Luận văn Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực vệ sinh an toàn thực phẩm theo pháp luật Việt Nam hiện nay từ thực tiễn Thành phố Hà Nội
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực vệ sinh an toàn thực phẩm theo pháp luật Việt Nam hiện nay từ thực tiễn Thành phố Hà Nội", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_bao_ve_quyen_loi_nguoi_tieu_dung_trong_linh_vuc_ve.pdf
Nội dung text: Luận văn Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực vệ sinh an toàn thực phẩm theo pháp luật Việt Nam hiện nay từ thực tiễn Thành phố Hà Nội
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN HỒNG SÂM BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƯỜI TIÊU DÙNG TRONG LĨNH VỰC VỆ SINH AN TOÀN THỰC PHẨM THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI Ngành: Luật Kinh tế Mã số: 8.38.01.07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYỄN NHƯ PHÁT HÀ NỘI, 2018
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi với các giá trị khoa học cũng như số liệu điều tra thực tiễn khách quan.Tôi xin nhận trách nhiệm trước những khiếu nại về tác quyền. TÁC GIẢ LUẬN VĂN NGUYỄN HỒNG SÂM
- DANH MỤC VIẾT TẮT Từ, cụm từ viết tắt Nội dung từ, cụm từ viết tắt NTD Người tiêu dùng BVQLNTD Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng VSATTP Vệ sinh an toàn thực phẩm
- DANH MỤC BẢNG BIỂU Bảng số Nội dung Số trang 2.1 Số đơn vị kinh doanh thực phẩm ăn uống năm 2013-2017 50 2.2 Số vụ ngộ độc thực phẩm năm 2013-2017 51 2.3 Tổng số vụ việc cung ứng thực phẩm không đảm bảo 53 VSATTP bị phát hiện 2.4 Các vụ việc được phản ánh đến Hội bảo vệ người tiêu 58 dùng Hà Nội
- MỤC LỤC Mở đầu 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO VỆ QUYỀN Chương 1 LỢI NGƯỜI TIÊU DÙNG TRONG LĨNH VỰC VỆ 8 SINH AN TOÀN THỰC PHẨM 1.1 Những vấn đề lý luận về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 8 Những vấn đề lý luận về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 1.2 trong lĩnh vực vệ sinh an toàn thực phẩm 19 Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực vệ sinh an 1.3 toàn thực phẩm một số quốc gia trên thế giới và kinh 28 nghiệm cho Việt Nam THỰC TRẠNG BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƯỜI TIÊU Chương 2 DÙNG TRONG LĨNH VỰC VỆ SINH AN TOÀN 34 THỰC PHẨM THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM - NGHIÊN CỨU TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI Pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh 2.1 vực vệ sinh an toàn thực phẩm 34 Thực trạng thực hiện pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu 2.2 dùng trong lĩnh vực vệ sinh an toàn thực phẩm trên địa bàn 47 thành phố Hà Nội từ năm 2011 đến nay Đánh giá kết quả thực hiện pháp luật về bảo vệ quyền lợi 2.3 người tiêu dùng trong lĩnh vực vệ sinh an toàn thực phẩm trên 60 địa bàn thành phố Hà Nội từ năm 2013 đến nay ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG THỰC Chương 3 HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƯỜI 68 TIÊU DÙNG TRONG LĨNH VỰC VỆ SINH AN TOÀN THỰC PHẨM 3.1 Định hướng hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực vệ sinh an toàn thực phẩm 68 Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo vệ quyền lợi người 3.2 tiêu dùng trong lĩnh vực vệ sinh an toàn thực phẩm 70 Các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về bảo 3.3 vệ người tiêu dùng trong lĩnh vực vệ sinh an toàn thực 73 phẩm 3.4 Một số kiến nghị đối với thành phố Hà Nội 75 Kết luận 78 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 79
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Quan hệ kinh tế chủ yếu trong xã hội, bên cạnh quan hệ giữa các nhà sản xuất với nhau, là quan hệ giữa người tiêu dùng (NTD) và nhà sản xuất, là lực lượng hết sức đông đảo. Nhưng vì chưa nhận thức đầy đủ các quyền và trách nhiệm của mình, không có đầy đủ kiến thức về mọi mặt và thường hành động riêng lẻ nên trong mối quan hệ giữa họ và nhà sản xuất kinh doanh, NTD thường đứng ở thế yếu và chịu nhiều thiệt thòi. Bên cạnh đó, NTD còn có nguy cơ sử dụng hàng hoá, dịch vụ thiếu độ an toàn đặc biệt là đối với hàng hoá, dịch vụ thiết yếu và hàng hoá, dịch vụ có ảnh hưởng trực tiếp tới sức khoẻ con người. Điều này thực sự đã kìm hãm sự phát triển của xã hội. Chính vì vậy, nhiều nước trên thế giới đã thấy sự cần thiết của việc bảo vệ NTD, có chính sách tôn trọng các quyền của NTD và các biện pháp chống lại sự lạm dụng của những nhà sản xuất, kinhdoanh. Trong bối cảnh Việt Nam hiện nay, quan hệ tiêu dùng trong lĩnh vực vệ sinh an toàn thực phẩm(VSATTP) tồn tại nhiều vấn đề tiêu cực, hiện tượng thực phẩm bẩn tràn lan trên thị trường, công tác kiểm định chất lượng thiếu trung thực và khả năng kiểm soát việc sử dụng hoá chất độc hại trong nuôi, trồng và chế biến thực phẩm kém đã dẫn đến nhiều lo ngại về những tác động xấu đến sức khoẻ của NTD. Thực tế cho thấy, đã diễn ra nhiều trường hợp ngộ độc thực phẩm, nhiều cơ sở chế biến thực phẩm bẩn bị phát hiện, các tiêu cực trong hoạt động kiểm định của cơ quan chức năng đã được chỉ rõ, đặc biệt tại các thành phố lớn như Hà Nội. Điều này đã đặt vấn đềbảo vệ quyền lợi người tiêu dùng (BVQLNTD) trong lĩnh vực VSATTP trở thành một đòi hỏi bức thiết mang tính thời sự. Tuy nhiên, hoạt động BVQLNTD trong lĩnh vực VSATTP đã không diễn ra một cách hiệu quả do những vướng mắc về cơ sở pháp lý cộng với thói quen giao dịch tự phát và sự kém hiểu biết từ phía NTD. Từ cơ sở thực tiễn đó, học viên quyết định lựa chọn đề tài “Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực vệ sinh san toàn thực phẩm theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hà Nội” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn thạc sĩ Luật học, chuyên ngành Luật Kinh tế của mình. 1
- 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trên cơ sở nghiên cứu các tài liệu và các công trình nghiên cứu, học viên nhận định vấn đề pháp luật và thực hiện pháp luật về BVQLNTD trong lĩnh vực VSATTP là một vấn đề mới, chưa có nhiều công trình nghiên cứu đề cập. Xem xét vấn đề BVQLNTD nói chung có thể kể đến một số công trình sau: - Đề tài “Tăng cường năng lực các thiết chế thực thi pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ở Việt Nam” của Viện Khoa học pháp lý – Bộ Tư pháp thực hiện tháng 11/2013, do TS. Nguyễn Thị Vân Anh làm chủ nhiệm; - Đề tài “Hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế”, đề tài nghiên cứu cấp bộ do TS. Đinh Thị Mỹ Loan chủ nhiệm năm 2006; - Đề tài “Bảo đảm quyền của người tiêu dùng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay”, đề tài nghiên cứu cấp bộ của Viện nghiên cứu quyền con người do TS. Tưởng Duy Kiên chủ nhiệm năm 2007; - Đề tài “Nghiên cứu hoàn thiện cơ chế pháp lý nhằm bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam”, đề tài nghiên cứu cấp bộ của Viện nghiên cứu khoa học pháp lý – Bộ Tư pháp do ThS. Định Thị Mai Phương làm chủ nhiệm năm 2008 - Cuốn “Tìm hiểu Luật bảo vệ người tiêu dùng các nước và vấn đề bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ở Việt Nam” của Nhà xuất bản Lao động, năm 1999 do Việt Nhà nước và Pháp luật biên soạn. Nhiều công trình nghiên cứu được công bố dưới hình thức các bài viết được đăng tải trên các tạp chí khoa học chuyên ngành luật hoặc tham luận trong các Hội thảo quốc gia và quốc tế. Quan trọng nhất có thể nhận thấy quan điểm rõ ràng của các học giả trong một bài viết như: - Một số vấn đề lý luận xung quanh Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, PGS.TS Nguyễn Như Phát đăng tải trên website của Cục Cạnh tranh và Bảo vệ người tiêu dùng - Bộ Công Thương: tác giả đề cập tới các vấn đề lý luận trọng tâm của pháp luật về bảo vệ quyền lợi NTD như: lý luận về quan hệ tiêu dùng, triết lý về ngoại lệ so với các nguyên tắc dân sự truyền thống, kiểm soát giao dịch chung, hợp đồng mẫu, trách nhiệm khi hàng hóa có khuyết tật, khởi kiện tập thể và thủ tục rút gọn. Theo quan điểm của PGS.TS Nguyễn Như Phát, “pháp luật bảo vệ quyền lợi 2
- người tiêu dùng là loại pháp luật mang tính can thiệp vào quyền tự do của các nhà cung cấp sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ”. Ngoài ra phải kể đến một số các bài viết như: - Điều kiện thương mại chung và nguyên tắc tự do khế ước, PGS.TS. Nguyễn Như Phát, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 6 năm 2003; - Đặc điểm của quan hệ tiêu dùng và pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, Nguyễn Thị Thư, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 10/2012, Viện Nhà nước và Pháp luật; - Những vấn đề về việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng của Việt Nam, Đoàn Văn Trường, Viện nghiên cứu khoa học thị trường và giá cả, Bộ Tài Chính, 2003; - Pháp luật và vấn đề bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, Đặng Vũ Huân, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số chuyên đề về pháp luật và tiêu dùng tháng 1 năm 2005; - Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng có nên quy định tổ chức là người tiêu dùng, Lê Hồng Hạnh, Trần Thị Quang Hồng, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 20/2010, Văn phòng quốc hội; - Một số vấn đề chung về chế định trách nhiệm sản phẩm và vai trò của chế định này dưới góc độ bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, Trần Thị Quang Hồng, Trương Hồng Quang, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 12/2010, Viện Nhà nước và Pháp luật; - Quyền lợi người tiêu dùng vẫn chưa được đảm bảo, Tô Giang, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số chuyên đề về pháp luật và tiêu dùng tháng 1 năm 2005; - Kỷ yếu Hội thảo đẩy mạnh công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ở Việt Nam, Sáng kiến trong khuôn khổ dự án 7UP2 ngày 20/3/2006 do Cục Cạnh tranh và Bảo vệ người tiêu dùng, Bộ Thương mại chủ trì tại Hà Nội - Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong pháp luật cạnh tranh, Thạc sỹ Ngô Vĩnh Bạch Dương, Tạp chí Nhà Nước và Pháp luật số 11 năm 2000; - Những vấn đề về việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng của Việt Nam, Đoàn Văn Trường, Viện nghiên cứu khoa học thị trường và giá cả, Bộ Tài Chính, 2003; Đáng chú ý là, một số công trình được biên soạn dưới dạng sách tham khảo đã được công bố trong thời gian gần đây song nội dung của các nghiên cứu này mới chỉ dừng lại ở việc giới thiệu và cung cấp những thông tin về kinh nghiệm điều chỉnh của pháp luật nước ngoài và bước đầu đã có những đánh giá tổng quát về thực trạng quan 3
- hệ pháp luật tiêu dùng ở Việt Nam. Về loại công trình này, có thể kể đến: - Tìm hiểu Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng các nước và vấn đề bảo vệ ngườ tiêu dùng ở Việt Nam, Viện Nhà nước và pháp luật, Nhà xuất bản lao động 1999; PGS. TS. Nguyễn Như Phát – PGS. TS Trần Đình Hảo (chủ biên), - Hệ thống các quy định về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, 2004; - Tìm hiểu pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, Nhà xuất bản Tư pháp, 2005; Cục Cạnh tranh và Bảo vệ người tiêu dùng, - Sổ tay công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, 2006; - Giáo trình Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, Nhà xuất bản Công an nhân dân, 2012; Nguyễn Thị Vân Anh; Nguyễn Văn Cương (chủ biên); Có thể nói, cho đến nay vẫn chưa có công trình khoa học nào đi sâu nghiên cứu một cách cơ bản và có hệ thống chủ đề pháp luật và thực hiện pháp luật về BVQLNTD trong lĩnh vực VSATTP. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Luận văn được thực hiện nhằm mục đích khái quát những vấn đề lý luận và pháp luật về BVQLNTD trong lĩnh vực VSATTP, đồng thời có những đánh giá thực tiễn thực hiện từ thành phố Hà Nội nhằm chỉ ra các điểm tích cực, hạn chế và nguyên nhân của hạn chế. Qua đó đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả việc thực hiện pháp luật về BVQLNTD trong lĩnh vực VSATTP trên phạm vi toàn quốc nói chung và thành phố Hà Nội nói riêng. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để hoàn thành luận văn, học viên xác định phải thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu sau: - Hệ thống những vấn đề lý luận về BVQLNTD trong lĩnh vực VSATTP trên cơ sở xây dựng các khái niệm liên quan và những nội dung khác; - Trình bày và đánh giá các quy định của pháp luật về BVQLNTD trong lĩnh vực VSATTP theo các mốc thời gian nhất định, đặc biệt làm rõ các cơ sở pháp lý hiện hành. 4
- - Xem xét thực trạng thực hiện pháp luật về BVQLNTD trong lĩnh vực VSATTP trên địa bàn thành phố Hà Nội và chỉ ra những hạn chế và nguyên nhân của các hạn chế trong công tác này. - Đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về BVQLNTD trong lĩnh vực VSATTP trên phạm vi toàn quốc nói chung và những kiến nghị cho Thành phố Hà Nội nói riêng. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn nghiên cứu pháp luật và việc thực hiện pháp luật về BVQLNTDtrong lĩnh vực VSATTP. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi không gian: Luận văn nghiên cứu việc thực hiện pháp luật về BVQLNTD trong lĩnh vực VSATTP trên địa bàn thành phố Hà Nội; - Phạm vi thời gian: Luận văn nghiên cứu pháp luật về BVQLNTD trong lĩnh vực VSATTP và nghiên cứu thực tiễn thực hiện pháp luật về BVQLNTD trong lĩnh vực VSATTP trên địa bàn thành phố Hà Nội từ năm 2013 đến 2017 (5 năm). 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Nghiên cứu được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Vấn đề nghiên cứu được xem xét theo một trình tự từ quá khứ đến hiện tại trong mối quan hệ, tương tác qua lại với các vấn đề khác trong môi trường xã hội. Ngoài ra, tác giả còn căn cứ vào quan điểm của Đảng và Nhà nước đối với vấn đề bảo vệ NTD. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Trong luận văn, học viên sử dụng một số phương pháp sau: - Phương pháp phân tích: Phương pháp được sử dụng xuyên suốt quá trình nghiên cứu của luận văn, nhằm đi sâu xem xét, đánh giá các vấn đề tạo cơ sở cho các nhận định khoa học; - Phương pháp tổng hợp: Được sử dụng khi đánh giá thực tiễn nhằm rút ra những kết luận tổng quan, những quan điểm, đề xuất và kiến nghị ở Chương 2 và Chương 3; 5
- - Phương pháp so sánh luật học: Được sử dụng tại Chương 1; - Phương pháp thống kê: Được sử dụng trong Chương 2; 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần hoàn thiện lý luận về BVQLNTD trong lĩnh vực VSATTP. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Luận văn có ý nghĩa làm tài liệu tham khảo lý luận, nghiên cứu, học tập. Những đề xuất, kiến nghị của luận văn góp phần cung cấp những luận cứ khoa học phục vụ cho công tác nghiên cứu nội dung BVQLNTD trong lĩnh vực VSATTP; Đồng thời từ những kết quả nghiên cứu thực tiễn tại thành phố Hà Nội, luận văn còn đề xuất các giải pháp nói chung và các kiến nghị đối với thành phố Hà Nội nói riêng nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả việc thực hiện pháp luật về BVQLNTD trong lĩnh vực VSATTP ở Việt Nam hiện nay. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, luận văn được kết cấu theo truyền thống 03 chương: Chương 1. Những vấn đề lý luận về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực vệ sinh an toàn thực phẩm Chương 2. Thực trạng bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực vệ sinh an toàn thực phẩm theo pháp luật Việt Nam – nghiên cứu từ thực tiễn thành phố Hà Nội Chương 3. Định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả hoạt động thực hiện pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực vệ sinh an toàn thực phẩm. 6
- CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƯỜI TIÊU DÙNG TRONG LĨNH VỰC VỆ SINH AN TOÀN THỰC PHẨM 1.1. Những vấn đề lý luận về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 1.1.1. Khái niệm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng NTD là chủ thể trong quan hệ thương mại, đóng vai trò là bên mua và sử dụng các sản phẩm, dịch vụ của bên bán. NTD hay người tiêu thụ là một từ nghĩa rộng dùng để chỉ các cá nhân hoặc hộ gia đình dùng sản phẩm hoặc dịch vụ sản xuất trong nền kinh tế. Khái niệm NTD được dùng trong nhiều văn cảnh khác nhau vì thế cách dùng và tầm quan trọng của khái niệm này có thể rất đa dạng. NTD là người có nhu cầu, có khả năng mua sắm các sản phẩm dịch vụtrên thị trường phục vụ cho cuộc sống, NTD có thể là cá nhân hoặc hộ gia đình. Tùy vào quan điểm kinh tế học khác nhau mà khái niệm NTD cũng có nhiều cách tiếp cận không giống nhau. Tại Mỹ, NTD được xác định là người cuối cùng sử dụng, tiêu dùng hàng hóa, ý tưởng, dịch vụ nào đó. NTD cũng được hiểu là người mua hoặc ra quyết định như là NTD cuốn cùng (Ví dụ một người mẹ mua sữa bột cho đứa trẻ cũng được gọi là NTD mặc dù cô ta không là NTD sản phẩm đó). Theo pháp luật Việt Nam hiện hành, NTD là người mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ cho mục đích tiêu dùng, sinh hoạt của cá nhân, gia đình, tổ chức. NTD trong quạn niệm của nhiều quốc gia chỉ công nhận cá nhân. Ví dụ như tại Mỹ, NTD được xác định là cá nhân tham gia giao dịch với mục đích chủ yếu vì nhu cầu cá nhân hoặc sinh hoạt hộ gia đình. Canada cũng đồng quan điểm khi quy định NTD là tự nhiên nhân (cá nhân) nhưng không phải là thương nhân mua sắm hàng hóa, dịch vụ cho mục đích kinh doanh của mình. Đồng quan điểm, Liên minh châu Âu đưa ra khái niệm NTD trong các văn bản pháp luật về BVQLNTDcủa Liên minh Châu Âu đã được giải thích trong Chỉ thị số 1999/44/EC ngày 25/5/1999 về việc mua bán hàng hóa tiêu dùng và các bảo đảm có liên quan (Directive 1999/44/EC of the European Parliament and of the Council of 25 May 1999 on certain aspects of the sale of consumer goods and associated guarantees). Chỉ thị này giải thích “NTD là bất cứ tự nhiên nhân (tức là cá nhân) nào tham gia vào các hợp đồng điều 7
- chỉnh trong Chỉ thị này vì mục đích không liên quan tới hoạt động kinh doanh hoặc nghề nghiệp của mình.” Các quốc gia thuộc nhóm các nước Đông Nam Á như Thái Lan, Malayxia, Indonexia cũng đồng nhất với quan điểm trên. Trong đó nhấn mạnh điều kiện cần là cá nhân và điều kiện đủ là việc mua sản phẩm, dịch vụ không nhằm mục đích kinh doanh.[20] Tuy nhiên, sẽ là không công bằng nếu không đề cập tới thực tế là cũng có quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới mà trong pháp luật BVQLNTD của họ có quy định NTD bao gồm cả tổ chức. Trong số này, phải kể đến Ấn Độ và Đài Loan (Trung Quốc). Luật BVQLNTDcủa Ấn Độ năm 1986 có một số quy định như sau (Điều 2(1d) và 2(1m), Điều 2(1d): “NTD là bất cứ người nào mua hàng hóa mà không có mục đích để bán lại hoặc vì mục đích thương mại khác.” Điều 2(1m) giải thích chữ “người” (nhân) ở đây được hiểu bao gồm: hãng (doanh nghiệp), cá nhân, hộ gia đình, hợp tác xã, tổ chức xã hội. Mặc dù vậy, có thể khẳng định rằng, xu hướng chung mang tính thông lệ trong pháp luật BVQLNTDở các quốc gia trên thế giới (nhất là các quốc gia phát triển và các quốc gia thuộc khu vực ASEAN) là NTD chỉ nên giới hạn là cá nhân mua sắm hàng hóa, dịch vụ vì mục đích không nhằm mục đích hoạt động kinh doanh, thương mại hoặc hoạt động nghề nghiệp chuyên nghiệp. Việc quan niệm NTD bao gồm cả tổ chức sẽ không phù hợp với thông lệ chung như đã dẫn chứng ở trên.[20] Ngoài ra, việc quy định NTD chỉ là cá nhân sẽ góp phần khu biệt hóa đối tượng được bảo vệ, tập trung nguồn lực vốn có hạn của các quốc gia cho việc bảo vệ nhóm NTD yếu thế nhất, cần được bảo vệ nhất – đó chính là các cá nhân tham gia mua sắm hàng hóa, dịch vụ nhằm mục đích sinh hoạt tiêu dùng cá nhân của bản thân hoặc của gia đình mình. Quy định theo hướng này cũng góp phần nâng cao ý thức tự bảo vệ của các chủ thể khác có hoạt động mua và sử dụng hàng hóa khi tham gia quan hệ thị trường, đảm bảo tốt hơn nguyên tắc tự do hợp đồng – điều rất cần thiết trong bối cảnh phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta trong giai đoạn hội nhập mạnh mẽ như hiện nay. Tuy nhiên, ở một số ít quốc gia, trong đó có Việt Nam lại xem NTD không chỉ có cá nhân. Theo đó, hiện nay NTD bao gồm các đối tượng không chỉ là cá nhân 8
- tiêu dùng riêng lẻ mà còn là tổ chức (như doanh nghiệp, cơ quan quản lý Nhà nước, hiệp hội ngành nghề, tổ chức xã hội, đoàn thể ) tiến hành mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ cho mục đích tiêu dùng, sinh hoạt của cá nhân, gia đình hoặc tổ chức đó. Nói cách khác, các đối tượng này thực hiện việc mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ không nhằm mục đích để bán lại hoặc mục đích sinh lời. Những đối tượng mua hàng hóa, dịch vụ để bán lại hoặc sử dụng làm nguyên liệu phục vụ cho mục đích sản xuất, kinh doanh được bảo vệ bởi các văn bản quy phạm pháp luật khác như Bộ luật Dân sự, Luật Thương mại, Luật Cạnh tranh, Bộ luật Hình sự Như vậy, có thể khẳng định, NTD là những người mua và sử dụng sản phẩm, dịch vụ cuối cùng trong quan hệ mua - bán. NTD là người, tổ chức mua và sử dụng sản phẩm, dịch vụ, là người chịu ảnh hưởng trực tiếp các lợi ích cũng như tác hại nếu có của sản phẩm, dịch vụ. Trong quan hệ mua - bán, lợi ích của người mua có xu hướng bị xâm phạm nhiều hơn lợi ích của người bán. Do đó, trong nền kinh tế thị trường, hầu hết các quốc gia đều có những chính sách để bảo vệ lợi ích của NTD. Hoạt động này được gọi là bảo vệ NTD. BVQLNTDlà hoạt động của cơ quan nhà nước và các tổ chức, hội dân sự và bản thân của NTD căn cứ vào pháp luật thực hiện các biện pháp phòng ngừa, ngăn cản hoặc đấu tranh để bảo vệ các quyền lợi mà NTD bị bên cung cấp xâm hại. 1.1.2. Sự cần thiết bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực vệ sinh an toàn thực phẩm BVQLNTD là hoạt động phổ biến và mang tính tất yếu của nhiều quốc gia trên thế giới. Sự cần thiết của việc BVQLNTD xuất phát từ một số lý do sau: Thứ nhất, NTD là người chịu tác động trực tiếp của sản phẩm tiêu dùng. NTD được xác định là người sử dụng các sản phẩm và dịch vụ cuối cùng, do đó họ là người chịu tác động trực tiếp từ các sản phẩm hay dịch vụ mà họ sử dụng hay thụ hưởng. Các tác động đó bao gồm cả tác động tích cực và tác động tiêu cực. Tác động tích cực là các giá trị sử dụng mà NTD có được khi bỏ tiền ra để mua sản phẩm hoặc dịch vụ. Đó là giá trị cốt lõi mà NTD mong muốn có được. Tuy nhiên, bên cạnh đó, các sản phẩm, dịch vụ cũng bao hàm cả những tác động tiêu cực. Các tác động tiêu cực có thể là một dạng tác động ngoài mong muốn nhưng đã lường 9
- trước của sản phẩm, ví dụ như tác dụng phụ của thuốc, cũng có thể là những tác động tiêu cực xuất phát từ lỗi của sản phẩm. Lỗi của sản phẩm có thể xuất phát từ việc kiểm tra sản phẩm thiếu cẩn trọng hoặc sản phẩm bị biến chất do các tác động ngoại vi hoặc lỗi này do sự cẩu thả trong sản xuất, kinh doanh của người sản xuất và cung cấp sản phẩm, dịch vụ. Dù nguyên nhân do đâu và sự tác động tiêu cực có tính khách quan hay chủ quan, hậu quả của nó đều do NTD gánh chịu. Đặc biệt những tác động tiêu cực do sự cẩu thả của người sản xuất, kinh doanh sẽ tác động rất xấu đến sức khỏe, thậm chí là tính mạng của NTD, ví dụ như các thực phẩm có chứa độc tố do người sản xuất cố tình sử dụng trong sản xuất nhằm gia tăng một đặc tính nào đó của sản phẩm. Chính điều này đã đặt nội dung BVQLNTD lên sự tất yếu, thay vì bảo vệ quyền lợi người sản xuất. Thứ hai, quyền lợi của NTD luôn có nguy cơ bị xâm hại và khó để yêu cầu bồi hoàn. Trong quan hệ giữa người sản xuất, kinh doanh với NTD là quan hệ mua - bán. Người sản xuất hoặc kinh doanh giao sản phẩm, dịch vụ cho NTD sau khi nhận đủ đơn vị tiền tệ tương ứng với giá cả của sản phẩm, dịch vụ. Lúc này, cơ bản giao dịch đã được hoàn tất. Mặc dù có chính sách bảo hành, hậu mãi sản phẩm, dịch vụ song với vai trò là cá nhân đơn lẻ, giao dịch đã được hoàn tất, rất khó để NTD yêu cầu bên sản xuất, kinh doanh bồi hoàn các lợi ích hay thực hiện việc đổi trả nếu sản phẩm, dịch vụ không tương xứng với giá cả hoặc sản phẩm lỗi gây ra những tiêu cực. Thực trạng này cơ bản xuất phát từ hai nguyên nhân chính: thứ nhất, NTD đa số là các cá nhân đơn lẻ, tiếng nói của họ thấp và quan trọng hơn là giá trị tiêu dùng cá nhân nhỏ, NTD thường sẽ không sẵn sàng lựa chọn các hình thức đòi quyền lợi tốn kém về mặt tiền bạc, thời gian như khởi kiện, gây sức ép bằng truyền thông do đó rất nhiều trường hợp NTD cá nhân sẽ chọn cách bỏ qua; thứ hai, những người sản xuất, kinh doanh sản phẩm, dịch vụ đều có những quy định nhằm hạn chế khả năng yêu cầu hoàn trả hay bồi hoàn của NTD như: chính sách không đổi trả, xác định tình trạng ngoại hình của sản phẩm để từ chối bảo hành, từ chối hậu mãi khi di chuyển ra khỏi khu vực xác định Chính hai nguyên nhân này mà nếu không có cơ chế pháp lý và hoạt động của những cơ quan, tổ chức chức năng thực hiện hoạt động BVQLNTD thì lợi ích của NTD trong xã hội sẽ bị bỏ ngõ. 10
- Thứ ba, BVQLNTD trong nền kinh tế thị trường là một hoạt động tất yếu. Nền kinh tế thị trường với mối quan hệ tư do cung - cầu, song chính sự tự do của nó dẫn đến nhiều nguy cơ khác nhau như: cá lớn nuốt cá bé, độc quyền, thiếu hụt hàng hóa công và đặc biệt là sự cẩu thả trong sản xuất, kinh doanh xuất phát từ đạo đức sản xuất, kinh doanh bị lu mờ trước đồng tiền. Kinh tế thị trường phát triển mà thiếu đi cơ chế giám sát từ phía nhà nước, tất yếu những tác động tiêu cực của chúng sẽ diễn ra thường xuyên và ở mức độ ngày càng sâu rộng. Chính vì thế, sự canh chừng của nhà nước và các tổ chức xã hội dân sự là một đòi hỏi để nền kinh tế thị trường được phát triển đúng hướng, đúng quy mô mà xã hội mong muốn. Trong đó, việc BVQLNTD trước các thủ đoạn ngày càng tinh vi và táo bạo của người sản xuất, kinh doanh là một hoạt động quan trọng. Thứ tư, sự bất cân xứng giữa người sản xuất, kinh doanh sản phẩm, cụ thể với trường hợp sản xuất, kinh doanh thực phẩm với NTD. Không chỉ trong sản xuất, kinh doanh thực phẩm, hầu hết các nội dung kinh doanh – tiêu dùng đều hàm chứa các yếu tố bất bình đẳng. Có nhiều biểu hiện về sự bất bình đẳng hiện diện rõ ràng, song cũng có một số yếu tố ngầm định. Và dù yếu tố nào đi chăng nữa, tính chất bán – mua (tiêu dùng) luôn nghiêng phần yếu thế về phía người mua. Cụ thể: - Sự bất cân xứng về thông tin sản phẩm. Các thông tin liên quá đến thành phần và quy trình tạo ra thực phẩm là yếu tố bắt buộc phải công khai khi phân phối thực phẩm ra thị trường. Tuy nhiên, không phải mọi thành phần tạo ra thực phẩm đều được người sản xuất, kinh doanh công bố đầy đủ. Đặc biệt, lượng chất cấm, các chất có nguy cơ tác động đến sức khỏe NTD nhưng lại có tác dụng tích cực cho tăng hương vị hay thời hạn sử dụng không được bên bán công bố. NTD bình thường không có khả năng thử thành phẩm để chỉ ra các chất như vậy. Ngoài ra, thông tin về thành phần và quy trình tạo ra thực phẩm chỉ được công khai chủ yếu với hàng hóa đóng hộp hay ít nhất là có nhãn mác đi kèm. Các thực phẩm sử dụng liền không có khả năng thể hiện các thông tin này. Do vậy, trong quan hệ bán – mua (sử dụng) thực phẩm, sử bất bình đẳng thông tin là rõ ràng. Đương nhiên, trong sự bất bình đẳng đó người bán sẽ chiếm lợi thế, còn NTD luôn trong trạng thái thiếu thông tin về thực phẩm mà mình sử dụng. Vì chính tác động trực tiếp của thực phẩm đến sức 11
- khỏe và tính mạng của NTD thông qua các thành phần và quy trình tạo ra thực phẩm, do đó BVQLNTD là công cụ để xóa đi tính bất bình đẳng này. - Sự bất bình đẳng về thông tin giá. Giá là một trong những cách thức mà người sản xuất và đặc biệt là người kinh doanh sử dụng để xâm phạm quyền lợi của NTD. Nguyên tắc chung của thị trường là “thuận mua - vừa bán”. Tuy nhiên, việc niêm yết giá cũng có những quy định để đảm bảo nguyên tắc NTD biết được giá cả của sản phẩm trước khi tiêu dùng. Tuy nhiên nhiều hoạt động cung ứng dịch vụ và sản phẩm lại cố tình không công khai niêm yết giá, niềm yết không đúng với giá thực, thu thêm các khoản phụ thu và ghi giá của từng sản phẩm đơn lẻ trong chuỗi sản phẩm nhằm cố tình gây hiểu nhầm đó là giá của bộ sản phẩm. Những hành vi trên diễn ra thường xuyên và NTD thường bị xâm hại lợi ích bằng hình thức này nhất. Việc bảo vệ quyền lợi NTD không chỉ ngăn ngừa các hành vi này của bên cung ứng mà còn là cách thức đấu tranh, BVQLNTD khi các hành vi xâm hại lợi ích đã diễn ra. Ngoài bất bình đẳng thông tin, bất bình đẳng về vai trò bán – mua (sử dụng) là bất bình đẳng lớn cần đến hoạt động bảo vệ quyền lợi của NTD. Mặc dù trong hoạt động thương mại, khách hàng được xác định là “thượng đế”, tuy nhiên trên thực tế diễn ra lại cho thấy hầu hết các bên sản xuất và cung cấp chỉ coi khách hàng là thượng đến cho đến khi họ bán được các sản phẩm và dịch vụ của mình. Người mua (sử dụng) sẽ không còn nhận được thái độ và những trách nhiệm như đã hứa của nhà sản xuất, kinh doanh giống như lúc bán hàng. Sự bất bình đẳng này xuất hiện ngay sau khi NTD thanh toán các khoản tiền để mua sản phẩm hay thụ hưởng dịch vụ. Sau hoạt động này, NTD sẽ phải chịu sự bất bình đẳng với người bán trong việc đòi lại các quyền lợi liên quan khi không hài lòng với sản phẩm và dịch vụ đã mua. NTD đa số là cá nhân (tại Việt Nam bao gồm cả tổ chức), do đó tiếng nói khi dòi hỏi quyền lợi là tiếng nói cá thể, khó tạo ra được những sức ép cần thiết để buộc bên sản xuất, kinh doanh phải chịu trách nhiệm về việc xâm hại lợi ích NTD. Do đó, hoạt động bảo vệ quyền lợi NTD với sự hiện diện và kết hợp của nhiều chủ thể khác nhau sẽ là cơ chế đảm bảo cho việc bảo vệ các lợi ích chính đáng của NTD. 12
- 1.1.3. Nội dung bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng BVQLNTDcó nội dung cốt lõi là bảo vệ lợi ích của NTD. Theo đó, có thể tóm lược nội dung BVQLNTD gồm: Thứ nhất, bảo vệ an toàn tính mạng, sức khỏe, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác khi tham gia giao dịch, sử dụng hàng hóa, dịch vụ do tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ cung cấp. Thứ hai, bảo vệ quyền được cung cấp thông tin chính xác, đầy đủ về tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ; nội dung giao dịch hàng hóa, dịch vụ; nguồn gốc, xuất xứ hàng hóa; được cung cấp hóa đơn, chứng từ, tài liệu liên quan đến giao dịch và thông tin cần thiết khác về hàng hóa, dịch vụ mà NTD đã mua, sử dụng. Thứ ba, bảo vệ quyền được lựa chọn hàng hóa, dịch vụ, tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ theo nhu cầu, điều kiện thực tế của mình; quyền quyết định tham gia hoặc không tham gia giao dịch và các nội dung thỏa thuận khi tham gia giao dịch với tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ. Thứ tư, bảo vệ quyền góp ý kiến với tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ về giá cả, chất lượng hàng hóa, dịch vụ, phong cách phục vụ, phương thức giao dịch và nội dung khác liên quan đến giao dịch giữa NTD và tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ. Thứ năm, bảo vệ quyền tham gia xây dựng và thực thi chính sách, pháp luật về bảo vệ quyền lợi NTD. Thứ sáu, bảo vệ quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại khi hàng hóa, dịch vụ không đúng tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, chất lượng, số lượng, tính năng, công dụng, giá cả hoặc nội dung khác mà tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ đã công bố, niêm yết, quảng cáo hoặc cam kết. Thứ bảy, bảo vệ quyền khiếu nại, tố cáo, khởi kiện hoặc đề nghị tổ chức xã hội khởi kiện để bảo vệ quyền lợi của mình theo quy định pháp luật. Thứ tám, bảo vệ quyền được tư vấn, hỗ trợ, hướng dẫn kiến thức về tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ. 13
- 1.1.4. Chủ thể của hoạt động bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng BVQLNTD bên cạnh được thực hiện bởi chính NTD còn được thực hiện bởi hai nhóm chủ thể chính: cơ quan nhà nước có chức năng và các tổ chức xã hội bảo vệ NTD: Khi sự can thiệp hợp lý của nhà nước vào quan hệ giữa người sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ và NTD với mục tiêu bảo vệ quyền lợi NTD được xem là cần thiết thì vấn đề còn lại là xây dựng cơ chế và tổ chức thực thi có hiệu quả nhiệm vụ đó. Nhiệm vụ bảo vệ quyền lợi NTD của cơ quan quản lý nhà nước theo nghĩa rộng được hiểu là nhiệm vụ của tất cả các cơ quan trong bộ máy nhà nước. Là cơ quan quyền lực, Quốc hội đã ban hành luật về bảo vệ quyền lợi NTD 2010. Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi NTD trong phạm vi cả nước. Các bộ, cơ quan nganh Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các cấp tùy theo chức năng, nhiệm vụ của mình ban hành và tổ chức thực hiện các chính sách, văn bản pháp luật về bảo vệ quyền lợi NTD; chỉ đạo hoặc phối hợp với các cơ quan khác trong hoạt động bảo vệ quyền lợi NTD; đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ về bảo vệ quyền lợi NTD; tuyên truyền, giáo dục, phổ biến pháp luật và những hiểu biết liên quan đến việc bảo vệ quyền lợi NTD; hợp tác quốc tế trong lĩnh vực bảo vệ quyền lợi NTD; kiểm tra, thanh tra việc chấp hành pháp luật về bảo vệ quyền lợi NTD; giải quyết khiếu nại tố cáo của NTD; xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ quyền lợi NTD. Viện kiểm sát và tòa án nhân dân trong phạm vi chức năng của mình có nhiệm vụ có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng cũng như tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân. Hệ thống tòa án nhân dân tham gia công tác bảo vệ quyền lợi NTD thông qua hoạt động giải quyết các tranh chấp giữa người sản xuất, kinh doanh, cung cấp dịch vụ và NTD, áp dụng các chế tài dân sự, hành chính đối với những hành vi vi phạm quyền lợi NTD và chế tài hình sự về các tội xâm phạm quyền lợi NTD như tội buôn bán hàng giả, tội lừa dối khách hàng, tội quảng cáo gian dối, tội vi phạm các quy định về VSATTP, Theo nghĩa hẹp, hoạt động bảo vệ quyền lợi NTD của cơ quan quản lý nhà nước thuộc trách nhiệm chủ yếu của cơ quan hành pháp. Trong quy định nội dung quản lý 14