Luận văn Bảo vệ quyền lợi người gửi tiền tại ngân hàng thương mại theo pháp luật Việt Nam

pdf 97 trang vuhoa 25/08/2022 10980
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Bảo vệ quyền lợi người gửi tiền tại ngân hàng thương mại theo pháp luật Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_bao_ve_quyen_loi_nguoi_gui_tien_tai_ngan_hang_thuon.pdf

Nội dung text: Luận văn Bảo vệ quyền lợi người gửi tiền tại ngân hàng thương mại theo pháp luật Việt Nam

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐÀO THỊ SAO BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƢỜI GỬI TIỀN TẠI NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Hà Nội – 2014
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐÀO THỊ SAO BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƢỜI GỬI TIỀN TẠI NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM Chuyên ngành : Luật Kinh Tế Mã số : 60 38 01 07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS. LÊ THỊ THU THỦY Hà Nội – 2014
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƢỜI CAM ĐOAN
  4. LỜI CẢM ƠN Sau một thời gian học tập và nghiên cứu tại Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, đến nay tôi đã hoàn thành bản luận văn tốt nghiệp. Để có được kết quả đó, tôi vô cùng cảm ơn PGS.TS Lê Thị Thu Thuỷ đã giúp đỡ tôi rất nhiều trong quá trình xác định hướng nghiên cứu và hoàn thiện luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo của Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, các cán bộ nhân viên Trung tâm thông tin –thư viện, Đại học Quốc gia Hà Nội và Thư viện Quốc gia Việt Nam cùng bạn bè, gia đình đã giúp đỡ tôi trong quá trình hoàn thành luận văn. Luận văn là công trình nghiên cứu công phu, nghiêm túc, khoa học của bản thân, nhưng do khả năng có hạn nên khó tránh khỏi những khiếm khuyết nhất định. Tôi rất mong sự đóng góp nhiệt tình của các thầy, cô giáo để luận văn được hoàn thiện hơn nữa. Tôi xin chân thành cảm ơn!
  5. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BHTG : Bảo hiểm tiền gửi NHNN : Ngân hàng Nhà nước NHTM : Ngân hàng thương mại TCTD : Tổ chức tín dụng
  6. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Nền kinh tế nước ta nói chung và lĩnh vực tài chính ngân hàng nói riêng đang gặp nhiều khó khăn, thách thức trong đó lạm phát và bất ổn tỷ giá được coi là hai nguyên nhân chính ảnh hưởng đến nền kinh tế và tác động trực tiếp đến hoạt động ngân hàng. Thị trường tiền tệ có nhiều diễn biến phức tạp như việc huy động vốn khó khăn do lãi suất giảm mạnh, lãi suất cho vay theo đó cũng giảm nhiều nhưng các doanh nghiệp cũng không mặn mà với việc vay vốn ngân hàng do việc kinh doanh khó khăn, hàng hóa tiêu thụ chậm, hàng tồn kho tăng cao, nhiều doanh nghiệp rơi vào tình trạng phá sản, hoặc phải thu hẹp quy mô. Trong khi đó hệ thống ngân hàng được coi là huyết mạch của nền kinh tế. Sự bất ổn về tài chính ngân hàng sẽ gây ra những bất ổn trong đời sống xã hội. Trước tình hình đó, NHNN đã đưa ra vấn đề trọng tâm của ngành ngân hàng là việc tái cơ cấu lai hệ thống tín dụng, trong đó có việc bảo đảm quyền lợi của người gửi tiền tại các tổ chức tín dụng trong quá trình tái cơ cấu đang được dư luận quan tâm. Mục tiêu của quá trình tái cơ cấu hệ thống các TCTD là cơ cấu lại căn bản, triệt để và toàn diện các mặt tài chính, hoạt động, quản lý điều hành nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh và khả năng quản trị rủi ro cho các TCTD, từ đó phát triển an toàn, hiệu quả và vững chắc, đáp ứng tốt hơn yêu cầu phát triển của nền kinh tế - xã hội trong giai đoạn mới. Ở nước ta, sự đổ vỡ của hệ thống Quỹ tín dụng nhân dân trên phạm vi toàn quốc trong những năm 90 của thế kỷ trước đã để lại cho chúng ta nhiều bài học sâu sắc và hậu quả lâu dài mà trước hết là lòng tin của khách hàng vào hệ thống ngân hàng. Có lẽ không ở nơi đâu trên thế giới mà người dân quen sử dụng tiền tệ dưới hình thức là một phương tiện cất trữ như ở Việt Nam. 1
  7. Muốn huy động mọi nguồn vốn nhàn rỗi trong các tầng lớp dân cư và chấn hưng kinh tế đất nước phải tái lập niềm tin của công chúng vào hệ thống ngân hàng. Bởi vậy, vấn đề an toàn hoạt động ngân hàng luôn phải được coi là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong các hoạt động từ cả trên góc độ kinh doanh lẫn góc độ quản lý Nhà nước và bằng nhiều biện pháp khác nhau vì mục tiêu an toàn hệ thống ngân hàng cũng như là an toàn của nền kinh tế Tuy nhiên, khung pháp lý về việc bảo vệ người tiêu dùng nói chung và người gửi tiền nói riêng vẫn chưa được quan tâm xây dựng, hoàn thiện đúng mức. Hiện tại văn bản pháp lý cao nhất về bảo vệ người tiêu dùng là Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010. Tuy nhiên văn bản pháp lý này chỉ điều chỉnh các vấn đề liên quan đến quyền và lợi ích của người tiêu dùng là người mua, sử dụng hàng hóa dịch vụ cho mục đích tiêu dùng sinh hoạt của cá nhân, gia đình và tổ chức mà không đề cập đến việc bảo vệ quyền và lợi ích của người tiêu dùng sử dụng dịch vụ tài chính nói chung và người gửi tiền nói riêng. Cho đến nay chưa có một văn bản pháp lý nào quy định một cách có hệ thống và cụ thể việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng dịch vụ tài chính và người gửi tiền. Các quy định này đều nằm rải rác và không thống nhất tại các văn bản pháp lý về các chuyên ngành cụ thể như: Luật chứng khoán, Luật các TCTD, các văn bản liên quan đến hoạt động BHTG. Như vậy, hệ thống pháp luật liên quan đến bảo vệ người tiêu dùng trong lĩnh vực dịch vụ tài chính của nước ta hiện nay còn nhiều bất cập. Để người tiêu dùng trong khu vực này được bảo đảm triệt để, luật pháp cần có sự điều chỉnh cho phù hợp theo đó đảm bảo yêu cầu phù hợp với lý luận về bảo vệ người tiêu dùng, phù hợp với thực tiễn khách quan của thị trường tài chính, đảm bảo cân bằng lợi ích giữa người tiêu dùng và các tổ chức kinh doanh dịch vụ tài chính. Đặc biệt đảm bảo tính đồng bộ giữa các bộ phận pháp luật điều 2
  8. chỉnh từng đối tượng người tiêu dùng sử dụng dịch vụ tài chính như Luật chứng khoán, Luật bảo vệ người tiêu dùng, Luật BHTG, Luật TCTD .Những quy định của pháp luật hiện hành điều chỉnh việc bảo vệ người gửi tiền tại Việt Nam cần được hiểu theo nghĩa rộng bao gồm cả quy định của pháp luật điều chỉnh việc bảo vệ người tiêu dùng sử dụng dịch vụ tài chính. Các quy định của pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng cần có sự thống nhất trong một tổng thể và cần xây dựng để tránh chồng chéo hoặc bỏ trống để đảm bảo quyền lợi người tiêu dùng sử dụng dịch vụ tài chính nói chung và người gửi tiền nói riêng. Hiện nay đã có một số nghiên cứu về vấn để bảo vệ người gửi tiền nhưng chủ yếu tập trung vào vai trò của tổ chức BHTG dưới dạng luận án, luận văn, các chuyên đề nghiên cứu chuyên sâu hoặc các bài báo, tạp chí. Tuy nhiên, chưa có tài liệu chính thức nào về đề tài: “Bảo vệ quyền lợi người gửi tiền tại ngân hàng thương mại theo pháp luật Việt Nam”. Với mục đích làm rõ và khái quát những vấn đề liên quan đến bảo vệ quyền lợi người gửi tiền sao cho đạt hiệu quả nhất, trên cơ sở tập trung nghiên cứu những cơ sở lý luận của việc bảo vệ người gửi tiền, luận văn còn đề xuất kiến nghị hoàn thiện quy chế pháp lý về bảo vệ người gửi tiền trong bối cảnh khủng hoảng ngân hàng như hiện nay, phân tích thực trạng quy chế pháp lý hiện hành, đồng thời nghiên cứu tính khả thi của vấn đề trên trong điều kiện của Việt Nam hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài: Trên phương diện nghiên cứu và phạm vi luận văn thạc sỹ nói riêng, đến nay vẫn chưa có nhiều đề tài nghiên cứu về vấn đề này. Dù đã có luận án tiến sĩ luật học về “Pháp luật về BHTG ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế” của nghiên cứu sinh Bùi Hữu Toàn và Chuyên đề nghiên cứu chuyên sâu “ Vai trò của tổ chức bảo hiểm trong việc bảo vệ quyền lợi người gửi tiền 3
  9. và đảm bảo an sinh xã hội” của tập thể tác giả trung tâm thông tin thư viện và nghiên cứu khoa học thuộc văn phòng Quốc hội và Tổ chức BHTG nhưng những công trình này chỉ tập trung làm rõ vai trò của tổ chức BHTG đối với việc bảo vệ người gửi tiền mà chưa đề cập đến vấn đề bảo vệ người gửi tiền một cách cụ thể như sự cần thiết phải bảo vệ người gửi tiền và các biện pháp bảo vệ khác. Bên cạnh đó có rất nhiều bài viết đăng trên các sách, báo, tạp chí trong nước xung quanh vấn đề bảo vệ quyền lợi người gửi tiền như: Cuốn sách chuyên khảo của PGS.TS Lê Thị Thu Thủy – Pháp luật về BHTG tại Việt Nam – NXB Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2008; Bài viết Pháp luật bảo vệ người tiêu dùng dịch vụ ngân hàng của Luật sư Trương Thanh Đức đăng trên Tạp chí Ngân hàng số 1 tháng 1/2011; Bài viết của GS.TSKH Đào Trí Úc: Bảo về quyền lợi người gửi tiền theo pháp luật của BHTG Việt Nam – Thực trạng và phương hướng hoàn thiện – Thông tin BHTG số 3 năm 2007 Các bài viết này đã khảo sát, nghiên cứu về mặt lý luận và đưa ra các giải pháp nhằm bảo vệ người gửi tiền khi NHTM bị phá sản, mà chưa đi sâu về các khía cạnh pháp luật về bảo vệ người gửi tiền trong khi NHTM đang hoạt động bình thường. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu trên sẽ là nguồn tài liệu tham khảo quý báu và là cơ sở lý luận giúp cho việc tiếp cận vấn đề hoàn thiện pháp luật về bảo vệ quyền lợi người gửi tiền tại NHTM ở Việt Nam hiện nay. Hơn nữa, hiện nay trong bối cảnh nền kinh tế nói chung và hệ thống ngân hàng nói riêng đang gặp nhiều khó khăn thách thức, thì vấn đề bảo vệ người gửi tiền lại đang là đề tài được dư luận quan tâm, nhất là khi NHNN đưa ra các chính sách tái cơ cấu hệ thống ngân hàng. Vì vậy, tác giả mạnh dạn chọn đề tài “Bảo vệ quyền lợi người gửi tiền tại NHTM theo pháp luật Việt Nam” để làm đề tài luận văn thạc sỹ muốn góp phần làm sáng tỏ bức tranh về 4
  10. nền tài chính ngân hàng hiện nay cũng như quá trình thực hiện quy định của pháp luật về bảo vệ quyền lợi người gửi tiền. 3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn: Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là làm sáng tỏ bản chất và sự cần thiết phải bảo vê ̣quyêǹ lơị ngườ i gử i tiền vàđ ưa ra các giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền lợi người gửi tiền tại NHTM ở Việt Nam. Phục vụ cho mục đích trên luận văn có nhiệm vụ: Thứ nhất, Nghiên cứu vấn đề lý luận về bảo vệ quyền lợi người gửi tiền tại NHTM ở Việt Nam. Thứ hai, Nghiên cứu thực trạng việc áp dụng pháp luật bảo vệ quyền lợi người gửi tiền tại NHTM ở Việt Nam, từ đó nêu ra các bất cập và một số kiến nghị nhằm bổ sung và hoàn thiện quy định của pháp luật về vấn đề này. 4. Phạm vi, đối tƣợng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các quy định hiện hành về bảo vê ̣ quyền lơị ngườ i gử i tiền ở Viêṭ Nam . Trên cơ sở đối chiếu các quy định của pháp luật hiện hành với thực tiễn luận văn phân tích, đánh giá làm rõ ưu điểm và hạn chế của các quy định trong thực tiễn áp dụng pháp luật liên quan đến bảo vệ quyền lợi người gửi tiền. Từ đó mạnh dạn đề xuất một số kiến nghị cho việc tiếp tục xây dựng pháp luật về bảo vệ quyền lợi người gửi tiền trong thời gian tới. Phạm vi nghiên cứu: Pháp luật về bảo vệ quyền lợi người gửi tiền tại NHTM có thể được tiếp cận, phân tích ở nhiều góc độ khác nhau, tuy nhiên trong phạm vi của luận văn không thể phân tích hết các vấn đề đó, xuất phát từ mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu, luận văn chỉ tập trung làm rõ những vấn đề lý luận về bảo vệ người gửi tiền như khái niệm, đặc điểm người gửi tiền, sự cần thiết phải bảo vệ người gửi tiền và đưa ra các biện pháp bảo vệ quyền lợi người gửi tiền đó là các biện pháp bảo đảm từ phía cơ quan nhà nước 5
  11. (BHTG, Ngân hàng nhà nước),các biện pháp bảo đảm từ phía các NHTM và các biện pháp từ chính người gửi tiền. Đánh giá thực trạng áp dụng các quy định đó dựa trên cơ sở khoa học thực tiễn vận hành những nguyên nhân, hạn chế còn tồn tại khi trong pháp luật và trong quá trình thực thi pháp luật về bảo vệ người gửi tiền. Trên cơ sở đó luận văn đưa ra kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền lợi người gửi tiền tại NHTM ở Viêṭ Nam. 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu: Trong quá trình tiếp cận và giải quyết những vấn đề mà luận văn đặt ra, tác giả đã sử dụng phương pháp biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác – Lênin, dựa trên đường lối, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về chính sách kinh tế - xã hội và các nội dung khác có liên quan. Trong những trường hợp cụ thể, tác giả kết hợp sử dụng các phương pháp nghiên cứu phù hợp như thống kê, so sánh, tổng hợp, phân tích nhằm kết hợp nhuần nhuyễn giữa kiến thức lý luận và thực tiễn để góp phần làm sáng tỏ những vấn đề cần nghiên cứu. 6. Kết cấu của luận văn: Ngoài Lời mở đầu, Kết luận, Mục lục, Phụ lục, Danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn được thiết kế gồm ba chương như sau: Chương 1. Những vấn đề lý luận về bảo vệ quyền lợi người gửi tiền tại Ngân hàng thương mại Chương 2. Thực trạng pháp luật về bảo vệ quyền lợi người gửi tiền tại Ngân hàng thương mại ở Việt Nam Chương 3. Kiến nghị nhằm hoàn thiện và thực thi hiêụ quả các quy định pháp luật về bảo vệ quyền lợi người gửi tiền 6
  12. CHƢƠNG 1: NHƢ̃ NG VẤ N ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO VỆ NGƢỜI GỬI TIỀN TẠI NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI 1.1. Khái niệm và đặc điểm của ngƣời gửi tiền 1.1.1. Khái niệm người gửi tiền Người gửi tiền là đối tượng quan trọng mà mỗi NHTM đều phải quan tâm, bởi lẽ không có người gửi tiền thì các NHTM không đủ vốn để tiến hành các hoạt động kinh doanh của mình. Vì vậy, để đảm bảo khả năng phát triển của mình, các ngân hàng phải luôn quan tâm đến nhu cầu, sở thích của người gửi tiền để thu hút số tiền gửi của đối tượng này. Trong giai đoạn hiện nay khi người gửi tiền đứng trước rất nhiều sự lựa chọn để đảm bảo số tiền của mình và khi đã gửi cho một TCTD nói chung và NHTM nói riêng họ đều mong muốn số tiền đó phải được an toàn và sinh lời cao nhất thì sự cạnh tranh của các NHTM lại trở lên sôi động và đa dạng hơn bao giờ hết. Để hiểu về pháp luật bảo vệ quyền lợi người gửi tiền trước hết phải làm rõ khái niệm người gửi tiền. Tuy nhiên, quan niệm như thế nào về người gửi tiền hiện nay, pháp luật Việt Nam vẫn chưa có một văn bản chính thức nào đưa ra khái niệm này. Do đó để đưa ra khái niệm người gửi tiền tác giả dựa trên các khái niệm có liên quan đến là khái niệm tiền gửi, khái niệm người tiêu dùng theo những góc độ khác nhau. Người gửi tiền được hiểu thông thường là người có một khoản tiền gửi vào tài khoản của họ tại NHTM. Tiền gửi có ý nghĩa to lớn đối với người gửi tiền và các NHTM. Đối với người gửi tiền, ý nghĩa tiền gửi phụ thuộc vào mục đích gửi của họ. Có thể dễ dàng nhận ra hai trường hợp mà khách hàng gửi tiền là khi khách hàng hưởng lợi ích từ các công cụ thanh toán mà ngân hàng cung cấp cho họ hoặc là khách hàng gửi tiền vào để hưởng lãi như gửi vào tài khoản tiết kiệm hoặc tài khoản định kỳ. Còn đối với các NHTM thì 7
  13. tiền gửi có ý nghĩa là một nguồn vốn quan trọng, chủ yếu để thực hiện hoạt động ngân hàng. Do đó, người ta nhận thấy việc khó khăn khi đưa ra khái niệm tiền gửi, nên có nhiều quan điểm khác nhau: Theo Từ điển kinh tế học hiện đại thì Tiền gửi được hiểu là khoản tiền cho các chế định tài chính nào đó vay với điều kiện cho phép rút trước hoặc không hay hoàn trả sau một thời gian nhất định. Điều đó có nghĩa tiền gửi có mối liên hệ chặt chẽ với hoạt động của NHTM do các NHTM huy động để cho vay lại. Trong phần 3 Luật BHTG của Mỹ quy định: tiền gửi được hiểu là số dư tiền hoặc giá trị tương đương chưa được thanh toán đã được nhận hoặc giữ tại một ngân hàng hoặc hiệp hội tiết kiệm trong hoạt động kinh doanh thông thường và từ đó nó cấp hoặc có nghĩa vụ cấp tín dụng, dù là có điều kiện hay không điều kiện, cho một tài khoản thương mại, séc, tiết kiệm, không kỳ hạn hoặc được chứng minh bằng giấy chứng nhận tiền gửi, chứng nhận tiết kiệm, chứng nhận đầu tư, chứng nhận nợ, hoặc những tên tương tự hoặc séc, hay hối phiếu rút ra từ tài khoản tiền gửi và được chứng nhận bởi ngân hàng hoặc hiệp hội tiết kiệm, hoặc thư tín dụng hoặc séc du lịch mà ngân hàng hay hiệp hội tiết kiệm có nghĩa vụ đầu tiên. Luật TCTD năm 2010 không sử dụng khái niệm tiền gửi mà sử dụng khái niệm “hoạt động nhận tiền gửi”. Theo khoản 13, Điều 4, Luật các TCTD năm 2010 quy định: “nhận tiền gửi là hoạt động nhận tiền của tổ chức, cá nhân dưới hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, phát hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu và các hình thức nhận tiền gửi khác theo nguyên tắc có hoàn trả cả gốc, lãi cho người gửi tiền theo thỏa thuận”. Khái niệm về tiền gửi theo quy định trên có mối liên quan mật thiết với tài khoản của khách hàng tại NHTM. Người gửi tiền có thể lựa chọn các loại tiền gửi theo mục đích của họ và được hưởng các dịch vụ do ngân hàng cung 8
  14. cấp, được hưởng lãi suất. Đồng thời có nghĩa vụ để ngân hàng sử dụng các số tiền đó cho hoạt động kinh doanh của mình với cam kết thực hiện việc hoàn trả vào ngày đáo hạn (đối với tài khoản có kỳ hạn) hoặc theo yêu cầu của khách hàng (đối với tài khoản không kỳ hạn). Từ những cách tiếp cận trên có thể rút ra định nghĩa khái niệm tiền gửi như sau: Tiền gửi là khoản tiền của khách hàng gửi tại TCTD dưới những hình thức theo quy định của pháp luật phù hợp với mục đích và yêu cầu của khách hàng và của chính TCTD đó. Dưới góc độ liên quan đến khái niệm người tiêu dùng, có quan điểm cho rằng người gửi tiền là người tiêu dùng trong lĩnh vực ngân hàng [9]. Thông thường, người tiêu dùng được hiểu là người mua hàng hóa hoặc sử dụng dịch vụ của các cơ sở sản xuất, cung cấp dịch vụ, cửa hàng cho nhu cầu, mục đích của mình. Có nhiều khái niệm về người tiêu dùng. Hiện nay, có hai cách hiểu khác nhau về người tiêu dùng: Theo nghĩa hẹp, người tiêu dùng là các cá nhân, hộ gia đình, tổ chức mua hoặc sử dụng hàng hóa, dịch vụ cho mục đích sinh hoạt, tiêu dùng của mình. Như vậy, người tiêu dùng bao gồm cả người mua hàng hóa (mua lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, quần áo, thiết bị máy móc, đồ dùng sinh hoạt, phương tiện đi lại ) và người sử dụng dịch vụ (dịch vụ bảo hiểm, vận tải, vui chơi, giải trí, khám chữa bệnh, sửa chữa, lắp đặt thiết bị ). Theo nghĩa rộng, người tiêu dùng ngoài mục đích mua hàng hoá, sử dụng dịch vụ để đáp ứng nhu cầu sinh hoạt thì còn có thể phục vụ cho mục đích tái sản xuất kinh doanh (mua sản phẩm này để chế biến, sản xuất thành sản phẩm khác, ví dụ như mua vải để may thành quần, áo và mang đi bán). Trên thế giới, pháp luật mỗi quốc gia có tiêu chí xác định và định nghĩa khác nhau về người tiêu dùng, chủ yếu dựa vào tư cách chủ thể và mục đích sử dụng để quy định thế nào là người tiêu dùng: 9
  15. Người tiêu dùng là cá nhân mua và sử dụng hàng hóa hoặc dịch vụ, cách quy định này thể hiện rõ Luật bảo vệ người tiêu dùng chỉ bảo vệ đối với người nhận hàng hóa, dịch vụ để sử dụng cho mục đích cá nhân, sử dụng trong hộ gia đình, mà không vì mục đích thương mại hoặc sử dụng vào quá trình sản xuất vì pháp nhân có những vị thế và điều kiện tốt hơn so với cá nhân trong quan hệ với nhà cung cấp nên Luật bảo vệ người tiêu dùng không cần thiết phải can thiệp vào quan hệ tiêu dùng của họ. Người tiêu dùng bao gồm cả cá nhân và tổ chức mua và sử dụng hàng hóa vì mục đích tiêu dùng hoặc mục đích thương mại, quy định này mở rộng về đối tượng được bảo vệ theo luật bảo vệ người tiêu dùng. Quy định này đã khắc phục được hạn chế của cách quy định trên vì không phải lúc nào pháp nhân cũng là người đủ khả năng để đối mặt được với các vi phạm từ phía nhà sản xuất kinh doanh và hậu quả là nếu luật bảo vệ người tiêu dùng không bảo vệ họ như đối với các cá nhân tiêu dùng khác thì quyền lợi của một nhóm đối tượng khá lớn trong xã hội bị xâm phạm, gây thiệt hại chung cho toàn xã hội. Ở nước ta, theo Luật bảo vệ người tiêu dùng năm 2010 thì Người tiêu dùng được hiểu là người mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ cho mục đích tiêu dùng, sinh hoạt của cá nhân, gia đình, tổ chức. Như vậy, người gửi tiền tại NHTM là người cho ngân hàng vay tiền có phải là người tiêu dùng? Hành vi gửi tiền tại ngân hàng, về bản chất pháp lý đồng thời chứa đựng những đặc điểm của hai loại hợp đồng theo quy định của pháp luật, đó là: Hợp đồng vay tài sản theo quy định tại các điều, từ Điều 471 đến Điều 478 của Bộ luật Dân sự năm 2005, trong đó người gửi tiền là bên cho vay và ngân hàng là bên đi vay tài sản và Hợp đồng gửi giữ tài sản theo quy định tại các điều, từ Điều 559 đến Điều 566 của Bộ luật Dân sự, trong đó người gửi tiền là bên gửi và ngân hàng là bên giữ tài sản. 10
  16. Nếu theo loại hợp đồng vay tài sản, thì ngân hàng là người đi vay tiền, khách hàng là người cho vay tiền. Theo đó, về nguyên tắc chung, ngân hàng phải trả lãi cho khách hàng. Nếu theo loại hợp đồng gửi giữ tài sản, thì khách hàng là bên gửi tiền, còn ngân hàng là bên giữ tiền. Theo đó, về nguyên tắc chung, khách hàng “phải trả tiền công” cho ngân hàng vì đã giữ gìn an toàn tài sản theo yêu cầu của mình. Tuy nhiên, việc bên nào phải trả tiền cho bên nào chỉ là tương đối, vì Bộ luật Dân sự cũng có quy định, bên vay tiền có thể không phải trả lãi (Điều 471) và bên gửi tiền cũng có thể không phải trả tiền công (Điều 566). Quy định của Luật các TCTD 2010 không xác định rõ quan hệ gửi tiền là thuộc loại Hợp đồng gửi giữ hay Hợp đồng vay tài sản theo quy định của Bộ luật Dân sự, mà chỉ khẳng định đó là “tiền gửi” của khách hàng và việc “nhận tiền gửi” của các ngân hàng. Theo tác giả, hoạt động nhận tiền gửi của ngân hàng là một loại hợp đồng dân sự đặc biệt, đồng thời có cả đặc điểm của hợp đồng gửi giữ và hợp đồng vay tài sản. Với tư cách là người giữ tài sản, ngân hàng được hưởng “tiền công” từ việc sử dụng tiền vốn của người gửi tiền. Đồng thời, với tư cách là người vay tài sản, ngân hàng phải trả lãi cho người gửi tiền. Nếu chỉ xác định việc gửi tiền theo một quan hệ hợp đồng là không đầy đủ. Với đặc điểm như trên, cần phải đặt người gửi tiền vào vị trí của người sử dụng dịch vụ ngân hàng, hay người “mua hàng”, chứ không phải là người “bán hàng” trong quan hệ với ngân hàng. Như vậy, còn thiếu một quy định rõ ràng trong Bộ luật dân sự cũng như trong Luật Các TCTD để bảo đảm cơ sở pháp lý cho quan hệ pháp luật gửi và nhận tiền gửi. Luật Các TCTD chỉ mới nhắc đến quyền nhận tiền gửi của các TCTD. Còn nội dung quan hệ gửi tiền hiện nay chưa có văn bản cụ thế nào. 11
  17. Điều này là chưa bảo đảm quyền lợi của người gửi tiền, với tư cách là người tiêu dùng. Từ sự phân tích trên, tác giả mạnh dạn đưa ra khái niệm người gửi tiền như sau: Người gửi tiền là khách hàng có một khoản tiền gửi tại TCTD dưới một hình thức nhất định theo quy định của pháp luật phù hợp với mục đích, yêu cầu của khách hàng và TCTD. 1.1.2. Đặc điểm của người gửi tiền Thứ nhất, người gửi tiền có thể là cá nhân hoặc tổ chức. Thông thường khi thực hiện gửi tiền tại NHTM các chủ thể là cá nhân hoặc tổ chức có thể gửi tiền nhằm mục đích tiết kiệm hoặc thanh toán. Nếu nhằm mục đích tiết kiệm thì hiện nay NHTM đang áp dụng Quy chế về Tiền gửi tiết kiệm, ban hành kèm theo Quyết định số 1160/2004/QĐ-NHNN ngày 13-9-2004 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước. Nếu nhằm mục đích thanh toán thì được thực hiện theo Quy chế Mở và sử dụng tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng nhà nước và TCTD, ban hành kèm theo Quyết định số 1284/2002/QĐ-NHNN2 ngày 21-11-2002 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước. Cả hai quy chế này đều quy định: Cá nhân từ đủ 18 tuổi trở lên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ theo quy định của Bộ Luật dân sự được thực hiện mọi giao dịch, còn người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người hạn chế năng lực hành vi dân sự theo quy định của pháp luật thì chỉ được thực hiện các giao dịch thông qua người giám hộ hoặc người đại diện theo pháp luật. Như vậy mọi cá nhân đều có quyền gửi tiền dưới hình thức tiết kiệm hoặc thanh toán vào NHTM. Còn người gửi tiền là tổ chức thường là các doanh nghiệp, cơ quan, đoàn thể, đơn vị vũ trang Việt Nam được thành lập và hoạt động theo quy định của pháp luật VN hoặc tổ chức nước ngoài được thành lập và hoạt động theo quy định của pháp luật nước mà tổ chức đó được thành lập và có nhu cầu gửi tiền tại NHTM. 12
  18. Thứ hai, mục đích của người gửi tiền tại NHTM rất khác nhau và phụ thuộc vào đặc điểm của từng loại tiền gửi mà họ sử dụng. Theo quy định hiện nay, NHTM được thực hiện huy động vốn dưới hình thức tiền gửi bao gồm: Tiền gửi không kỳ hạn và tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm. Tiền gửi không kỳ hạn: Loại tiền gửi này của doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, cá nhân gửi và ngân hàng với mục đích chính để thực hiện các khoản chi trả trong hoạt động sản xuất kinh doanh và tiêu dùng. Với nội dung chi trả như vậy và việc sử dụng séc để thanh toán nên tài khoản tiền gửi không kỳ hạn còn được gọi là tài khoản tiền gửi thanh toán hay tài khoản séc. Đặc điểm của tiền gửi không kỳ hạn là người gửi tiền có thể gửi và rút tiền ra bất kỳ lúc nào trong phạm vi số dư tài khoản. Với tình chất linh hoạt của số dư và người gửi tiền được hưởng các tiện ích thanh toán, nên tiền gửi thanh toán thường không được ngân hàng trả lãi, hoặc được trả lãi nhưng với mức lãi suất thấp. Tiền gửi không kỳ hạn được phản ảnh trên tài khoản có tên gọi “tài khoản tiền gửi không kỳ hạn” hay còn gọi là tài khoản thanh toán. Tính chất của tài khoản thanh toán là luôn luôn dư Có. Tuy nhiên, nếu giữa ngân hàng và người gửi tiền thỏa thuận với nhau sử dụng hình thức thấu chi tài khoản thì tài khoản này có thể dư Có và cũng có thể dư Nợ (nên còn được gọi là tài khoản vãng lai). Ngân hàng không khống chế số dư Có nhưng khống chế số dư Nợ theo một hạn mức đã thỏa thuận giữa ngân hàng và người gửi tiền. Ví dụ: Hạn mức thấu chi là 100 triệu đồng thì dư Nợ cao nhất của tài khoản thanh toán cũng là 100 triệu đồng. Tiền gửi có kỳ hạn: Loại tiền gửi này của các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, cá nhân gửi vào NHTM với mục đích để hưởng lãi. Đặc điểm của tiền gửi có kỳ hạn là người gửi tiền chỉ được lĩnh tiền sau một thời hạn nhất định từ một vài tháng đến một vài năm. Tuy nhiên, do những lý do khác nhau, 13
  19. người gửi tiền có thể rút tiền trước hạn, trường hợp này người gửi tiền không được hưởng lãi, hoặc được hưởng theo lãi suất thấp, tùy theo quy định của mỗi ngân hàng. Tiền gửi có kỳ hạn được phản ảnh trên tài khoản có tên gọi “tiền gửi có kỳ hạn”. Tiền gửi tiết kiệm là khoản tiền của cá nhân được gửi vào tài khoản tiền gửi tiết kiệm, được xác nhận trên thẻ tiết kiệm, được hưởng lãi theo quy định của tổ chức nhân tiền gửi tiết kiệm và được bảo hiểm theo quy định của pháp luật về BHTG. Mục đích của người gửi tiết kiệm là để hưởng lãi và để tích lũy, do vậy tài khoản tiền gửi tiết kiệm không được dùng để phát hành séc hay thực hiện các khoản thanh toán khác ngoại trừ người gửi tiền đề nghị trích tài khoản tiền gửi tiết kiệm để trả nợ vay hay chuyển sang một tài khoản khác của chính chủ tài khoản. Xét về tính chất kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm được chia thành hai loại là tiết kiệm không kỳ hạn và tiết kiệm có kỳ hạn. Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn: là tiền gửi tiết kiệm người gửi tiền có thể rút tiền theo yêu cầu mà không cần báo trước vào bất kỳ ngày làm việc nào của tổ chức nhận tiền gửi tiết kiệm. Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn: là tiền gửi tiết kiệm mà người gửi tiền chỉ có thể rút tiền sau một kỳ hạn gửi tiền nhất định theo thỏa thuận với tổ chức nhận tiền gửi tiết kiệm. Trường hợp người gửi tiền rút tiền trước hạn thì phải có sự thỏa thuận với nơi nhận gửi tiền ngay khi gửi và người gửi tiền chỉ được hưởng lãi suất không vượt quá lãi suất tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn. Nếu người gửi tiền không có sự thỏa thuận trước thì vẫn được lĩnh ra trước hạn nhưng phải chịu một mức phí đối với khoản tiền tiết kiệm rút trước hạn và hưởng lãi suất như trường hợp trên. Xét về mục đích gửi tiền, tiền gửi tiết kiệm được phân thành: Tiết kiệm xây dựng nhà ở, tiết kiệm mua sắm tài sản có giá trị cao, tiết kiệm hưởng lãi và dự thưởng Tiền gửi tiết kiệm được phản ảnh trên các tài khoản “tài khoản tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn”, “tài khoản tiết kiệm có kỳ hạn”, “tài khoản tiết kiệm khác”. 14
  20. Cá nhân người gửi tiền có đủ điều kiện theo quy chế gửi tiền tiết kiệm đứng tên chủ tài khoản tiền gửi tiết kiệm. Nếu nhiều người cùng sở hữu, số tiền gửi theo đúng pháp luật thì đứng tên đồng chủ tài khoản tiền gửi tiết kiệm. Thứ ba, mối quan hệ giữa người gửi tiền và NHTM là một hợp đồng dân sự đặc biệt. Theo BLDS thì hợp đồng được hiểu là sự thỏa thuận của giữa các bên về về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự. Khi người gửi tiền gửi một khoản tiền nhất định của mình vào NHTM thì giữa họ và NHTM đã xác lập một hợp đồng. Tuy nhiên, hợp đồng này đặc biệt ở chỗ, nó vừa mang đặc điểm của hợp đồng vay tài sản, vừa mang đặc điểm của hợp đồng gửi giữ như phân tích ở phần trên. Mặt khác, hình thức thể hiện hợp đồng mang tính nghiệp vụ của ngân hàng là được thể hiện thông qua tài khoản tiền gửi của chính khách hàng tại NHTM. Tài khoản tiền gửi này phản ảnh mối quan hệ kinh tế, pháp lý giữa ngân hàng với người gửi tiền nên giữa ngân hàng với người gửi tiền phải tuân thủ quy chế về mở và sử dụng tài khoản tiền gửi do Thống đốc NHNN ban hành và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan, đồng thời chủ tài khoản phải làm thủ tục mở tài khoản và đăng ký mẫu chữ ký của chủ tài khoản và kế toán trưởng, mẫu con dấu tại các ngân hàng trong trườ ng hơp̣ tổ chứ c mở tài khoản. Ngân hàng được từ chối thanh toán nếu người gửi tiền vi phạm quy định quản lý tài khoản thanh toán và chế độ chứng từ kế toán ngân hàng. 1.2. Sự cần thiết phải bảo vệ quyền lợi ngƣời gửi tiền Thứ nhất, bảo vệ quyền lợi người gửi tiền nhằm bảo đảm và thực hiện quyền con người. Đã từ lâu vấn đề bảo vệ quyền con người ở Việt Nam đã trở thành mục tiêu đạt tới của các chính sách phát triển đất nước. Các quan điểm của Đảng và chính sách phát triển của Nhà nước đều nhằm thực hiện mục tiêu cuối cùng là thực hiện trên thực tế các quyền của con người về dân sự, kinh tế, chính trị, 15
  21. xã hội và văn hóa. Cụ thể tại Điều 14 Hiến pháp1992 sửa đổi năm 2013 quy định: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luât”, Vì vậy thực hiện các quy định pháp luật về bảo vệ quyền của người gửi tiền góp phần thực hiện quyền con người thực tế. Bởi lẽ các quyền của người gửi tiền như quyền được an toàn, quyền được thông tin, quyền được lựa chọn, quyền được lắng nghe ý kiến, quyền được thỏa mãn nhu cầu hợp pháp là các biểu hiện cụ thể của quyền con người trên lĩnh vực kinh tế và xã hội. Một quốc gia không được đánh giá là đảm bảo quyền con người về dân sự, kinh tế và xã hội nếu trong giao dịch với ngân hàng, người gửi tiền không được cung cấp thông tin đầy đủ về các dịch vụ tài chính ngân hàng, không được đảm bảo thuận lợi khi khách hàng gửi và rút tiền, ngân hàng không tham gia BHTG để đảm bảo an toàn tiền gửi. Thứ hai, thực hiện bảo vệ quyền lợi người gửi tiền góp phần duy trì kênh huy động vốn quan trọng và đảm bảo sự hoạt động lành mạnh của các NHTM, góp phần phát triển kinh tế xã hội đất nước. Khi thực hiện kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ ngân hàng, đối với các TCTD nói chung và các NHTM nói riêng thì người gửi tiền có một vai trò đặc biệt quan trọng. Bởi lẽ tiền gửi của họ là nguồn vốn để các NHTM hoạt động kinh doanh và ngân hàng sẽ không thể tồn tại và phát triển được nếu không có nguồn vốn quan trọng này. Trên thực tế, nguồn vốn của NHTM có thể được huy động thông qua các kênh khác nhau như huy động qua nghiệp vụ nhận tiền gửi, huy động qua nghiệp vụ đi vay từ các TCTD khác hay vay từ NHNN, huy động vốn qua phát hành các công cụ nợ, hoặc các hình thức khác như làm dịch vụ bảo lãnh, đại lý phát hành chứng khoán nhưng kênh huy động chủ yếu vẫn là qua nghiệp vụ nhận tiền gửi từ khách hàng gửi tiền. Hiện 16