các công ty chứng khoán và một số thành viên khác hoạt động trong ngành chứng khoán, được thành lập với mục đích bảo vệ lợi ích cho các công ty thành viên nói riêng và cho toàn ngành chứng khoán nói chung. Hiệp hội này có một số các chức năng chính sau: khuyến khích hoạt động đầu tư và kinh doanh chứng khoán; ban hành và thực hiện các quy tắc tự điều hành trên cơ sở các quy định pháp luật về chứng khoán; điều tra và giải quyết tranh chấp giữa các thành viên; tiêu chuẩn hoá các nguyên tắc và thông lệ trong ngành chứng khoán. Tổ chức lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán: tổ chức lưu ký và thanh toán chứng khoán là các tổ chức nhận lưu giữ các chứng khoán và tiến hành nghiệp vụ thanh toán bù trừ. 1.3 . Khái niệm, phân loại nhà đầu tư chứng khoán 1.3.1. Khái niệm nhà đầu tư chứng khoán Hiểu một cách chung nhất, nhà đầu tư chứng khoán là những cá nhân, tổ chức, bỏ vốn để sở hữu chứng khoán vì mục đích kiếm lời. Lợi nhuận kỳ vọng của nhà đầu tư có hai dạng: Một là, nhà đầu tư có được lợi tức do chứng khoán mang lại. Khoản tiền này do tổ chức phát hành chứng khoán chi trả dưới dạng cổ tức hoặc lãi trái phiếu; Hai là, nhà đầu tư có thể có được thu nhập từ chênh lệch mua đi, bán lại chứng khoán trên thị trường. Khác với các chủ thể tham gia mua bán hàng hóa ở các thị trường hàng hóa thông thường, nhà đầu tư trên TTCKTT vừa đóng vai trò là người mua vừa là người 11
  18. bán các loại chứng khoán trên thị trường. Trên TTCKTT nhà đầu tư mua các loại chứng khoán không nhằm mục đích tiêu thụ hoặc sử dụng các loại chứng khoán mà họ mua về mà nhằm đầu tư thực hiện việc mua đi, bán lại các loại chứng khoán giao dịch trên thị trường nhằm mục đích kiếm lời từ việc mua bán của mình. Định nghĩa về nhà đầu tư chứng khoán trong quy định của pháp luật Việt Nam cũng có những sự khác nhau nhất định. Về khái niệm nhà đầu tư nói chung, Điều 3.4, Luật đầu tư cũng qui định “Nhà đầu tư là tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt động đầu tư ” theo đó có “bỏ vốn bằng các loại tài sản hữu hình hoặc vô hình để hình thành tài sản ” [28, Điều 3, Khoản 4]. Về khái niệm nhà đầu tư chứng khoán cũng được nhắc đến trong các văn bản pháp luật về chứng khoán, tại nghị định 48/1998/NĐ-CP quy định “Người đầu tư là người sở hữu chứng khoán, người mua hoặc dự kiến mua chứng khoán” [13, Điều 2, Khoản 22]. Theo khái niệm này thì nhà đầu tư chứng khoán có thể bao gồm những người đã mua chứng khoán, và đang nắm giữ chúng hoặc những người có ý định mua chúng. Nghị định 144/2003/NĐ- CP không đưa ra định nghĩa về nhà đầu tư [14]. Đến luật Chứng khoán 2006 có đưa ra khái niệm nhà đầu tư chứng khoán như sau “Nhà đầu tư là tổ chức, cá nhân Việt nam và tổ chức, cá nhân nước ngoài tham gia đầu tư trên thị trường chứng khoán” [29, Điều 6, Khoản 10]. Với quy định như trên khái niệm nhà đầu tư trên TTCK Việt nam đã được mở rộng và có nội dung đầy đủ hơn. Theo quy định của Luật chứng khoán nhà đầu tư trên TTCK Việt nam bao gồm cả tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước có sở hữu tham gia mua bán các loại chứng khoán trên TTCK Việt nam. Với quy định này, Luật chứng khoán đã quy định đầy đủ hơn về các đối tượng được phép mua bán chứng khoán trên TTCK Việt nam. Các tổ chức, cá nhân mua bán chứng khoán ở đây không còn đơn giản là các cá nhân, các tổ chức đơn thuần mà nó còn được hiểu là các công ty quản lý quỹ, các công ty đầu tư, các quỹ đầu tư Nhưng đây chỉ là một khái niệm chung chung, mới chỉ ra được các đối tượng có thể trở thành nhà đầu tư mà chưa chỉ ra được bản chất thực sự của một nhà đầu tư. Còn trong cuốn sách Giáo trình những vấn đề cơ bản về chứng khoán và thị trường chứng khoán của Ủy ban chứng khoán nhà nước, có đưa ra một khái niệm nhà đầu tư chứng khoán như sau “Nhà đầu tư là những người thực sự mua và bán chứng 12
  19. khoán trên thị trường chứng khoán” [24, tr.27]. “Thực sự” mua và bán ở đây tức là hành vi mua và bán chứng khoán phải là ý chí thực của nhà đầu tư. Pháp luật không đề ra những điều kiện cụ thể nào đối với nhà đầu tư, nhằm đảm bảo khuyến khích tất cả chủ thể có khả năng đầu tư đều có thể trở thành nhà đầu tư chứng khoán. Tuy nhiên, theo bản chất quan hệ dân sự trong hoạt động đầu tư chứng khoán, nhà đầu tư phải có những điều kiện sau đây: (i) Có đủ năng lực hành vi dân sự; (ii) Có điều kiện về tài chính để tham gia đầu tư; (iii) Không bị pháp luật hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấm tiến hành đầu tư chứng khoán. 1.3.2. Phân loại Trên thị trường chứng khoán, có nhiều cách phân loại nhà đầu tư. Một là, căn cứ vào quốc tịch, nhà đầu tư được chia thành nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài. Nhà đầu tư trong nước là tổ chức được thành lập theo pháp luật nước đó và cá nhân mang quốc tịch nước đó. Nhà đầu tư nước ngoài, là cá nhân mang quốc tịch nước khác và các tổ chức được thành lập theo pháp luật nước khác. Tại Việt Nam, theo Quyết định số 55/2009/QĐ-TTg ngày 15/4/2009 về tỉ lệ tham gia của nhà đầu tư nước ngoài trên thị trường chứng khoán Việt nam, nhà đầu tư nước ngoài bao gồm các tổ chức cá nhân sau: 1. Tổ chức thành lập và hoạt động theo pháp luật nước ngoài và chi nhánh của các tổ chức này tại nước ngoài và tại Việt Nam. 2. Tổ chức thành lập và hoạt động ở Việt Nam có tỷ lệ tham gia góp vốn của bên nước ngoài trên 49%. 3. Quỹ đầu tư, công ty đầu tư chứng khoán có tỷ lệ tham gia góp vốn của bên nước ngoài trên 49%. 4. Cá nhân nước ngoài là người không mang quốc tịch Việt Nam, cư trú tại nước ngoài hoặc tại Việt Nam [15, Điều 1] Hai là, căn cứ theo tính tổ chức, người ta phân ra làm nhà đầu tư cá nhân và nhà đầu tư tổ chức. 13
  20. (i) Nhà đầu tư cá nhân được hiểu là cá nhân có đầy đủ năng lực hành vi dân sự chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi mua bán chứng khoán của chính mình, có khả năng tài chính hoặc có đủ số chứng khoán đảm bảo thực hiện nghĩa vụ thanh toán của mình. Đây là chủ thể nếu được tập hợp có khả năng cung ứng một khối lượng tiền tệ rất lớn cho thị trường chứng khoán. Khi có vốn nhàn rỗi tạm thời, họ mua chứng khoán với mục đích đầu tư kiếm lời, còn khi có nhu cầu thu hồi vốn hoặc khi nhận thấy chứng khoán tăng, giảm giá họ đem bán lại chứng khoán đó để tránh rủi ro hoặc để hưởng chênh lệch giá. Thực tế cho thấy những nhà đầu tư cá nhân thường có những quyết định nhanh chóng trong đầu tư chứng khoán và ít khi theo đuổi những chính sách đầu tư dài hạn. (ii) Nhà đầu tư có tổ chức hay còn gọi là các định chế đầu tư, là những pháp nhân thường xuyên mua bán chứng khoán với số lượng lớn trên thị trường như là một phần hoạt động kinh doanh của mình. Các tổ chức này thường có các bộ phận chức năng bao gồm nhiều chuyên gia có kinh nghiệm để nghiên cứu thị trường và đưa ra các quyết định đầu tư. Đầu tư thông qua các tổ chức đầu tư có ưu điểm nổi bật là có thể đa dạng hóa danh mục đầu tư và các quyết định đầu tư và các quyết định đầu tư được thực hiện bởi các chuyên gia có kinh nghiệm. Ba là, căn cứ trình độ của các nhà đầu tư, thì nhà đầu tư được phân loại thành nhà đầu tư chuyên nghiệp và nhà đầu tư không chuyên nghiệp. Ở đây chúng ta sẽ đi sâu tìm hiểu đối tượng nhà đầu tư chứng khoán không chuyên nghiệp (i) Nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp: Nhà đầu tư chuyên nghiệp là những tổ chức như công ty chứng khoán, quỹ đầu tư chứng khoán và những định chế tài chính khác như: ngân hàng, công ty tài chính, doanh nghiệp bảo hiểm thực hiện việc mua bán chứng khoán một cách chuyên nghiệp, là một trong những lĩnh vực hoạt động chính. Tính chuyên nghiệp ở đây được thể hiện bởi việc những tổ chức này có khả năng tiếp cận những thông tin về chứng khoán nhanh nhậy, có mạng lưới rộng khắp và có khả năng phân tích thông tin tốt hơn các nhà đầu tư chứng khoán không chuyên. Các quyết định đầu tư đều được thực hiện bởi các chuyên gia có kinh nghiệm. Các chủ thể này có vai trò quan trọng trong điều tiết 14