Luận văn Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong kinh doanh thực phẩm thủy hải sản qua thực tiễn tỉnh Bến Tre

pdf 69 trang vuhoa 24/08/2022 9840
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong kinh doanh thực phẩm thủy hải sản qua thực tiễn tỉnh Bến Tre", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_bao_ve_quyen_loi_nguoi_tieu_dung_trong_kinh_doanh_t.pdf

Nội dung text: Luận văn Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong kinh doanh thực phẩm thủy hải sản qua thực tiễn tỉnh Bến Tre

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM VÕ TRÍ THỨC BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƯỜI TIÊU DÙNG TRONG KINH DOANH THỰC PHẨM THỦY HẢI SẢN QUA THỰC TIỄN TỈNH BẾN TRE LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC TP. HỒ CHÍ MINH - Năm 2018
  2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM VÕ TRÍ THỨC BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƯỜI TIÊU DÙNG TRONG KINH DOANH THỰC PHẨM THỦY HẢI SẢN QUA THỰC TIỄN TỈNH BẾN TRE Chuyên ngành: Luật kinh tế Mã số : 8380107 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. VIÊN THẾ GIANG Tp. Hồ Chí Minh – Năm 2018
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi tên là Võ Trí Thức là học viên lớp Cao học Khóa 27 chuyên ngành Luật kinh tế, Khoa Luật, Trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh, là tác giả của Luận văn thạc sĩ luật học với đề tài “Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong kinh doanh thực phẩm thủy hải sản qua thực tiễn tỉnh Bến Tre” (Sau đây gọi tắt là “Luận văn”). Tôi xin cam đoan tất cả các nội dung được trình bày trong Luận văn này là kết quả nghiên cứu độc lập của cá nhân tôi dưới sự hướng dẫn của người hướng dẫn khoa học. Trong Luận văn có sử dụng, trích dẫn một số ý kiến, quan điểm khoa học của một số tác giả. Các thông tin này đều được trích dẫn nguồn cụ thể, chính xác và có thể kiểm chứng. Các số liệu, thông tin được sử dụng trong Luận văn là hoàn toàn khách quan và trung thực. Học viên thực hiện Võ Trí Thức
  4. MỤC LỤC TRANG PHỤ BÌA LỜI CAM ĐOAN MỤC LỤC DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT TÓM TẮT LUẬN VĂN LỜI NÓI ĐẦU 1 1. Lý do chọn đề tài 1 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài 2 3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu 3 3.1. Mục tiêu nghiên cứu 3 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu 4 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4 4.1. Đối tượng nghiên cứu của Luận văn 4 4.2. Phạm vi nghiên cứu 4 5. Phương pháp nghiên cứu 4 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài 5 7. Kết cấu của Luận văn 5 CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƯỜI TIÊU DÙNG TRONG KINH DOANH THỰC PHẨM THỦY HẢI SẢN 6 1.1. NGƯỜI TIÊU DÙNG – CHỦ THỂ KHÔNG THỂ THIẾU TRONG QUAN HỆ KINH DOANH THỰC PHẨM THỦY HẢI SẢN, NHƯNG LUÔN Ở THẾ YẾU DO SỰ TÁCH BIỆT GIỮA SẢN XUẤT VÀ TIÊU DÙNG 6 1.1.1. Bản chất của hoạt động kinh doanh thực phẩm thủy hải sản 6 1.1.2. Người tiêu dùng và các phương pháp tiếp cận bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng bằng pháp luật 8 1.1.2.1. Người tiêu dùng trong pháp luật các nước và Việt Nam 8 1.1.2.2. Các phương pháp tiếp cận bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng bằng pháp luật10
  5. 1.2. QUAN HỆ PHÁP LUẬT TIÊU DÙNG THỰC PHẨM THỦY HẢI SẢN – CƠ SỞ XÁC ĐỊNH BIỆN PHÁP, CÁCH THỨC BẢO VỆ NGƯỜI TIÊU DÙNG 13 1.2.1. Định nghĩa và các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật tiêu dùng thực phẩm thủy hải sản 13 1.2.1.1. Định nghĩa quan hệ pháp luật tiêu dùng thực phẩm thủy hải sản 13 1.2.1.2. Các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng thực phẩm thủy hải sản 17 1.2.2. Thực phẩm thủy hải sản – đối tượng của quan hệ pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng thực phẩm thủy hải sản, đồng thời phải bảo đảm các tiêu chuẩn an toàn thực phẩm rất chặt chẽ 20 1.2.3. Hình thức bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong quan hệ tiêu dùng thực phẩm thủy hải sản 24 KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 26 CHƯƠNG 2. THỰC THI PHÁP LUẬT BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƯỜI TIÊU DÙNG THỰC PHẨM THỦY HẢI SẢN TẠI TỈNH BẾN TRE 27 2.1. CÁC QUY PHẠM ĐIỀU CHỈNH QUAN HỆ BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƯỜI TIÊU DÙNG TRONG KINH DOANH THỰC PHẨM THỦY SẢN 27 2.1.1. Các văn bản pháp luật do cơ quan nhà nước ở trung ương ban hành áp dụng chung cho việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong kinh doanh thực phẩm thủy hải sản 27 2.1.2. Các văn bản của tỉnh Bến Tre điều chỉnh quan hệ bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong kinh doanh thực phẩm thủy hải sản 29 2.2. Đánh giá việc thực thi pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng thực phẩm thủy hải sản 32 2.2.1. Công tác học tập, tuyên truyền pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và tư vấn, giải quyết khiếu nại người tiêu dùng Làm tốt nhưng chưa thực sự tạo được sự chuyển biến 32 2.2.2. Công tác tập huấn kiến thức an toàn thực phẩm, cấp giấy chứng nhận cơ sở kinh doanh đủ điều kiện an toàn thực phẩm thủy hải sản Mới chỉ làm tốt ở khâu cấp
  6. giấy phép, bảo đảm tuân thủ sau khi được cấp phép chưa được thực hiện thường xuyên 34 2.2.3. Công tác thanh tra, kiểm tra xử lý vi phạm trong kinh doanh thực phẩm thủy hải sản Chưa dung hòa được quyền lợi người tiêu dùng với mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận của cơ sở kinh doanh thực phẩm thủy hải sản 37 KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 40 CHƯƠNG 3 TĂNG CƯỜNG BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƯỜI TIÊU DÙNG TRONG KINH DOANH THỰC PHẨM THỦY HẢI SẢN TẠI TỈNH BÊN TRE TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY 41 3.1. TIỀN ĐỀ CHO VIỆC THÚC ĐẨY HOẠT ĐỘNG KINH DOANH THỰC PHẨM THỦY HẢI SẢN Ở TỈNH BẾN TRE 41 3.2. Biện pháp bảo đảm tăng cường bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng thực phẩm thủy hải sản ở tỉnh Bến Tre 44 3.2.1. Truy xuất nguồn gốc thực phẩm thủy hải sản kênh thông tin bảo đảm chất lượng và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong kinh doanh thực phẩm thủy hải sản44 3.2.2. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát của các cơ quan nhà nước gắn với biện pháp xử lý hành vi vi phạm 46 3.2.3. Nâng cao vai trò của Hội bảo vệ người tiêu dùng tỉnh Bến Tre trong bảo vệ người tiêu dùng trong kinh doanh thực phẩm thủy hải sản 47 3.2.4. Giáo dục và nâng cao ý thức bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng của cơ sở sản xuất kinh doanh thực phẩm thủy hải sản 49 3.2.5. Xây dựng văn hóa, đạo đức kinh doanh thực phẩm thủy hải sản – điều kiện để bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng được toàn vẹn 51 KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 53 KẾT LUẬN 54 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO DANH MỤC VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT
  7. DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT UBND Ủy Ban Nhân Dân
  8. TÓM TẮT LUẬN VĂN Thủy hải sản là thực phẩm, là sản phẩm của hoạt động sản xuất, chế biến sản phẩm thủy hải sản, là thực phẩm thiết yếu phục vụ cho đời sống con người. Khi quyết định sử dụng thực phẩm thủy hải sản, người tiêu dùng quan tâm đến chất lượng an toàn vệ sinh thực phẩm. Luận văn này chỉ ra thực trạng của hoạt động kinh doanh thực phẩm thủy hải sản có ảnh hưởng đến việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, từ đó kiến nghị một số giải pháp bảo vệ người tiêu dùng thực phẩm thủy hải sản qua thực tiễn tại tỉnh Bến Tre hiện nay. Từ khóa Pháp luật, thực phẩm thủy hải sản, bảo vệ người tiêu dùng.
  9. 1 LỜI NÓI ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng là vấn đề trung tâm của phát triển nền kinh tế thị trường ở mỗi quốc gia, bởi lẽ, việc bảo vệ tốt quyền lợi người tiêu dùng góp phần thúc đẩy việc tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ. Theo thời gian, vấn đề bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng không chỉ là các “khẩu hiệu” chung chung mà dần từng bước mở rộng sang các loại hàng hóa dịch vụ cụ thể. Tuy nhiên, thực tiễn nuôi dưỡng, chế biến, đánh bắt, do nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó theo đuổi những lợi ích trước mắt là một trong những nguyên nhân cơ bản mà việc sản xuất, kinh doanh thủy hải sản không đảm bảo yêu cầu về chất lượng. Bảo đảm chất lượng, an toàn thực phẩm đang trở thành yêu cầu bức thiết. Thực phẩm nhiễm vi sinh vật độc hại, kim loại nặng, nhiễm các loại hoá chất bảo quản, chất kích thích tăng trưởng, chất tăng trọng, các loại phụ gia, chất hỗ trợ chế biến vượt quá giới hạn cho phép, không rõ nguồn gốc, cấm hoặc ngoài danh mục cho phép trong thực phẩm nông sản đang ngày càng gia tăng, gây bức xúc trong dư luận, ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ, tính mạng và các quyền lợi khác của người tiêu dùng. Thủy hải sản là một loại thực phẩm phổ biến ở nước ta. Quá trình nuôi dưỡng, đánh bắt, chế biến, lưu thông trên thị trường có mối quan hệ chặt chẽ với nhau mà nếu ở khâu nào không tốt, không tuân thủ các tiêu chuẩn về an toàn thực phẩm thì sẽ làm ảnh hưởng trực tiếp đến toàn bộ quy trình sản xuất, chế biến cũng như thương hiệu quốc gia (trong trường hợp xuất khẩu thủy hải sản) ra thị trường nước ngoài. Nhận thức được tầm quan trọng này, khuôn khổ pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ở Việt Nam đã được ban hành và không ngừng hoàn thiện với kỳ vọng bảo vệ tốt hơn quyền lợi người tiêu dùng ở khía cạnh chung cũng như ở từng loại hàng hóa, dịch vụ cụ thể. Thực tiễn thực hiện pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng thực phẩm thủy hải sản đã phát sinh nhiều vấn đề cần được làm rõ hơn như cơ chế, các phương thức bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng từ hoạt động sản xuất, kinh doanh thực phẩm thủy hải sản; phương thức phối hợp giữa các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong
  10. 2 quản lý hoạt động sản xuất, kinh doanh thực phẩm thủy hải sản song thời gian qua các nghiên cứu liên quan đến chủ đề này vẫn còn nhiều hạn chế. Tỉnh Bến Tre là một tỉnh có sông ngòi chằng chịt và là tỉnh ven biển. Tình hình hoạt động kinh doanh thủy hải sản rất sôi động với lượng hàng thủy hải sản rất lớn được tiêu thụ tại địa phương, bán ra ngoài tỉnh và xuất khẩu ra nước ngoài. Trước tình hình đó vấn đề bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong kinh doanh thủy hải sản cần được bảo vệ nghiêm và quan trọng hơn hết, bởi vì thủy hải sản là thực phẩm tươi sống được người tiêu dùng làm thực phẩm chế biến sử dụng hàng ngày cho các bữa ăn để con người duy trì sự sống, phát triển tốt về thể lực, trí lực. Nếu sử dụng thủy hải sản không bảo đảm chất lượng, không bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm không những sẽ ảnh hưởng đến kinh tế, sức khỏe con người mà còn ảnh hưởng đến phát triển kinh tế, thương mại, dịch vụ của tỉnh. Từ những vấn đề lý luận, thực tiễn pháp lý cũng như thực trạng kinh doanh thực phẩm thủy hải sản trong mối quan hệ với vấn đề bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ở tỉnh Bến Tre đã phát sinh nhiều vấn đề cần cần phải được giải quyết không chỉ ở khía cạnh lý luận mà còn ở cả khía cạnh triển khai hiệu quả các quy định pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong kinh doanh thủy hải sản ở tỉnh Bến Tre Tác giả lựa chọn chủ đề “Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong kinh doanh thực phẩm thủy hải sản qua thực tiễn tỉnh Bến Tre” làm nội dung nghiên cứu cho luận văn thạc sĩ luật học, chuyên ngành Luật Kinh tế của mình. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Vấn đề bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng nói chung đã được nhiều nghiên cứu đề cập như “Thực thi pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng của hệ thống các cơ quan nhà nước tại Việt Nam”, Luận văn Thạc sĩ luật học của Nguyễn Hoàng Mỹ Linh, năm 2014; “Pháp luật bảo vệ người tiêu dùng ở Việt Nam hiện nay”, Luận văn Thạc sĩ luật học của Bùi Thị Long, năm 2007; “Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong hoạt động quảng cáo thương mại theo pháp luật Việt Nam”, Luận văn Thạc sỹ của Võ Thị Hạnh, năm 2015; “Trách nhiệm của thương nhân trong việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ở Việt Nam hiện nay”, Luận văn Thạc sĩ luật học
  11. 3 của Nguyễn Thị Thu Hiền, năm 2014; Ngoài ra, còn có các bài viết như “Pháp luật và vấn đề bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng” của TS. Đặng Vũ Huân, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số 11/2000; “Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong pháp luật cạnh tranh” của tác giả Ngô Vĩnh Bạch Dương, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật; “Giải pháp toàn diện bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng” của Phạm Thu Hằng, Tạp chí Dân chủ Pháp luật, số 3/2011; “Giải quyết tranh chấp của người tiêu dùng theo thủ tục rút gọn” của Đặng Thanh Hoa, Tạp chí Dân chủ Pháp luật, số 8/2013; “Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng bằng các vụ kiện tập thể - kinh nghiệm nước ngoài và các gợi ý hoàn thiện pháp luật” của Quách Thuý Quỳnh, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 16/2013; luận án tiến sỹ luật học “Pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực an toàn vệ sinh thực phẩm ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Phạm Văn Hảo, năm 2017 Một cách tổng quát có thể nhận thấy, bản chất nội dung, phương thức bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng đã được các công trình nghiên cứu này luận giải ở nhiều khía cạnh khác nhau. Các nghiên cứu liên quan đến lĩnh vực bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong kinh doanh thủy hải sản hầu như chưa có công trình nghiên cứu nào đề cập một cách có hệ thống. trong phạm vi khảo sát của tác giả, có một công trình nghiên cứu có liên quan gần với đề tài của Luận văn là bài viết của tác giả Viên Thế Giang về chủ đề “Chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm nông sản nhìn từ góc độ bảo vệ người tiêu dùng” đăng trên Tạp chí Pháp luật và phát triển số 12 năm 2017. 3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục tiêu nghiên cứu Làm rõ những đặc thù trong việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực kinh doanh thủy hải sản là cơ sở lý luận cho việc đánh giá thực tiễn bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực kinh doanh thủy hải sản tại tỉnh Bến Tre trên cơ sở pháp luật Việt Nam hiện hành
  12. 4 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Nghiên cứu và hệ thống hóa các vấn đề lý luận về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực kinh doanh thực phẩm thủy hải sản thông qua việc làm rõ các khái niệm có liên quan. - Làm rõ vai trò và cơ chế điều chỉnh pháp luật đối với việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực kinh doanh thực phẩm thủy hải sản và thực tiễn tại tỉnh Bến Tre. - Nghiên cứu xây dựng luận cứ khoa học cho việc tiếp tục hoàn thiện các cơ chế pháp lý cần thiết để bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực kinh doanh thực phẩm thủy hải sản phù hợp với thực tiễn tỉnh Bến Tre. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu của Luận văn Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là - Khuôn khổ pháp luật điều chỉnh quan hệ bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực kinh doanh thực phẩm thủy hải sản. - Thực trạng quy định và thực tiễn thi hành pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực kinh doanh thực phẩm thủy hải sản tại tỉnh Bến Tre. - Các chủ trương, chính sách bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực kinh doanh thực phẩm thủy hải sản của tỉnh Bến Tre. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Luận văn nghiên cứu vấn đề bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực kinh doanh thực phẩm thủy hải sản và thực tiễn tại tỉnh Bến Tre dưới góc độ luật pháp và từ năm 2010 đến nay. 5. Phương pháp nghiên cứu Luận văn được thực hiện dựa trên các phương pháp nghiên cứu - Phương pháp phân tích, tổng hợp, quy nạp, diễn dịch được sử dụng linh hoạt và xuyên suốt trong toàn bộ luận văn để làm rõ các luận điểm khoa học được đề cập.
  13. 5 - Phương pháp phân tích logic quy phạm được sử dụng để phân tích ở Chương 2 và kiến nghị khoa học ở Chương 3. - Phương pháp phỏng vấn chuyên gia được áp dụng để phân tích, đánh giá thực tiễn thực hiện pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong kinh doanh thủy hải sản ở tỉnh Bến Tre. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài - Làm rõ được ở khía cạnh lý luận về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong kinh doanh thực phẩm thủy hải sản, góp phần bổ sung phát triển ở khía cạnh lý luận về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. - Chỉ ra được một số bất cập, hạn chế trong thực tiễn bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong kinh doanh thực phẩm thủy hải sản tại tỉnh Bến Tre. - Kiến nghị được một số giải pháp có tỉnh khả thi, phù hợp để bảo vệ tốt hơn quyền lợi người tiêu dùng trong kinh doanh thực phẩm thủy hải sản tại tỉnh Bến Tre. 7. Kết cấu của Luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn được kết cấu làm 03 chương như sau Chương 1. Những vấn đề lý luận cơ bản về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong kinh doanh thực phẩm thủy hải sản. Chương 2. Đánh giá việc thực thi pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong kinh doanh thực phẩm thủy hải sản tại tỉnh Bến Tre. Chương 3. Tăng cường bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong kinh doanh thực phẩm thủy hải sản tại tỉnh Bến Tre trong giai đoạn hiện nay.
  14. 6 CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƯỜI TIÊU DÙNG TRONG KINH DOANH THỰC PHẨM THỦY HẢI SẢN 1.1. NGƯỜI TIÊU DÙNG – CHỦ THỂ KHÔNG THỂ THIẾU TRONG QUAN HỆ KINH DOANH THỰC PHẨM THỦY HẢI SẢN, NHƯNG LUÔN Ở THẾ YẾU DO SỰ TÁCH BIỆT GIỮA SẢN XUẤT VÀ TIÊU DÙNG 1.1.1. Bản chất của hoạt động kinh doanh thực phẩm thủy hải sản Sản xuất và tiêu dùng là hai mặt không thể thiếu của quá trình sản xuất, lưu thông hàng hóa trên thị trường. Các hoạt động hoạch định chính sách, xây dựng pháp luật của hầu hết các quốc gia đều tập trung vào tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp được tự do trong việc gia nhập thị trường, sản xuất hàng hóa, cung ứng dịch vụ cho thị trường thông qua việc không ngừng cải thiện môi trường đầu tư an toàn, lành mạnh. Các chính sách, pháp luật về khuyến khích và bảo hộ tự do kinh doanh đã góp phần quan trọng vào việc làm gia tăng các chủ thể cung ứng hàng hóa, dịch vụ trên thị trường với sự đa dạng của các loại hàng hóa, dịch vụ. Người tiêu dùng có nhiều cơ hội lựa chọn hàng hóa, dịch vụ với chất lượng tốt nhất, song sự tách biệt giữa sản xuất và tiêu dùng cộng với quá trình luân chuyển hàng hóa, người tiêu dùng không có cơ hội để xâm nhập và kiểm soát quá trình sản xuất hàng hóa, cung ứng dịch vụ của doanh nghiệp. Để bảo đảm an toàn cho người tiêu dùng khi sử dụng hàng hóa, dịch vụ của doanh nghiệp, Nhà nước ban hành các tiêu chuẩn về chất lượng hàng hóa, dịch vụ và các biện pháp chế tài xử lý đối với hành vi sản xuất cung ứng hàng hóa dịch vụ không bảo đảm chất lượng. Thực tiễn đã chứng minh, doanh nghiệp muốn tiêu thụ hết lượng hàng hóa, dịch vụ do mình cung ứng ngoài việc đáp ứng thị hiếu của người tiêu dùng thông qua việc quan sát mẫu mã, quy trình dịch vụ thì việc bảo đảm chất lượng hàng hóa, dịch vụ cũng luôn được nhà sản xuất quan quan. Mặc dù vậy, trong thực tiễn kinh doanh, vẫn còn nhiều hành vi sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ không bảo đảm tiêu chuẩn chất lượng hàng hóa, dịch vụ đã làm suy giảm nghiêm trọng niềm
  15. 7 tin của người tiêu dùng đối với sản phẩm hàng hóa, dịch vụ. Một điều đáng buồn, số lượng hàng hóa, dịch vụ, nhất là hàng tiêu dùng, lương thực, thực phẩm không đáp ứng tiêu chuẩn chất lượng bị phát hiện đa phần là các doanh nghiệp trong nước. Mức độ “phổ biến” của hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng được bày bán công khai cộng với những hạn chế về khả năng nhận biết, phân biệt hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng của người tiêu dùng đã dẫn tới sự phản ứng “nói không với hàng Việt”, tự sản xuất hàng hóa, dịch vụ an toàn hoặc lợi dụng tâm lý lựa chọn “sản phẩm sạch”, sản phẩm “an toàn” hoặc lựa chọn hàng hóa có nguồn gốc nước ngoài (hàng nhập khẩu) hoặc tự cấp, tự túc là minh chứng cho sự thất bại thật sự của doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình cạnh tranh với hàng hóa, dịch vụ nước ngoài. Nó hoàn toàn tương phản với nỗ lực lập pháp, sự vào cuộc tích cực của cơ quan nhà nước có thẩm quyền cũng như làm suy giảm hiệu lực của hệ thống chế tài, xâm phạm quyền lợi của các doanh nghiệp làm ăn chân chính. Kinh doanh thực phẩm thủy hải sản, về bản chất là hành vi mua bán hàng hóa – một hành vi thương mại điển hình trong Luật thương mại, có đối tượng mua bán là các loại thủy hải sản. Giao dịch kinh doanh thực phẩm thủy hải sản phát sinh không chỉ giữa người kinh doanh sản phẩm thủy hải sản thành phẩm (sản phẩm hàng hóa thủy hải sản) mà còn có liên quan đến kỹ thuật nuôi trồng, quy trình chế biến để bảo đảm tiêu chuẩn an toàn thực phẩm. Hoạt động kinh doanh thủy hải sản cần cân nhắc đến các ngoại lệ, bao gồm: trách nhiệm của toàn xã hội, của Nhà nước, của giới doanh nghiệp và cả những nỗ lực, cố gắng của chính giới người tiêu dùng có tổ chức và kiểm soát điều kiện giao dịch chung.1 Trách nhiệm của nhà nước trong lĩnh vực bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, trong đó có người tiêu dùng thực phẩm thủy hải sản không chỉ nhằm đảm bảo sự cân bằng lợi ích và sự bình đẳng trên thực tế giữa người sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ và người tiêu dùng mà còn để bảo vệ lợi ích của người thứ ba hoặc lợi ích của xã hội. Nói cách khác, Nhà nước chỉ can thiệp vào quan hệ sản xuất, phân phối, trao đổi, tiêu dùng 1 Nguyễn Như Phát, Một số vấn đề lý luận xung quanh Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 2(262)/2010, tr.28-34.
  16. 8 của người tiêu dùng khi quyền lợi của chủ thể này bị người khác xâm phạm hoặc bị đe dọa xâm phạm.2 Từ những phân tích trên có thể thấy, hoạt động kinh doanh thủy hải sản chứa đựng đầy đủ các đặc điểm của hành vi kinh doanh và có một số điểm khác biệt là: - Đối tượng kinh doanh là thực phẩm thủy hải sản, có thể là thủy hải sản tươi sống hoặc thủy hải sản đã qua chế biến thành các sản phẩm hàng hóa cụ thể. - Thực phẩm thủy hải sản dễ bị phân hủy theo thời gian, tức là khó bảo đảm được độ tươi cần thiết để làm thực phẩm. Nói cách khác, thủy hải sản rất dễ bị biến đổi tính chất theo thời gian. Do vậy, việc chế biến, kinh doanh thực phẩm thủy hải sản đòi hỏi phản nhanh chóng và phải có thời hạn sử dụng rõ ràng. - Trong quá trình chế biến thực phẩm thủy hải sản dễ lẫn các tạp chất tự nhiên cũng như các hóa chất nhân tạo do người chế biến cho vào trong quá trình chế biến nên dễ làm biến đổi tính chất, giá trị dinh dưỡng của thực phẩm thủy hải sản. - Từ quy định kinh doanh thực phẩm việc thực hiện một, một số hoặc tất cả các hoạt động giới thiệu, dịch vụ bảo quản, dịch vụ vận chuyển hoặc buôn bán thực phẩm3 thì kinh doanh thực phẩm thủy hải sản cũng bao gồm việc thực hiện một, một số hoặc tất cả các hoạt động giới thiệu, dịch vụ bảo quản, dịch vụ vận chuyển hoặc buôn bán thực phẩm thủy hải sản. 1.1.2. Người tiêu dùng và các phương pháp tiếp cận bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng bằng pháp luật 1.1.2.1. Người tiêu dùng trong pháp luật các nước và Việt Nam Trong nghiên cứu của tác giả Nguyễn Văn Cương cho thấy, có nhiều quan niệm về người tiêu dùng như 4 2 Nguyễn Đức Minh, Trách nhiệm của Nhà nước trong bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, Tạp chí Luật học số 12/2008, tr.37-38. 3 Khoản 8 Điều 2 Luật An toàn thực phẩm 2010. 4 Nguyễn Văn Cương, Quan niệm về người tiêu dùng trong pháp luật của cacsquoocs gia trên thế giới và vấn đề xây dựng khái niệm người tiêu dùng trong Dự thảo Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, truy cập tại địa chỉ duthaoonline.quochoi.vn/DuThao/ /Quan_niem_ve_Nguoi_tieu_dung.22.10.doc.
  17. 9 - Hướng dẫn của Liên Hợp quốc về bảo vệ người tiêu dùng ban hành từ năm 1985 và đã được hiệu chỉnh vào năm 1999, khái niệm người tiêu dùng không được giải thích một cách rõ ràng. Tuy nhiên, theo bản hướng dẫn này người tiêu dùng được hưởng 8 quyền sau đây (1) quyền được thỏa mãn những nhu cầu cơ bản, (2) quyền được an toàn, (3) quyền được thông tin, (4) quyền được lựa chọn, (5) quyền được lắng nghe, (6) quyền được khiếu nại và bồi thường, (7) quyền được giáo dục, đào tạo về tiêu dùng, (8) quyền được có môi trường sống lành mạnh và bền vững. - Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 1993 của Trung Quốc tuy không có điều khoản riêng giải thích khái niệm người tiêu dùng như tại Điều 2 của Luật này có quy định “Trường hợp người tiêu dùng, vì nhu cầu cuộc sống, mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ thì các quyền và lợi ích hợp pháp của mình sẽ được bảo vệ theo quy định của Luật này và trường hợp Luật này không quy định thì sẽ được bảo vệ theo các quy định khác có liên quan của pháp luật.” Điều luật này đã ngụ ý, người tiêu dùng theo quan niệm của pháp luật Trung Quốc chỉ là cá nhân (mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ vì nhu cầu sinh hoạt của mình chứ không phải vì mục đích kinh doanh hoặc hoạt động nghề nghiệp). - Chỉ thị số 1999/44/EC ngày 25/5/1999 về việc mua bán hàng hóa tiêu dùng và các bảo đảm có liên quan (Directive 1999/44/EC of the European Parliament and of the Council of 25 May 1999 on certain aspects of the sale of consumer goods and associated guarantees) giải thích người tiêu dùng là bất cứ tự nhiên nhân (tức là cá nhân) nào tham gia vào các hợp đồng điều chỉnh trong Chỉ thị này vì mục đích không liên quan tới hoạt động kinh doanh hoặc nghề nghiệp của mình. - Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng Việt Nam năm 2010 quan niệm người tiêu dùng là người mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ cho mục đích tiêu dùng, sinh hoạt của cá nhân, gia đình, tổ chức. Từ các quan niệm trên về người tiêu dùng cho thấy có sự giống nhau cơ bản về cách luận giải người tiêu dùng là người sử dụng hàng hóa, dịch vụ không nhằm mục đích lợi nhuận. Tuy nhiên, người tiêu dùng “không có nghĩa vụ phải chứng
  18. 10 minh mục đích mua hoặc sử dụng hàng hóa của mình.”5 Đây chính là điểm “mờ” trong quy định của Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, khi mà người mua hàng hóa, dịch vụ không cung cấp rõ mục đích mua bán hàng hóa, dịch vụ về để kinh doanh hay tiêu dùng. Mặt khác, trong thực tiễn, nhiều doanh nghiệp mua hàng hóa về sử dụng vào quá trình sản xuất, kinh doanh, cung ứng dịch vụ thì cũng cần phải xem đó là hành vi tiêu dùng hàng hóa và nếu quyền và lợi ích hợp pháp của những doanh nghiệp này bị xâm phạm thì cũng cần phải giải quyết theo cơ chế bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. 1.1.2.2. Các phương pháp tiếp cận bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng bằng pháp luật Qua nghiên cứu có thể nhận thấy một số cách tiếp cận vấn đề điều chỉnh bằng pháp luật đối với quan hệ bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng như sau - Theo tác giả Nguyễn Như Phát, pháp luật bảo vệ người tiêu dùng là loại pháp luật mang tính can thiệp vào quyền tự do (do không nhận thức được quy luật) của các nhà cung cấp sản phẩm, hàng hóa dịch vụ và như thế, không có sự tự do và bình đẳng trong quan hệ pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng. Cũng cần lưu ý rằng, các lĩnh vực pháp luật khác như pháp luật cạnh tranh, pháp luật về vệ sinh, an toàn thực phẩm, pháp luật về chất lượng sản phẩm và rộng ra là cả pháp luật dân sự, hình sự đều có thêm mục đích là bảo vệ người tiêu dùng. Tuy nhiên, nếu như những pháp luật này bảo vệ người tiêu dùng theo phương pháp can thiệp vào hành vi của nhà sản xuất, kinh doanh, cung cấp sản phẩm hàng hóa dịch vụ thông qua những hạn chế hoặc cấm đoán hành vi thì pháp luật bảo vệ người tiêu dùng (với tính cách là một chế định pháp luật độc lập) lại xuất hiện ở phía người tiêu dùng. Theo đó, pháp luật bảo vệ người tiêu dùng sẽ tạo cho người tiêu dùng những khả năng và cơ hội 5Lê Văn Sua, Quy định của Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010 và một số kiến nghị, truy cập ngày 15/05/2017.
  19. 11 thuận lợi hơn trong cơ chế điều chỉnh pháp luật quan hệ mua bán (theo luật dân sự) mà một chủ thể pháp luật dân sự thông thường sẽ không có được.6 - Nghiên cứu của Cục Quản lý Cạnh tranh Bộ Công thương cho thấy, có hai cách tiếp cận chủ đạo trên thế giới thông qua đó Nhà nước có thể bảo vệ lợi ích của người tiêu dùng 7 (i) xây dựng một hệ thống pháp lý trong đó quy định trách nhiệm pháp lý (liability) đối với các bên sau khi (ex post) đã xảy ra vi phạm;8 hoặc (ii) xây dựng một hệ thống pháp lý (regulation) điều chỉnh, ngăn chặn trước các hành vi vi phạm (ex ante) để giảm thiểu vi phạm.9 6 Nguyễn Như Phát, Một số vấn đề lý luận xung quanh Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 2(262)/2010, tr.28-34. 7 Báo cáo nghiên cứu chuyên đề So sánh luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng một số nước trên thế giới – bài học kinh nghiệm và đề xuất một số quy định cơ bản quy định trong Dự thảo Luật bảo vệ người tiêu dùng của Việt Nam, Tài liệu phục vụ công tác xây dựng Luật Bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam do Cục Quản lý cạnh tranh - Bộ Công Thương thực hiện dưới sự hỗ trợ của Tổ chức CUTS tại Hà Nội, tr.10-12. 8 Theo cách tiếp cận này, các bên liên quan phải bồi thường thiệt hại cho người tiêu dùng sau khi xảy ra thiệt hại thực sự. Theo cách tiếp cận này, các cơ quan phân xử, trong đại đa số các trường hợp là các toà án, bao gồm cả các toà chuyên biệt, sẽ quyết định mức độ bồi thường thiệt hại, căn cứ trên bản chất và thực tế vụ việc. Các bên liên quan sẽ phải chịu bồi thường thiệt hại do hành vi sai sót của họ gây ra, nhưng chỉ sau khi bên bị thiệt hại đã kiện ra toà hoặc khiếu nại đến các cơ quan chức năng có thẩm quyền khác. Tuy nhiên, một điều cần lưu ý là việc bên bị thiệt hại kiện ra toà không có nghĩa là bên gây ra thiệt hại sẽ chịu bồi thường cho nạn nhân, ví dụ như trong trường hợp bên bị thiệt hại không thể chứng minh được rằng bên gây hại đã có hành vi sai sót. Hệ thống quy định liên quan đến bảo vệ NTD thường bao gồm các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến tiêu chuẩn (standards), đo lường (measurement), chất lượng (quality), môi trường, hay sức khoẻ. Ở nhiều quốc gia trên thế giới, hệ thống quy định này do các cơ quan chức năng giám sát thực thi. Ví dụ như tại Ấn Độ, các vấn đề tiêu chuẩn do Cục Tiêu chuẩn Ấn Độ (cơ quan tồn tại song song với Vụ Các Vấn đề Tiêu dùng thuộc Bộ Các Vấn đề Tiêu dùng, Lương thực thực phẩm và Phân phối các Hàng hoá công cộng) chịu trách nhiệm, tại Việt Nam cho đến nay là Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường và Chất lượng (thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ). 9 Cách tiếp cận thứ hai mang tính ngăn chặn, phòng ngừa, trước (ex ante) khi xảy ra vi phạm, theo đó các bên liên quan phải chịu phạt kể cả trước khi có thiệt hại thực sự, do đã vi phạm các quy định về tiêu chuẩn. Theo cách tiếp cận này, một hệ thống quy chuẩn phải được thiết lập, không liên quan đến việc có xảy ra thiệt hại thực sự cho người tiêu dùng hay không. Các vụ việc đơn lẻ, hay cả một nhóm các vấn đề, đều có thể được điều chỉnh bởi các quy định chuẩn chung này, giảm thiểu khả năng xảy ra việc phải phân định đúng sai, hay giúp tránh các phán quyết không nhất quán và thiếu công bằng trên cơ sở vụ việc. Các bên liên quan sẽ phải chịu phạt chỉ khi các cơ quan chức năng phát hiện được rằng họ không tuân thủ các quy định về tiêu chuẩn. Và trong đại đa số các trường hợp, các cơ quan chức năng sẽ sử dụng các thủ tục hành chính để xem xét các thông tin kỹ thuật có liên quan, nhằm đi đến kết luận cuối cùng. hệ thống quy định trách nhiệm pháp lý liên quan đến bảo vệ người tiêu dùng thường bao gồm các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến các quyền cơ bản của người tiêu dùng, trách nhiệm sản phẩm (product liability), các hành vi thương mại không công bằng (unfair trade practices), giải quyết tranh chấp tiêu dùng (consumer redressal) và các chế tài áp dụng (remedies and corrective measures). Đây là các quy định thường gặp nhất trong bất kỳ một đạo luật hay